Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

giao trinh ly thuyet thong ke

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (848.41 KB, 106 trang )

CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU
I. Sơ lược sự ra đời và phát triển của Thống kê
Thống kê học là môn khoa học xã hội, ra đời và phát triển theo nhu cầu của
hoạt động thực tiễn xã hội. Trước khi trở thành môn khoa học, Thống kê có nguồn
gốc lịch sử phát triển khá lâu dài, với cả một quá trình tích luỹ kinh nghiệm và được
đúc rút dần thành lý luận khoa học.
Trong thời cổ đại, tại các quốc gia có sự phát triển như: Hy lạp, La Mã, Trung
Quốc,… người ta đã biết cách ghi chép số liệu. Tuy nhiên, công việc này còn khá đơn
giản, tiến hành trong phạm vi nhỏ hẹp, chưa mang tính thống kê rõ rệt.
Đến thời chiếm hữu nô lệ, các chủ nô thường tìm cách ghi chép, tính toán để
nắm được tài sản của mình như: số nô lệ, số súc vật,… Dưới chế độ phong kiến, hầu
hết các quốc gia Châu Âu, Chấu á đã tổ chức việc đăng ký, kê khai với phạm vi rộng,
nội dung phong phú, có tính chất thống kê rõ rệt. Ví dụ: Đăng ký nhân khẩu, kê khai
ruộng đất,… Thường các cuộc kê khai này phục vụ cho thu thuế và bắt lính của nhà
nước phong kiến; Thời kỳ này, thống kê tuy đã có nhiều tiến bộ nhưng chưa được đúc
rút thành lý luận.
Mãi đến cuối thế kỷ XVII, lực lượng sản xuất phát triển mạnh, phương thức tư
bản chủ nghĩa ra đời, kinh tế hàng hoá, phân công lao động phát triển, tính chất xã
hội hoá của sản xuất ngày càng cao, thị trường được mở rộng không chỉ trong phạm
vi một nước mà còn trên phạm vi thế giới, hoạt động kinh tế xã hội ngày càng phức
tạp, các giai cấp xã hội phân hoá nhanh và đấu tranh giai cấp càng gay gắt. Để phục
vụ cho mục đích kinh tế, chính trị, quân sự; nhà nước tư sản, các chủ tư sản cần nhiều
thông tin thường xuyên về thị trường, giá cả, sản xuất, nguyên liệu, dân số,… Do đó
công tác thống kê phát triển nhanh chóng. Sự cố gắng tìm hiểu các hiện tượng và quá
trình kinh tế, xã hội thông qua các biểu hiện về mặt số lượng, đòi hỏi những người
làm công tác khoa học, quản lý nhà nước đi vào nghiên cứu lý luận và phương pháp
thu thập tính toán số liệu thống kê. Thời kỳ này, các tài liệu sách báo về thống kê
được xuất bản và đưa vào giảng dạy ở các trường đại học, như nhà kinh tế học người
Đức H.Conhring (1606 - 1681) đã giảng phương pháp nghiên cứu hiện tượng xã hội
dựa vào số liệu điều tra cụ thể; Năm 1682 nhà kinh tế học người Anh William Petty


(1623 - 1687) cho xuất bản cuốn “Số học chính trị”, trong cuốn này ông đã dùng
phương pháp so sánh để nghiên cứu hiện tượng thông qua con số thống kê. Đến năm
1759, một giáo sư người Đức G. Achenwall (1719 - 1772) lần đầu tiên dùng từ
10
“Statistik” để chỉ phương pháp nghiên cứu trên. Và sau này người ta dịch nó là
“Thống kê”.
Chủ nghĩa tư bản tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của Thống kê học.
Thống kê là công cụ quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó,
còn một bộ phận khác của thống kê học gắn liền với các khoa học tự nhiên và kỹ
thuật như thống kê vật lý, thống kê sinh vật học và thống kê hoá học,…
Sự ra đời của thống kê học là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự phát
triển của nền sản xuất xã hội, nó là công cụ phục vụ cho mục đích chính trị, kinh tế
của một nước, một giai cấp nhất định. Tính chất và trình độ phát triển của nó phụ
thuộc vào chế độ xã hội, giai cấp sử dụng nó.
Sự phát triển của thống kê học ở nước ta nhìn chung còn nhiều hạn chế, nhưng
cũng đáp ứng được nhu cầu cung cấp thông tin cho lãnh đạo, hình thành hệ thống
thông tin thống kê thống nhất, phản ánh mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội trên cả
nước và phục vụ cho các yêu cầu nhận thức và quản lý của mọi cấp, mọi ngành và
mọi người dân.
II. Đối tượng nghiên cứu thống kê
Thống kê học là môn khoa học xã hội, nó ra đời và phát triển gắn liền với sự
phát triển của nền sản xuất xã hội. Các hiện tượng mà thống kê học nghiên cứu là các
hiện tượng và quá trình xã hội, chủ yếu là các hiện tượng và quá trình kinh tế xã hội,
bao gồm:
- Các hiện tượng về quá trình tái sản xuất mở rộng của cải vật chất xã hội.
- Các hiện tượng về dân số và nguồn lao động.
- Các hiện tượng về đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của dân cư.
- Các hiện tượng về sinh hoạt chính trị, xã hội.
Thống kê học nghiên cứu các hiện tượng xã hội, không nghiên cứu các hiện
tượng tự nhiên. Nhưng giữa các hiện tượng xã hội và hiện tượng tự nhiên có mối

quan hệ chặt chẽ với nhau, cho nên khi nghiên cứu các hiện tượng xã hội thống kê
cũng phải nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố tự nhiên (thời tiết, khí hậu, địa lý)
và kỹ thuật (cải tiến công nghệ, áp dụng kỹ thuật mới,…) đến các hiện tượng và quá
trình xã hội. Khác với các môn khoa học khác, thống kê học không trực tiếp nghiên
cứu bản chất và quy luật của các hiện tượng xã hội. Thống kê học nghiên cứu mặt
lượng trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt chất của hiện tượng xã hội. Mặt lượng
trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt chất của hiện tượng xã hội là những biểu hiện
bằng số lượng về bản chất và tính quy luật của hiện tượng trong thời gian và địa điểm
cụ thể. Những biểu hiện số lượng đó được thể hiện bằng quy mô, kết cấu, quan hệ tỷ
11
lệ, tốc độ phát triển,… của các hiện tượng. Mặt lượng đó không phải là con số trìu
tượng mà là những số liệu có ý nghĩa, gắn liền với nội dung kinh tế - xã hội nhất
định, giúp chúng ta nhận thức được cụ thể bản chất của hiện tượng. Các con số thống
kê phản ánh được mặt chất của hiện tượng vì chất và lượng là hai mặt không thể tách
rời nhau của sự vật và hiện tượng.
Khi nghiên cứu các hiện tượng xã hội thống kê học coi tập hợp gồm nhiều hiện
tượng cá biệt là một tổng thể hoàn chỉnh để nghiên cứu và dùng phương pháp quan
sát số lớn để loại trừ những ảnh hưởng mang tính chất ngẫu nhiên, qua đó nêu lên đầy
đủ và nổi bật những đặc trưng của bản chất và tính quy luật của hiện tượng nghiên
cứu. Nhưng khi nghiên cứu các hiện tượng số lớn thống kê học cũng không bỏ qua
nghiên cứu các hiện tượng cá biệt nhằm giúp cho nhận thức hiện tượng xã hội được
toàn diện, phong phú và sâu sắc hơn.
Hiện tượng kinh tế - xã hội bao giờ cũng tồn tại trong điều kiện cụ thể về thời
gian và không gian. Trong những điều kiện lịch sử khác nhau, hiện tượng kinh tế xã
hội có đặc điểm về chất và biểu hiện về lượng khác nhau. Do vậy, khi sử dụng tài liệu
thống kê vào phân tích tình hình kinh tế - xã hội, phải luôn xét tới điều kiện về thời
gian và không gian cụ thể của hiện tượng mà tài liệu phản ánh.
Tóm lại, thống kê học là môn khoa học xã hội, nó nghiên cứu mặt lượng trong
mối liên hệ mật thiết với mặt chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế - xã hội số
lớn trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể.

III. Một số khái niệm thường dùng trong thống kê
3.1. Tổng thể thống kê
Tổng thể thống kê là khái niệm quan trọng của thống kê học. Nó xác định
phạm vi nghiên cứu của hiện tượng nào đó đang là đối tượng nghiên cứu cụ thể của
ta. Từ đó, ta có thể xác định phạm vi điều tra, tổng hợp và phân tích số liệu của hiện
tượng đó trong thời gian và địa điểm chính xác.
Tổng thể thống kê là một hiện tượng số lớn, là tập hợp các đơn vị (hoặc phần
tử) thuộc hiện tượng nghiên cứu, cần được quan sát, thu thập và phân tích mặt lượng
của chúng theo một hoặc một số tiêu thức nào đó. Hay đơn giản hơn nó là tập hợp
nhiều đơn vị cá biệt trên cơ sở một hoặc một số đặc điểm chung. Ví dụ: Toàn bộ dân
số nước ta có vào 0giờ ngày 01/04/1999 là 76.323.173 người thì đây là một tổng thể
thống kê (ở đây là một tập hợp những người Việt Nam không phân biệt già, trẻ, nam,
nữ, ). Còn các đơn vị (phần tử) cấu thành tổng thể thống kê được gọi là đơn vị tổng
thể.
12
Vậy đơn vị tổng thể là gì? nó là từng đơn vị cá biệt cấu thành nên tổng thể. Ví
dụ: Với tổng thể là toàn bộ dân số cả nước thì đơn vị tổng thể là từng người dân, còn
trong tổng thể các Doanh nghiệp sản xuất công nghiệp thì từng doanh nghiệp là một
đơn vị tổng thể. Và đặc điểm của đơn vị tổng thể là những phần tử không thể chia
nhỏ được nữa. Ngoài đặc điểm giống nhau để cấu thành tổng thể, mỗi đơn vị tổng thể
còn có nhiều đặc điểm riêng.
Cho nên trong nhiều trường hợp, các đơn vị tổng thể được biểu hiện rõ ràng, dễ
xác định, người ta gọi đó là tổng thể bộc lộ. Chẳng hạn: Số công nhân trong một công
ty, số lượng thóc thu hoạch trong vụ mùa, số hàng hoá bán ra trong một tuần của một
cửa hàng,… Tuy nhiên, có những trường hợp ta lại gặp những tổng thể tiềm ẩn, ta
không thể nhận biết được các đơn vị của chúng một cách trực tiếp, ranh giới của tổng
thể không rõ ràng. Loại tổng thể này thường có trong lĩnh vực xã hội như: số người
mê tín dị đoan, số người ham thích chèo, số người thích xem bóng đá,…
Ta thấy rằng, các đơn vị tổng thể chỉ giống nhau ở đặc điểm cơ bản là đặc
trưng của tổng thể, các đặc điểm còn lại có thể khác nhau nhiều hay ít. Khi đó, ta có

tổng thể đồng chất và tổng thể không đồng chất.
Tổng thể đồng chất là tổng thể bao gồm các đơn vị giống nhau về các đặc điểm
chủ yếu có liên quan tới mục đích nghiên cứu. Ví dụ: Các Doanh nghiệp sản xuất
công nghiệp có thể xem là tổng thể đồng chất khi đem so sánh chúng với các đơn vị
sản xuất nông nghiệp, giao thông vận tải,… Còn tổng thể không đồng chất là tổng thể
bao gồm các đơn vị có nhiều đặc điểm chủ yếu khác nhau. Ví dụ: Khi đi sâu nghiên cứu
các loại hình trong tổng thể các Doanh nghiệp sản xuất công nghiệp thì chúng lại là
những tổng thể không đồng chất (có Doanh nghiệp sản xuất máy móc, Doanh nghiệp
sản xuất sắt thép, ).
Ngoài ra, khi nghiên cứu tổng thể người ta còn có tổng thể chung và tổng thể
bộ phận. Vậy, nếu tổng thể chung bao gồm tất cả các đơn vị của tổng thể thì tổng thể
bộ phận chỉ bao gồm một phần của tổng thể chung. Chẳng hạn ta nói toàn bộ sinh
viên Việt Nam - đây là tổng thể chung. Còn khi nói toàn bộ sinh viên trường Đại học
Kinh tế & Quản trị kinh doanh Thái Nguyên - đây là tổng thể bộ phận nằm trong tổng
thể chung (toàn thể sinh viên Việt Nam).
3.2. Tiêu thức thống kê
Khi nghiên cứu thống kê phải dựa vào đặc điểm của đơn vị tổng thể. Mỗi đơn
vị tổng thể đều có nhiều đặc điểm, trong đó có một đặc điểm cấu thành tổng thể (tức
là các đơn vị tổng thể đều có đặc điểm đó) và các đặc điểm khác. Ví dụ tổng thể nhân
khẩu nước ta đều có đặc điểm chung (cấu thành tổng thể) là người Việt Nam, ngoài ra
13
còn các đặc điểm khác như giới tính, độ tuổi, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, trình
độ học vấn, nơi cư trú,… Và các
đặc điểm này được gọi là các tiêu thức thống kê.
Tiêu thức thống kê được chia thành hai loại sau:
3.2.1. Tiêu thức thuộc tính (Hay tiêu thức chất lượng)
Tiêu thức thuộc tính (tiêu thức chất lượng) phản ánh tính chất của đơn vị tổng
thể, nó không biểu hiện trực tiếp bằng các con số mà biểu hiện bằng chữ viết như:
giới tính, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, nhân cách,…
Tiêu thức thuộc tính có thể biểu hiện trực tiếp hoặc gián tiếp. Chẳng hạn giới

tính, nghề nghiệp là tiêu thức thuộc tính biểu hiện trực tiếp còn nhân cách là tiêu thức
biểu hiện gián tiếp (thấy được thông qua các chỉ tiêu khác).
3.2.2. Tiêu thức số lượng
Tiêu thức số lượng là tiêu thức được biểu hiện bằng con số. Chẳng hạn: số
nhân khẩu tại một địa phương, số lao động trong một nông trường,…
Các tiêu thức thuộc tính, số lượng đều góp phần vào việc xác định đơn vị tổng
thể cũng như tổng thể, nhờ đó chúng ta có thể phân biệt đơn vị này với đơn vị khác,
tổng thể này với tổng thể khác.
3.3. Chỉ tiêu thống kê
Chỉ tiêu thống kê phản ánh lượng gắn với chất của các mặt, các tính chất cơ
bản của hiện tượng số lớn trong điều kiện địa điểm và thời gian cụ thể. Tính chất của
các hiện tượng cá biệt được khái quát hoá trong chỉ tiêu thống kê. Do đó, chỉ tiêu
thống kê thường mang tính tổng hợp, biểu hiện đặc điểm của cả tổng thể. (Đây cũng
chính là căn cứ để phân biệt chỉ tiêu và tiêu thức).
Trong bản thân mỗi chỉ tiêu thống kê có hai mặt: Khái niệm và con số. Khái
niệm quy định nội dung kinh tế - xã hội của chỉ tiêu. Con số của chỉ tiêu nêu lên mức
độ của chỉ tiêu trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể.
Khi căn cứ vào nội dung, có thể chia các chỉ tiêu thống kê thành hai loại: Chỉ
tiêu chất lượng và chỉ tiêu khối lượng. Chỉ tiêu chất lượng biểu hiện tính chất, trình
độ phổ biến, mối quan hệ của tổng thể. Có một số chỉ tiêu chất lượng không thể biểu
hiện được bằng con số một cách trực tiếp (chỉ dừng lại ở khái niệm và biểu hiện một
cách gián tiếp thông qua các chỉ tiêu khác) như giá thành đơn vị sản phẩm, năng suất
lao động,… Còn chỉ tiêu khối lượng biểu hiện quy mô của tổng thể. Chẳng hạn như
số công nhân trong một xưởng sản xuất, số sản phẩm sản xuất ra của một doanh
nghiệp,… Đây là hai loại chỉ tiêu thường được sử dụng nhiều trong phân tích kinh tế
cũng như trong phân tích thống kê.
14
IV. Các loại thang đo
Theo tính chất của việc đo lường, thường có 4 loại thang đo là: Định danh, thứ
bậc, khoảng và tỷ lệ.

4.1. Thang đo định danh
Thang đo định danh (cách khác gọi là đặt tên) là đánh số các biểu hiện cùng
loại của tiêu thức. Ví dụ: giới tính biểu hiện “nam” được đánh số 1 và “nữ” được
đánh số 2. Ta thấy rằng giữa các con số ở đây không có quan hệ hơn, kém. Cho nên,
các phép tính với chúng đều vô nghĩa. Do vậy, thang này dùng để đếm tần số của
biểu hiện tiêu thức.
4.2. Thang đo thứ bậc
Thang đo thứ bậc là thang đo định danh, nhưng giữa các biểu hiện tiêu thức có
quan hệ thứ bậc, hơn, kém. Sự chênh lệch giữa các biểu hiện không nhất thiết phải
bằng nhau. Ví dụ: Huân chương có ba hạng: hạng một, hai và ba. Trình độ văn hoá
phổ thông có ba cấp: cấp I, cấp II và cấp III. Con số có trị số lớn không có nghĩa là
bậc cao và ngược lại, mà do sự quy định. Vì vậy, thang này dùng để tính toán đặc
trưng chung của tổng thể một cách tương đối, trong một số trường hợp như tính
bậc thợ bình quân của một xí nghiệp sản xuất.
4.3. Thang đo khoảng
Thang đo khoảng là thang đo thứ bậc của các khoảng cách đều nhau. Cho nên
có thể đánh giá sự khác biệt giữa các biểu hiện bằng thang đo này. Việc cộng trừ các
con số có ý nghĩa, có thể tính các đặc trưng chung như số bình quân, phương sai. Yêu
cầu có khoảng cách đều là đặt ra với thang đo, còn biểu hiện của tiêu thức được đo
không nhất thiết phải bằng nhau.
4.4. Thang đo tỷ lệ
Thang đo tỷ lệ là thang đo khoảng với một điểm không (0) tuyệt đối (điểm
gốc) để có thể so sánh được tỷ lệ giữa các trị số đo. Với thang đo này ta có thể đo
lường được các biểu hiện của tiêu thức như các đơn vị đo lường vật lí thông thường
(kg, lít, m,…) và thực hiện được tất cả các phép tính với trị số đo.
Theo tuần tự, thang đo sau có chất lượng đo lường cao hơn thang đo trước,
đồng thời việc xây dựng thang đo cũng phức tạp hơn. Nếu như việc xây dựng thang
đo định danh là rất đơn giản thì để xây dựng các thang đo còn lại thông thường người
ta phải lấy ý kiến chuyên gia kết hợp với vận dụng phương pháp tính toán thích hợp
Và phương pháp xây dựng thang đo cụ thể sẽ được trình bày cụ thể trong giáo trình

thống kê ngành hay lĩnh vực, khi phải vận dụng trực tiếp đến một thang đo nào đó.
15
Chương II
QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA THỐNG KÊ
I. Điều tra thống kê
1.1. Khái niệm, ý nghĩa và nhiệm vụ của điều tra thống kê
* Khái niệm: Điều tra thống kê là việc tổ chức một cách khoa học và theo một kế
hoạch thống nhất để thu thập, ghi chép nguồn tài liệu ban đầu về hiện tượng nghiên
cứu trong điều kiện về thời gian, không gian cụ thể.
* ý nghĩa:
- Điều tra thống kê có nhiệm vụ thu thập các tài liệu ban đầu dùng làm căn cứ cho
việc tổng hợp và phân tích thống kê.
- Điều tra thống kê được tổ chức một cách khoa học, chặt chẽ sẽ cung cấp tài liệu
tin cậy về việc thực hiện các kế hoạch, các nguồn tài nguyên và khả năng tiềm tàng
của nền kinh tế.
- Tài liệu thống kê chính xác và được cung cấp có hệ thống sẽ là những căn cứ
thực tế vững chắc để xây dựng và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch, đồng thời là
cơ sở để đề ra các chính sách phát triển kinh tế – xã hội.
* Nhiệm vụ: là cung cấp tài liệu cần thiết cho các khâu tiếp theo của quá trình
nghiên cứu.
Do vậy, nó phải đảm bảo các yêu cầu sau :
- Tính trung thực nghĩa là người thu thập thông tin phải tuyệt đối trung thực ghi
chép những điều được nghe, được thấy, các câu hỏi đạt ra phải khách quan, không
gợi ý, không áp đặt. Đối với người cung cấp thông tin yêu cầu phải chính xác, không
được che dấu và khai man thông tin.
- Tính chính xác nghĩa là tài liệu điều tra phải phản ánh đúng trạng thái của các đơn vị
tổng thể. Vì vậy, phải ghi chép trung thực, có trình độ chuyên môn và có tinh thần trách
nhiệm.
- Tính kịp thời nghĩa là cung cấp tài liệu phải đúng lúc cần thiết để phát huy hết
tác dụng của tài liệu đó. Yêu cầu kịp thời được khẳng định bởi thời gian kết thúc việc

thu thập ghi trong tài liệu điều tra.
- Tính đầy đủ có nghĩa là tài liệu điều tra phải được thu thập theo đúng nội dung và số
đơn vị tổng thể đã quy định trong văn kiện điều tra. Tài liệu điều tra đầy đủ mới đáp ứng
được mục đích nghiên cứu, đảm bảo việc xử lý được hoàn hảo.
1.2. Các loại điều tra thống kê
16
1.2.1. Điều tra thường xuyên và điều tra không thường xuyên
Căn cứ vào tính chất liên tục, tính hệ thống của các cuộc điều tra, ta có thể phân biệt
hai loại điều tra thống kê: Điều tra thường xuyên và điều tra không thường xuyên.
a. Điều tra thường xuyên là thu thập tài liệu một cách liên tục gắn với quá trình phát
sinh, phát triển của hiện tượng. Chẳng hạn: Sự biến động nhân khẩu tại một địa phương,
hay số sản phẩm sản xuất ra của doanh nghiệp, số nguyên vật liệu tiêu dùng cho sản xuất,
… Loại điều tra này giúp theo dõi tỷ mỉ tình hình phát triển của hiện tượng theo thời
gian. Nó được áp dụng đối với hiện tượng biến động nhanh. Tài liệu điều tra thường
xuyên là cơ sở để lập báo cáo thống kê định kỳ, là căn cứ để kiểm tra tình hình thực hiện
kế hoạch, phản ánh kết quả tích luỹ của hiện tượng trong một thời kỳ.
b. Điều tra không thường xuyên là thu thập tài liệu ban đầu về hiện tượng không
thường xuyên, liên tục, không gắn liền với quá trình phát sinh, phát triển của hiện
tượng. Điều tra không thường xuyên có thể chia thành điều tra không thường xuyên
định kỳ và điều tra không thường xuyên không định kỳ. Trong đó: điều tra không
thường xuyên định kỳ được tiến hành lặp đi lặp lại theo một chu kỳ nhất định như
tổng điều tra dân số, kiểm kê hàng hoá tồn kho định kỳ,… Còn điều tra không thường
xuyên không định kỳ như điều tra nghiên cứu thị trường, thăm dò ý kiến khách hàng
hay điều tra thiên tai,… Loại điều tra này thường áp dụng cho những trường hợp
không xảy ra thường xuyên hoặc xảy ra thường xuyên nhưng không cần theo dõi
thường xuyên. Điều tra không thường xuyên thường đi sâu vào khía cạnh chuyên
môn thường nghiên cứu.
1.2.2. Điều tra toàn bộ và không toàn bộ
Căn cứ vào phạm vi của đối tượng được điều tra thực tế, điều tra thống kê được
phân thành điều tra toàn bộ và điều tra không toàn bộ.

a. Điều tra toàn bộ là thu thập tài liệu của toàn bộ tổng thể (hay tổng điều tra). Ví
dụ: tổng điều tra dân số, tổng điều tra đàn gia súc,… Điều tra toàn bộ cung cấp tài
liệu đầy đủ nhất cho nghiên cứu thống kê, giúp cho việc tính toán các chỉ tiêu phản
ánh quy mô, khối lượng của hiện tượng được chính xác làm cơ sở đề ra những quyết
định trong quản lý. Tuy nhiên, chi phí cho điều tra toàn bộ rất lớn, đòi hỏi phải tổ
chức chỉ đạo khoa học chặt chẽ. Song, trong thực tế có những trường hợp nhất thiết
phải điều tra toàn bộ như tổng điều tra dân số mặc dù kinh phí điều tra rất lớn.
b. Điều tra không toàn bộ là thu thập tài liệu của một số đơn vị chọn ra từ tổng thể
chung. Ví dụ: điều tra thu nhập và chi tiêu gia đình, điều tra dư luận xã hội, điều tra
giá cả hàng hoá trên thị trường,… Điều tra không toàn bộ được sử dụng nhiều trong
nghiên cứu thống kê vì có những ưu điểm: tiến hành gọn nhẹ, nhanh chóng, đáp ứng
17
yêu cầu quản lý, tiết kiệm chi phí. Ngoài ra, do phạm vi điều tra được thu hẹp nên có
thể mở rộng nội dung điều tra để nghiên cứu hiện tượng toàn diện và chi tiết hơn.
Tuỳ theo yêu cầu nghiên cứu người ta chia điều tra không toàn bộ ra thành 3 loại:
+ Điều tra chọn mẫu là điều tra trên một số đơn vị tổng thể chung theo phương
pháp khoa học. Kết quả điều tra mẫu được suy rộng cho tổng thể chung. Loại điều tra
này có thể thay thế cho điều tra toàn bộ, khi chưa có điều kiện điều tra toàn bộ.
Ví dụ: Điều tra năng suất lúa, điều tra mức sống dân cư,…
+ Điều tra trọng điểm là chỉ điều tra ở một bộ phận chủ yếu của tổng thể chung.
Kết quả điều tra mặc dù không suy rộng cho toàn tổng thể, nhưng vẫn giúp ta nắm
được những đặc điểm cơ bản của hiện tượng vì nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thể.
Ví dụ: điều tra các vùng chuyên canh một loại cây trồng cụ thể như trồng chè ở Thái
Nguyên, hay cà phê ở Đắk Lắk,…
+ Điều tra chuyên đề là chỉ điều tra một số rất ít, thậm chí chỉ một đơn vị tổng thể,
nhưng lại đi sâu nghiên cứu chi tiết mọi khía cạnh khác nhau của đơn vị đó. Loại điều
tra này thường nhằm nghiên cứu kỹ những điển hình để phân tích, tìm hiểu nguyên
nhân, rút ra kinh nghiệm nên kết quả điều tra chuyên đề thường không dùng để suy
rộng. Ví dụ: Điều tra các điển hình tiên tiến hay lạc hậu trong sản xuất kinh doanh,…
Bất kỳ cuộc điều tra nào cũng đều chứa đựng hai sự phân loại trên: thường xuyên

hoặc không thường xuyên, toàn bộ hoặc không toàn bộ.
1.3. Phương pháp thu thập tài liệu điều tra
Để thu thập thôn tin trong điều tra thống kê, người ta có thể sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau. Tuỳ theo điều kiện thực tế về đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu,
khả năng về tài chính, thời gian, kinh nghiệm, trình độ của người tổ chức và điều tra
viên để lựa chọn phương pháp điều tra thích hợp. Phần này sẽ trình bày những vấn
đề chung của một số phương pháp chủ yếu trong điều tra thống kê.
1.3.1. Thu thập trực tiếp
* Quan sát: Quan sát là thu thập dữ liệu bằng cách quan sát các hành động, thái độ
của đối tượng khảo sát trong những tình huống nhất định.
* Phỏng vấn trực tiếp: Người điều tra viên trực tiếp hỏi đối tượng được điều tra và
tự ghi chép dữ liệu vào bảng câu hỏi hay phiếu điều tra. Phương pháp phỏng vấn trực
tiếp phù hợp với những cuộc điều tra phức tạp cần thu thập nhiều dữ liệu. Ưu điểm là
thời gian phỏng vấn có thể ngắn hay dài tuỳ thuộc vào số lượng dữ liệu cần thu thập và
người điều tra viên trực tiếp phỏng vấn có điều kiện để có thể giải thích một cách đầy
đủ, cặn kẽ, đặt những câu hỏi chi tiết để khai thác thông tin và kiểm tra dữ liệu trước
khi ghi chép vào phiếu điều tra.
18
1.3.2. Thu thập gián tiếp
Người điều tra viên thu thập tài liệu qua trao đổi bằng điện thoại, hoặc thư gửi qua
bưu điện với đơn vị điều tra hoặc qua chứng từ, sổ sách có sẵn ở đơn vị điều tra.
Đặc điểm cơ bản của phương pháp này là người hỏi và người trả lời không trực
tiếp gặp nhau. Quá trình hỏi - đáp diễn ra thông qua một vật trung gian là phiếu điều
tra. Muốn nâng cao chất lượng các thông tin thu được cần chú ý đến một số điều kiện
cơ bản:
- Người được hỏi phải có trình độ văn hoá cao, có ý thức trách nhiệm và tự giác.
- Phiếu điều tra phải ngắn gọn.
- Các câu hỏi phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ trả lời.
- Phải thiết lập được một mạng lưới phân phát và thu hồi phiếu điều tra hợp lý,
hoạt động có kết quả, không để bị thất lạc phiếu.

Ưu điểm cơ bản của phương pháp là dễ tổ chức, tiết kiệm chi phí và điều tra viên.
Tuy nhiên, lại khó có thể kiểm tra, đánh giá được độ chính xác của các câu hỏi, tỷ lệ
thu hồi phiếu trong nhiều trường hợp là không cao, nội dung điều tra bị hạn chế.
Phương pháp này có thể sử dụng hiệu quả trong điều kiện trình độ dân trí cao.
1.4. Tổ chức phương án điều tra
Để tổ chức tốt một cuộc điều tra chuyên môn, đòi hỏi phải xây dựng được phương
án điều tra thật chi tiết, tỉ mỉ, cụ thể và toàn diện. Đây chính là văn kiện hướng dẫn
thực hiện cuộc điều tra, trong đó xác định rõ những bước tiến hành, những vấn đề cần
phải giải quyết, cần được hiểu thống nhất trong suốt quá trình thực hiện. Đối với các
cuộc điều tra lớn, có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, như Tổng điều tra dân số,
việc xây dựng phương án điều tra cần có sự phối hợp, bàn bạc thống nhất giữa cơ
quan thống kê và các ngành có liên quan và phải được cấp trên có thẩm quyền phê
duyệt. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, phương án điều tra thường được xây
dựng dưới dạng "đề xuất kỹ thuật" và "đề xuất tài chính" cho cuộc nghiên cứu. Đây
chính là căn cứ đến cơ quan có thẩm quyền phê duyệt hoặc là căn cứ để cơ quan chủ
quan tiến hành xét chọn thầu theo quy định chung của nhà nước.
Phương án của mỗi cuộc điều tra có thể khác nhau, tuỳ thuộc điều kiện cụ thể của
nó. Nhưng nhìn chung, mỗi phương án điều tra thường gồm những nội dung chủ yếu
sau:
- Xác định mục đích điều tra.
- Xác định phạm vi, đối tượng và đơn vị điều tra.
- Xác định nội dung điều tra và thiết lập phiếu điều tra.
- Chọn thời điểm, thời kỳ và thời hạn điều tra.
19
- Lựa chọn phương pháp điều tra, tổng hợp số liệu và phương pháp tính các chỉ
tiêu điều tra.
- Xây dựng phương án tài chính cho cuộc điều tra.
- Lập kế hoạch tổ chức và tiến hành điều tra.
1.4.1. Xác định mục đích điều tra
Bất kỳ một hiện tượng kinh tế - xã hội nào cũng đều có thể được quan sát, xem xét,

nghiên cứu trên nhiều mặt, nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau. Nghiên cứu trên
mỗi mặt, mỗi khía cạnh khác nhau sẽ cho ta đưa ra những kết luận khác nhau về hiện
tượng và phục vụ những yêu cầu nghiên cứu cũng khác nhau. Vì vậy, trước khi tiến
hành điều tra, cần xác định rõ xem cuộc điều tra này nhằm tìm hiểu vấn đề gì, phục vụ
cho yêu cầu nghiên cứu nào. Đó chính là mục đích của cuộc điều tra.
Mục đích điều tra còn là một trong những căn cứ quan trọng để xác định đối
tượng, đơn vị điều tra, xây dựng kế hoạch và nội dung điều tra. Vì vậy, việc xác định
đúng, rõ ràng mục đích điều tra sẽ là cơ sở quan trọng cho việc thu thập số liệu ban
đầu đầy đủ, hợp lý, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu đặt ra.
Căn cứ để xác định mục đích điều tra thường là những nhu cầu thực tế cuộc sống,
hoặc những nhu cầu hoàn chỉnh lý luận Những nhu cầu này được biểu hiện trực tiếp
bằng các yêu cầu, đề nghị, mong muốn của cơ quan chủ quản (người sử dụng thông
tin). Đối với những cuộc điều tra lớn ở nước ta, có liên quan đến toàn bộ đất nước,
như Tổng điều tra dân số, việc xác định mục đích điều tra cần phải căn cứ vào định
hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, và đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước trong từng thời kỳ cụ thể. Mục đích của cuộc tổng điều tra dân
số năm 1999 nhằm phục vụ công tác nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển kinh tế
- xã hội và dân số nước ta, Kiểm điểm tình hình thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến
dân số, lao động. Trên cơ sở đó, đáp ứng yêu cầu xây dựng kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội thời kỳ 2000-2010.
1.4.2. Xác định phạm vi, đối tượng và đơn vị điều tra
Xác định đối tượng điều tra là xác định xem những đơn vị tổng thể nào thuộc
phạm vi điều tra, cần được thu thập thông tin. Như vậy, khi các đối tượng điều tra
được chỉ rõ, cũng có nghĩa là phạm vi nghiên cứu đã được xác định, gianh giới giữa
hiện tượng nghiên cứu với các tổng thể khác, hiện tượng khác cũng được phân biệt rõ
ràng, tránh được tình trạng trùng lặp hay bỏ sót khi tiến hành điều tra.
Muốn xác định chính xác đối tượng điều tra, một mặt phải dựa vào sự phân tích lý
luận, nêu lên những tiêu chuẩn cơ bản phân biệt hiện tượng nghiên cứu với các hiện
tượng liên quan, phân biệt đơn vị tổng thể này với các đơn vị tổng thể khác, đồng thời
20

cũng còn phải căn cứ vào mục đích nghiên cứu. Trong cuộc tổng điều tra dân số ngày
1/4/1999 ở nước ta, đối tượng điều tra được xác định là "nhân khẩu thường trú". Điều
này, vừa giúp thực hiện tốt các mục đích điều đã được nêu rõ trong mục trên, vừa giúp
cho quá trình điều tra không bị trùng hay bỏ sót bất kỳ một nhân khẩu nào của nước ta.
Tuy nhiên, trong phương án điều tra cũng cần phải những quy định cụ thể về tiêu
chuẩn xác định "nhân khẩu thường trú" để tránh nhầm lẫn.
Đơn vị điều tra là đơn vị thuộc đối tượng điều tra và được điều tra thực tế. Đơn vị
điều tra chính là nơi phát sinh các tài liệu ban đầu, điều tra viên cần đến đó thể thu
thập trong mỗi cuộc điều tra. Như vậy, nếu việc xác định đối tượng điều tra là trả lời
câu hỏi "điều tra ở đâu?. Trong một số trường hợp, đơn vị điều tra và đối tượng điều
tra có thể trùng nhau. Ví dụ, trong cuộc điều tra nghiên cứu tình hình phát triển của
các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước thành phố Thái Nguyên, thì cả đối tượng và
đơn vị điều tra đều là các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước của thành phố. Nhưng
cũng có nhiều trường hợp, chúng lại khác nhau. Ví dụ, trong tổng điều tra dân số ở
nước ta ngày 1/4/1999, đối tượng điều tra là "nhân khẩu thường trú", còn đơn vị điều
tra lại được xác định là các "hộ gia đình" và các "hộ tập thể". Trong các cuộc điều tra
chọn mẫu, đơn vị điều tra chỉ bao gồm những đối tượng được chọn vào mẫu.
Cần phân biệt đơn vị điều tra và đơn vị tổng thể. Đơn vị tổng thể là các phần tử,
các đơn vị cấu thành hiện tượng, mà qua đó ta có thể xác định được quy mô tổng thể.
Việc xác định số đơn vị tổng thể liên quan đến việc lập phương án điều tra, chọn
phương pháp điều tra, ước lượng kinh phí điều tra còn việc xác định số đơn vị điều
tra lại liên quan đến việc tổ chức ghi chép, đăng ký tài liệu, phân bổ cán bộ.
1.4.3. Xác định nội dung điều tra và thiết lập phiếu điều tra
Xác định nội dung điều tra là việc trả lời các câu hỏi "điều tra cái gì?". Nội dung
điều tra là toàn bộ các đặc điểm cơ bản của từng đối tượng, từng đơn vị điều tra, mà ta
cần thu được thông tin. Trong thực tế, các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu thường có
rất nhiều đặc điểm khác nhau. Tuy nhiên, ta không thể và cũng không cần thiết phải
thu thập thông tin của toàn bộ các tiêu thức đó, mà chỉ cần những tiêu thức có liên
quan đến mục đích nghiên cứu, phục vụ được cho việc nghiên cứu. Vì vậy, bất kỳ cuộc
điều tra nào cũng cần phải xác định rõ, thật cụ thể nội dung điều tra.

Việc xác định nội dung điều tra, cần căn cứ vào các yếu tố sau:
- Mục đích điều tra: Mục đích điều tra chỉ rõ cần thu thập những thông tin nào để
đáp ứng yêu cầu của nó. Mục đích điều tra khác nhau, nhu cầu thông tin cũng khác
nhau. Mục đích càng nhiều, nội dung điều tra càng rộng, càng phong phú.
21
- Đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu: Tất cả những hiện tượng mà thống kê
nghiên cứu đều tồn tại trong những điều kiện cụ thể về thời gian và không gian. Khi
điều kiện này thay đổi, đặc điểm của hiện tượng cũng thay đổi. Khi đó, các biểu hiện
của chúng cũng khác nhau. Vì vậy, việc lựa chọn tiêu thức nghiên cứu cũng phải
khác nhau.
- Năng lực, trình độ thực tế của đơn vị, của người tổ chức điều tra. Điều này biểu
hiện ở khả năng về tài chính, về thời gian, về kinh nghiệm và trình độ tổ chức điều tra.
Nếu tất cả các yếu tố này được đảm bảo tốt, có thể mở rộng nội dung điều tra, nhưng vẫn
đảm bảo chất lượng của các thông tin thu được. Trường hợp ngược lại, cần kiên quyết
loại bỏ những nội dung chưa thực sự cần thiết.
Ngoài ra, nội dung điều tra cũng chỉ nên bao gồm những tiêu thức có liên hệ chặt
chẽ với nhau, để có thể kiểm tra tính chính xác của những thông tin thu được.
Để có thể thu được những thông tin một cách chính xác và đầy đủ, nội dung của
mỗi cuộc điều tra phải được diễn đạt thành những câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu
và mọi người đều hiểu theo một nghĩa thống nhất. Về mặt hình thức, các câu hỏi này
có thể được diễn đạt theo hai cách: Câu hỏi đóng là các câu hỏi đã có sẵn các phương
án trả lời (thang điểm) có thể người trả lời chỉ cần chọn 1 trong những cách trả lời đã
được đưa ra. Câu hỏi mở không có trước những phương án trả lời, người được hỏi tự
diễn đạt câu trả lời. Các cuộc điều tra thống kê ít sử dụng loại câu hỏi thứ hai này.
Trong cuộc Tổng điều tra dân số được tiến hành vào 21/4/1999 ở nước ta, nội dung
điều tra được thể hiện trong 18 câu hỏi. Những nội dung chủ yếu của cuộc tổng điều
tra này là: Họ tên, quan hệ với chủ hộ, giới tính, dân tộc, tôn giáo, nơi thực tế thường
trú, tình trạng đi học và trình độ học vấn cao nhất đã đạt được, trình độ chuyên môn
kỹ thuật, tình trạng việc làm, lĩnh vực làm việc,
Phiếu điều tra là tập hợp các câu hỏi của nội dung điều tra, được sắp xếp theo một

trật tự logic nhất định. Tuỳ theo yêu cầu, nội dung và đối tượng, mỗi cuộc điều tra có
thể phải xây dựng nhiều loại phiếu khác nhau. Trong tổng điều tra dân số, người ta
xây dựng hai loại phiếu: Phiếu hộ và phiếu cá nhân. Trong hai cuộc điều tra mức
sống dân cư Việt Nam (1997-1998 và 2002-2003) do Tổng cục Thống kê thực hiện,
ngoài việc thu thập những thông tin chủ yếu từ các hộ gia đình, còn cần những thông
tin về cộng đồng, về giá cả thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến mức sống của người
dân, nên người ta phải sử dụng đến 5 loại phiếu khác nhau: Bảng câu hỏi hộ gia đình,
bảng câu hỏi xã/thôn, bảng câu hỏi trường học, bảng câu hỏi trạm y tế và bảng câu
hỏi về giá.
22
Thông thường, trong các văn kiện của cuộc điều tra, người ta còn ban hành bản giải
thích cách ghi phiếu điều tra. Bản giải thích này thường đi kèm theo phiếu điều tra và
người trả lời nhận thức thống nhất các câu hỏi được đặt ra, cách thu thập và ghi chép số
liệu. Đối với những câu hỏi phức tạp, khó trả lời người ta còn đặt ra những ví dụ cụ thể
và những quy định về các trường hợp ngoại lệ
1.4.4. Chọn thời điểm, thời kỳ và quyết định thời hạn điều tra
Các hiện tượng kinh tế - xã hội mà thống kê nghiên cứu luôn thay đổi theo thời
gian và không gian. Muốn thu thập được chính xác các thông tin về chúng, cần có
quy định thống nhất về thời điểm, thời kỳ và thời hạn điều tra.
Thời điểm điều tra: Là mốc thời gian được quy định thống nhất mà cuộc điều tra
phải thu thập thông tin về hiện tượng tồn tại đúng thời điểm đó, thì người trả lời phải
hồi tưởng lại để "miêu tả trạng thái của hiện tượng" vào đúng thời điểm điều tra. Ví dụ,
thời điểm của cuộc tổng điều tra dân số lần thứ ba ở nước ta được xác định vào 0 giờ
ngày 1/4/1999. Như vậy, số dân nước ta có tại cuộc điều tra này chỉ tính những người
sinh trưởng 0 giờ 1/4/1999 và đến thời điểm này đang còn sống.
Thời kỳ điều tra: Là khoảng thời gian (tuần, tháng, năm ) được quy định để thu
thập số liệu về lượng của hiện tượng được tích luỹ trong cả thời kỳ đó.
Thời hạn điều tra: Là khoảng thời gian dành cho việc thực hiện nhiệm vụ thu thập
số liệu. Thời hạn dài hay ngắn phụ thuộc vào quy mô, tính phức tạp của hiện tượng
nghiên cứu và nội dung điều tra, khả năng, kinh nghiệm của điều tra viên. Nhìn

chung, thời hạn điều tra không nên quá dài, cách quá xa thời điểm điều tra vì có thể
làm mất thông tin do người trả lời không nhớ đầy đủ các sự kiện đã xảy ra.
1.4.5. Lập kế hoạch tổ chức và tiến hành điều tra
Lập kế hoạch tổ chức và tiến hành điều tra là một vấn đề trọng yếu của điều tra
thống kê. Kế hoạch này quy định cụ thể từng bước công việc phải tiến hành trong quá
trình từ khâu tổ chức đến triển khai điều tra thực tế. Vì vậy, nó được xây dựng càng
chi tiết, tỷ mỉ, rõ ràng, cụ thể thì càng dễ thực thi, chất lượng của cuộc điều tra càng
được nâng cao. Tuy nhiên, đây là một công việc phức tạp, đòi hỏi người lập kế hoạch
phải có kinh nghiệm và am hiểu tình hình thực tế. Một kế hoạch tổ chức và tiến hành
điều tra gồm rất nhiều khâu công việc. Thông thường, nó có thể gồm một số khâu chủ
yếu là:
- Thành lập ban chỉ đạo điều tra và quy định nhiệm vụ cụ thể cho cơ quan điều tra
các cấp.
- Chuẩn bị lực lượng cán bộ điều tra, phân công trách nhiệm, địa bàn cho từng cán
bộ và tiến hành tập huấn nghiệp vụ cho họ.
23
- Lựa chọn phương pháp điều tra thích hợp.
- Định các bước tiến hành điều tra.
- Phân chia khu vực và địa bàn điều tra.
- Tổ chức các cuộc hội nghị chuẩn bị.
- Tiến hành điều tra thử để rút kinh nghiệm, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán
bộ điều tra và hoàn thiện phương án điều tra, phiếu điều tra.
- Xây dựng phương án tài chính và chuẩn bị các phương tiện vật chất khác.
- Tuyên truyền mục đích, ý nghĩa của cuộc điều tra.

1.5. Xây dựng bản câu hỏi và kỹ thuật đặt câu hỏi
1.6. Sai số trong điều tra và biện pháp khắc phục
- Sai số trong điều tra thống kê là chênh lệch giữa trị số của đặc điểm điều tra thu
thập được so với trị số thực của hiện tượng nghiên cứu.
Có hai nguyên nhân tạo ra sai số:

+ Sai số do ghi chép: Do người điều tra quan sát sai, sử dụng công cụ đo lường sai,
do vô tình ghi chép sai, đối tượng trả lời sai do không hiểu nội dung câu hỏi hoặc do
người điều tra và đối tượng điều tra cố tình làm sai.
+ Sai số do tính chất đại biểu: Chỉ xảy ra trong điều tra chọn mẫu do việc lựa chọn
số đơn vị mẫu để điều tra không đầy đủ tính chất đại biểu.
- Biện pháp khắc phục:
+ Để hạn chế sai số, cần tập huấn kỹ nội dung điều tra, tuyển chọn điều tra viên
theo tiêu chuẩn nghiêm ngặt, chuẩn bị đầy đủ dụng cụ đo lường nếu cuộc điều tra cần
và thường xuyên kiểm tra khi cuộc điều tra được tiến hành.
+ Tài liệu thu thập cũng cần được kiểm tra về tính logíc, xem xét độ hợp lý của tài
liệu, phát hiện các bất thường để thẩm tra lại và kiểm tra về mặt tính toán (cộng hàng
và cột, đơn vị tính, biểu này và biểu trước). Làm tốt khâu này sẽ hạn chế được nhiều
sai sót và không mất nhiều thời gian điều tra.
II. Tổng hợp thống kê
2.1. Khái niệm, ý nghĩa và nhiệm vụ của tổng hợp thống kê
* Khái niệm: Tổng hợp thống kê là tiến hành tập trung, chỉnh lý và hệ thống hoá
một cách khoa học các tài liệu ban đầu thu thập được trong điều tra thống kê.
* ý nghĩa: Tổng hợp thống kê là căn cứ cho phân tích dự đoán thống kê; tổng hợp
thống kê chính xác làm cho kết quả điều tra trở nên có giá trị và tạo điều kiện cho
phân tích sâu sắc bản chất và tính quy luật của hiện tượng. Tài liệu của điều tra thống
24
kê dù có phong phú và chính xác, mà tổng hợp thống kê không khoa học thì cũng
không rút ra được số liệu chính xác để làm căn cứ vững chắc cho phân tích, dự đoán
thống kê.
* Nhiệm vụ: Tổng hợp thống kê là một công tác phức tạp, bao gồm nhiều công
việc cụ thể như: Phân chia tổng thể thành các tổ có tính chất khác nhau, xác định các
chỉ tiêu nói rõ đặc trưng của từng tổ cũng như của toàn bộ tổng thể, áp dụng một số
biện pháp kỹ thuật để tính toán các con số cộng và tổng cộng, trình bày kết quả tổng
hợp thành các bảng thống kê hoặc đồ thị thống kê. Số đơn vị điều tra càng nhiều, nội
dung điều tra càng phong phú thì công tác tổng hợp càng phức tạp và khó khăn, cho

nên, khi tổng hợp phải tiến hành theo một kế hoạch nhất định.
2.2. Các vấn đề chủ yếu của tổng hợp thống kê
2.2.1. Mục đích của tổng hợp thống kê
Phân tích và dự đoán thống kê phải dựa vào những tài liệu biểu hiện hình ảnh thực
của tổng thể nghiên cứu. Kết quả tổng hợp là căn cứ cho phân tích và dự đoán. Cho
nên mục đích của tổng hợp thống kê là khái quát hoá những đặc trưng chung, những cơ
cấu tồn tại khách quan theo các mặt của tổng thể nghiên cứu bằng các chỉ tiêu thống
kê. Khi xác định mục đích của tổng hợp thống kê phải căn cứ vào mục đích yêu cầu
tìm hiểu và phân tích những mặt nào của hiện tượng nghiên cứu, để nêu khái quát chỉ
tiêu cần đạt được trong tổng hợp.
22.2. Nội dung tổng hợp
Nội dung tổng hợp là danh mục các biểu hiện của tiêu thức điều tra được chọn lọc và
theo mỗi biểu hiện được phân chia thành các nhóm khác nhau để đáp ứng yêu cầu phản
ánh các cơ cấu khác nhau phù hợp với mục đích nghiên cứu.
2.2.3. Phương pháp tổng hợp
Yêu cầu quan trọng nhất của tổng hợp là phải nêu lên được cơ cấu theo các mặt của
tổng thể nghiên cứu. Để đáp ứng yêu cầu này, người ta sử dụng phương pháp phân tổ
thống kê.
Phân tổ thống kê là phương pháp phân chia các đơn vị của tổng thể vào các tổ (và
tiểu tổ) khác nhau theo từng tiêu thức nghiên cứu. Trị số được tính toán ở mỗi tổ cho ta
một cơ cấu về lượng cụ thể của tổng thể. Việc phân chia các đơn vị tổng thể vào các tổ
không đơn giản mà phải tuân theo những căn cứ lý luận nhất định.
2.2.4. Tổ chức và kỹ thuật tổng hợp
a. Chuẩn bị tài liệu để tổng hợp
- Tập trung đầy đủ số lượng phiếu điều tra hoặc tài liệu khác để có thể đáp ứng
việc thực hiện nhiệm vụ tổng hợp.
25
- Phải đóng các câu hỏi mở, đối với những nội dung điều tra mở.
- Lượng hoá các biểu hiện của các tiêu thức thuộc tính.
b. Hình thức tổ chức tổng hợp

- Tổng hợp từng cấp là tổ chức tổng hợp tài liệu điều tra theo từng bước, từ cấp
dưới lên cấp trên theo kế hoạch đã vạch sẵn.
- Tổng hợp tập trung là toàn bộ tài liệu điều tra được tập trung về một nơi để tiến
hành tổng hợp từ đầu đến cuối.
Trong tổng hợp tập trung, thường người ta phải sử dụng những phương tiện hiện
đại để tính toán nhanh chóng và chính xác những chỉ tiêu phức tạp. Do đó, tổng hợp
tập trung giảm bớt được nhiều công việc thủ công vất vả.
2.3. Phân tổ thống kê
2.3.1. Khái niệm, ý nghĩa và nhiện vụ của phân tổ thống kê
* Khái niệm: Phân tổ thống kê là căn cứ vào một (hay một số) tiêu thức nào đó để
tiến hành phân chia các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu thành các tổ (và tiểu tổ) có
tính chất khác nhau.
Ví dụ: Khi nghiên cứu tình hình số công nhân của một công ty, căn cứ vào tiêu
thức “giới tính” để chia tổng số nhân khẩu thành hai tổ: nam và nữ; còn căn cứ vào
tiêu thức tuổi thì chia thành nhiều tổ có độ tuổi khác nhau.
Giả sử ta chia thành 4 nhóm có độ tuổi giống nhau rồi ghi lại số công nhân rơi vào
mỗi nhóm (tổ). Ta được bảng sau:
Bảng 2.1: Phân tổ công nhân theo độ tuổi
Độ tuổi (tuổi) Số công nhân (người)
21 – 30 8
31 – 40 5
41 – 50 9
51 - 60 3
Tổng 25
Tuy khi xây dựng bảng này ta bị mất một số thông tin chi tiết (như có 3 người 46 tuổi)
nhưng lại cho ta một số thông tin mới rõ và tổng quát hơn (như trong 25 công nhân này thì
có 8 người ở độ tuổi 21-30 và 9 người ở độ tuổi 41-50, …). Và bảng này gọi là bảng tần số
phân bố.
* ý nghĩa:
- Phân tổ thống kê giúp ta hệ thống hoá một cách khoa học các tài liệu thu được

trong điều tra; giúp ta phân chia tổng thể phức tạp thành các tổ khác nhau, trong đó
các đơn vị trong cùng một tổ thì giống nhau, còn các đơn vị khác tổ thì khác nhau về
26
tính chất theo tiêu thức dùng làm căn cứ phân tổ. Thông qua tài liệu đã được phân tổ
có thể nhận xét khái quát đặc trưng cơ bản của hiện tượng. Cho nên có thể nói phân
tổ là phương pháp cơ bản để tổng hợp thống kê.
- Phân tổ thống kê là một trong các phương pháp quan trọng của phân tích thống kê,
đồng thời là cơ sở thực hiện các phương pháp thống kê khác. Bởi vì, chỉ sau khi đã phân
chia tổng thể phức tạp thành các tổ có tính chất đặc điểm khác nhau thì các chỉ tiêu phân
tích khác tính ra mới có ý nghĩa.
* Nhiệm vụ:
- Phân chia các loại hình kinh tế - xã hội của hiện tượng nghiên cứu. Bởi các loại
hình của hiện tượng nghiên cứu tồn tại một cách khách quan, sự vận động và phát
triển của nó là kết quả đấu tranh giữa các loại hình đối lập tồn tại ngay trong bản thân
nó. Do đó trong quá trình phân tích phải nêu rõ hiện tượng nghiên cứu bao gồm
những loại hình nào. Muốn vậy, phải dựa vào việc phân tích lý luận để phân biệt các
bộ phận khác nhau về tính chất tồn tại ngay trong hiện tượng đó.
- Biểu hiện kết cấu của hiện tượng nghiên cứu. Vì nghiên cứu kết cấu là nghiên cứu
trình độ phổ biến của hiện tượng trong cả một tổng thể mà sự vận động của các hiện
tượng không bao giờ đạt được một sự đồng đều. Do vậy, ta phải nghiên cứu tính chất
của từng bộ phận để chỉ ra ưu điểm, nhược điểm trên cơ sở đó đề ra các biện pháp khắc
phục nó trong tương lai.
- Biểu hiện mối liên hệ giữa các tiêu thức. Vì hiện tượng kinh tế - xã hội phát sinh
và biến động không phải một cách ngẫu nhiên, tách rời mà chúng có mối liên hệ phụ
thuộc lẫn nhau theo những quy luật nhất định. Do đó ta có thể nói, sự thay đổi của tiêu
thức này dẫn đến sự thay đổi của tiêu thức khác. Vì vậy, tìm hiểu tính chất và mức độ
liên hệ giữa các hiện tượng nói chung và giữa các tiêu thức nói riêng là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của phân tổ thống kê.
2.3.2. Các loại phân tổ thống kê
* Phân tổ phân loại:

Phân tổ phân loại giúp ta nghiên cứu một cách có phân biệt các loại hình kinh tế - xã
hội, nêu lên đặc trưng và mối quan hệ giữa chúng với nhau. Từ việc nghiên cứu riêng
biệt mỗi loại hình đó, tiến thêm một bước nghiên cứu các đặc trưng của toàn bộ hiện
tượng phức tạp, giải thích một cách sâu sắc bản chất và xu hướng phát triển của hiện
tượng trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, có thể phân loại các đơn vị theo nhiều tiêu thức
khác nhau. Chẳng hạn, các Doanh nghiệp nước ta có thể phân loại theo thành phần
kinh tế, theo cấp quản lý, theo nhóm, theo ngành, theo quy mô…
27
* Phân tổ kết cấu
Các bảng phân tổ kết cấu được sử dụng rất phổ biến, mục đích nêu lên bản chất
của hiện tượng trong điều kiện nhất định và để nghiên cứu xu hướng phát triển của
hiện tượng qua thời gian. Kết cấu của tổng thể phản ánh một trong các đặc trưng cơ
bản của hiện tượng trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Chẳng hạn sự thay
đổi kết cấu về tổng sản phẩm trong nước phân theo nhóm ngành kinh tế trong quá
trình phát triển của Việt Nam như sau:
Bảng 2.2. Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo nhóm ngành giai đoạn 2000 -
2007 Đơn vị %
Tổng sản phẩm trong nước phân
theo nhóm ngành
2002 2003 2004 2005 2006
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 24,53 23,24 23,03 22,54 21,76
Công nghiệp và xây dựng 36,73 38,13 38,49 39,47 40,09
Dịch vụ 38,74 38,63 38,48 37,99 38,15
Cộng 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
(Nguồn: Niên giám Thống kê 2004 trang 71)
Qua bảng phân tổ kết cấu trên, sự thay đổi về tỉ trọng của 3 nhóm ngành đã nói lên
một phần quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành ở Việt Nam, cụ thể nhóm ngành công
nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn và đang có xu hướng tăng, nhóm ngành nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm tỷ trọng nhỏ lại đang có xu hướng giảm

ý nghĩa:
- Phân tổ kết cấu giúp ta có thể so sánh được bản chất của các hiện tượng cùng
loại trong điều kiện không gian khác nhau. Ví dụ: So sánh cơ cấu cây trồng ở 2 địa
phương, cơ cấu giống lúa của hai hợp tác xã…
- Phân tổ kết cấu còn được vận dụng trong phân tích thực hiện kế hoạch để thấy rõ
tỉ trọng các bộ phận chưa hoàn thành, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch.
Từ đó có thể đánh giá việc thực hiện kế hoạch; xem xét lại việc đặt kế hoạch.
* Phân tổ liên hệ
Các tiêu thức có liên hệ với nhau được phân biệt thành hai loại: tiêu thức nguyên
nhân và tiêu thức kết quả. Tiêu thức nguyên nhân là tiêu thức gây ảnh hưởng; sự biến
động của tiêu thức này sẽ dẫn đến sự thay đổi (tăng hoặc giảm) của tiêu thức phụ thuộc
mà ta gọi là tiêu thức kết quả một cách có hệ thống. Như vậy, các đơn vị tổng thể trước
hết được phân tổ theo một tiêu thức (thường là tiêu thức nguyên nhân), sau đó trong
mỗi tổ tiếp tục tính các trị số bình quân của tiêu thức còn lại (thường là tiêu thức kết
quả). Quan sát sự biến thiên của hai tiêu thức này có thể giúp ta kết luận về tính chất
của mối liên hệ giữa hai tiêu thức. Như trong nhiều doanh nghiệp ta thường nhận thấy
28
có mối liên hệ giữa năng suất lao động và giá thành đơn vị sản phẩm càng có điều kiện
giảm. Nếu ta phân tổ các doanh nghiệp trong cùng một ngành theo năng suất lao động,
sau đó từ mỗi tổ tính ra giá thành bình quân đơn vị sản phẩm, thì các kết quả tính toán
sẽ cho thấy rõ mối liên hệ giữa năng suất lao động (là tiêu thức nguyên nhân) và giá
thành đơn vị sản phẩm (là tiêu thức kết quả).
Phân tổ liên hệ còn có thể được vận dụng để nghiên cứu mối liên hệ giữa nhiều
tiêu thức. Có thể nghiên cứu mối liên hệ giữa năng suất lúa với lượng phân bón,
lượng nước tưới, mật độ cấy ; hoặc nghiên cứu mối liên hệ giữa năng suất lao động
của công nhân với tuổi nghề, bậc thợ, trình độ trang bị kỹ thuật
Khi phân tổ liên hệ giữa nhiều tiêu thức (ví dụ 3 tiêu thức) trước hết tổng thể được
phân tổ theo một tiêu thức nguyên nhân, sau đó mỗi tổ lại được chia thành các tiểu tổ
theo tiêu thức nguyên nhân thứ hai, cuối cùng tính trị số tổng hoặc bình quân của tiêu
thức kết quả cho từng tổ và tiểu tổ đó. Sau đây là ví dụ về mối liên hệ giữa năng suất

lao động với trình độ kỹ thuật và tuổi nghề của công nhân trong một doanh nghiệp,
được trình bày dưới bảng phân tổ kết hợp như sau:
Bảng 2.3: Mối liên hệ giữa năng suất lao động với trình độ kỹ thuật và tuổi nghề
Phân tổ công nhân
Số công
nhân
Sảng lượng
cả năm
NS lao động bình
quân năm (tấn)
Đã được đào tạo
kỹ thuật
Theo tuổi nghề
(năm)
Đã được đào tạo
kỹ thuật
Dưới 5
5-10
10-15
15-20
20 trở lên
15
40
40
15
10
1.125
3.750
4.200
1.725

1.200
75
94
105
115
120
Cả tổ 120 12.000 100
Chưa được đào
tạo kỹ thuật
Dưới 5
5-10
10-15
15-20
20 trở lên
10
30
20
10
10
510
2.140
1.580
860
910
51
71
79
86
91
cả tổ - 80 6.000 75

Chung cho cả DN - 200 18.000 90
2.3.3. Tiêu thức phân tổ và chỉ tiêu giải thích
a. Tiêu thức phân tổ
Tiêu thức phân tổ là tiêu thức được chọn làm căn cứ để tiến hành phân tổ thống
kê. Lựa chọn tiêu thức phân tổ là vấn đề quan trọng đầu tiên phải đề ra và giải quyết
29
chính xác. Tuy các đơn vị tổng thể có rất nhiều tiêu thức khác nhau, nhưng chúng ta
không thể tuỳ tiện chọn bất kỳ tiêu thức nào làm căn cứ phân tổ.
Những yêu cầu sau đây về lựa chọn tiêu thức phân tổ.
- Phải dựa trên cơ sở phân tích lý luận một cách sâu sắc để chọn ra tiêu thức bản
chất nhất, phù hợp với mục đích nghiên cứu.
- Phải căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể của hiện tượng nghiên cứu để chọn ra
tiêu thức phân tổ thích hợp.
- Phải tuỳ theo mục đích nghiên cứu và điều kiện tài liệu thực tế mà quyết định
phân tổ hiện tượng theo một hay nhiều tiêu thức.
b. Các chỉ tiêu giải thích
Trong phân tổ thống kê, sau khi đã lựa chọn được tiêu thức phân tổ, xác định số tổ
cần thiết và khoảng cách tổ, còn phải xác định các chỉ tiêu giải thích để nói rõ đặc
trưng của các tổ cũng như của toàn bộ tổng thể. Chẳng hạn, sau khi phân tổ các doanh
nghiệp theo khu vực và thành phần kinh tế, có thể đưa ra một số chỉ tiêu giải thích ở
bảng 2.4. như sau:
Bảng 2.4: Bảng phân tổ các doanh nghiệp theo khu vực kinh tế và thành phố
năm 2003
Phân tổ các DN theo thành phần
kinh tế
Số DN
Số LĐ
(người)
DT thuần
(tỷ đồng)

DT thuần
b/quân 1 LĐ
(tr.đ/người)
DN tập thể 4.150 160.949 12.705 79
DN tư nhân 25.653 378.087 104.043 275
DN Nhà nước trung ương 1.898 1.463.954 513.509 351
DN Nhà nước địa phương 2.947 800.988 165.226 206
DN liên doanh với nước ngoài 772 172.534 161.774 938
DN có 100% vốn nước ngoài 1.869 687.725 131.158 191
Chung 72.012 5.175.092 1.456.771 281
Công ty TNHH tư nhân 30.164 1.143.055 270.993 237
Công ty Hợp danh 18 655 10.409 15.892
C.ty cổ phần không có vốn nhà nước 3.872 206.266 43.656 212
C.ty cổ phần có vốn nhà nước 669 160.879 43.298 269
Khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài
2.641 860.259 292.932 341
Khu vực DN ngoài Nhà nước
64.526 2.049.891 485.104 237
Khu vực DN Nhà nước
4.845 2.264.942 678.735 300
(Nguồn: Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2002, 2003, 2004- Nhà xuất
bản Thống kê)
Mỗi chỉ tiêu giải thích có ý nghĩa quan trọng riêng giúp ta thấy rõ các đặc trưng số
lượng của từng tổ cũng như của toàn bộ tổng thể, làm căn cứ để so sánh các tổ với
30
nhau và để tính ra hàng loạt chỉ tiêu phân tích khác. Muốn xác định các chỉ tiêu giải
thích, chủ yếu phải căn cứ vào mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của phân tổ để chọn
ra các chỉ tiêu có liên hệ tiếp cận từ nhiều khía cạnh khác nhau nên chỉ tiêu giải thích
chọn ra phải hợp lý mới thoả mãn được mục đích nghiên cứu.Cũng cần chú ý tới mối
quan hệ nhất định giữa tiêu thức phân tổ với các chỉ tiêu giải thích. Chẳng hạn, khi

phân tổ các xí nghiệp theo quy mô, thì các chỉ tiêu giải thích như: Số lượng lao động,
giá trị tài sản cố định, giá trị sản xuất là những chỉ tiêu giúp ta hiểu rõ thêm về quy
mô của xí nghiệp. Trái lại, nếu chọn các chỉ tiêu giải thích như: mức độ hoàn thành
kế hoạch, tiền lương bình quân…. thì các chỉ tiêu này thường không trực tiếp chịu
ảnh hưởng bởi quy mô của xí nghiệp.
Mỗi chỉ tiêu giải thích có ý nghĩa quan trọng riêng giúp ta thấy rõ các đặc trưng số
lượng của từng tổ cũng như của toàn bộ tổng thể, làm căn cứ để so sánh các tổ với
nhau và để tính ra hàng loạt chỉ tiêu phân tích khác. Tuy nhiên, cũng không nên đề ra
quá nhiều chỉ tiêu, mà phải lựa chọn một số chỉ tiêu nào thích hợp nhất đối với mục
đích nghiên cứu.
2.3.4. Các bước tiến hành phân tổ theo một tiêu thức
* Lựa chọn tiêu thức phân tổ: là bước đầu tiên làm cơ sở để tiến hành phân tổ.
Lựa chọn tiêu thức chính xác, phù hợp với mục đích nghiên cứu thì kết quả phân tổ
mới thực sự có ích cho việc phân tích đặc điểm và bản chất của hiện tượng. Việc lựa
chọn phải đảm bảo các yêu cầu đã trình bày ở trên.
* Xác định số tổ và khoảng cách tổ
a. Phân tổ theo tiêu thức thuộc tính
Sự khác nhau giữa các tổ được biểu hiện bằng sự khác nhau giữa các loại hình.
Nếu loại hình nêu số lượng ít ta có thể coi mỗi loại hình là một tổ. Vậy có bao nhiêu
loại hình sẽ phân làm bấy nhiêu tổ. Trong một số trường hợp nêu số lượng nhiều và
phức tạp, nếu coi mỗi loại hình là một tổ thì tổng thể nghiên cứu bị chia nhỏ. Đặc trưng
của hiện tượng không được biểu hiện. Do đó ta phải ghép một số loại hình nhỏ với
nhau vào một tổ theo nguyên tắc chúng phải giống nhau hoặc gần giống nhau về một
tính chất hay một công dụng kinh tế - xã hội nào đó.
b. Phân tổ theo tiêu thức số lượng
Đối với tiêu thức số lượng việc xác định số tổ và khoảng cách của từng tổ cũng có
nét phức tạp riêng của nó. Làm sao để gom được những đơn vị có tính chất, đặc điểm
giống nhau về cùng một tổ.
- Trường hợp các lượng biến biến thiên ít và rời rạc: Số lượng người trong gia
đình, số điểm kết quả học tập, số máy do một công nhân phụ trách,… ở đây vì lượng

31
biến thiên của tiêu thức phân tổ chỉ thay đổi trong phạm vi hẹp và biến động rời rạc
nên việc xác định số tổ sẽ rất đơn giản. Có thể cứ mỗi lượng biến là cơ sở hình thành
một tổ, hoặc ghép một số lượng biến vào một tổ tuỳ theo đặc tính của hiện tượng và
mục đích nghiên cứu.
- Trường hợp các lượng biến biến thiên nhiều và rời rạc hoặc liên tục: nếu mỗi
lượng biến hình thành một tổ thì số tổ sẽ quá nhiều mà không nói rõ sự khác nhau về
chất giữa các tổ. Khi đó ta cần chú ý tới mối liên hệ giữa lượng và chất trong phân tổ.
Tức là phải xem xét sự thay đổi về lượng đến mức độ nào thì bản chất của hiện tượng
thay đổi và làm nảy sinh ra tổ khác. Như vậy, mỗi tổ sẽ bao gồm một phạm vi lượng
biến, có hai giới hạn rõ rệt: Giới hạn dưới là lượng biến nhỏ nhất để làm cho tổ được
hình thành còn giới hạn trên là lượng biến lớn nhất của tổ, nếu vượt quá giới hạn này
thì chất lượng thay đổi và chuyển sang tổ khác. Trị số chênh lệch giữa giới hạn trên và
giới hạn dưới của mỗi tổ gọi là khoảng cách tổ. Khoảng cách tổ có thể bằng nhau hoặc
không bằng nhau.
Khi phân tổ có khoảng cách bằng nhau ta xác định độ rộng của khoảng cách theo
công thức:
Độ rộng của khoảng
cách tổ
=
Lượng biến lớn nhất – Lượng biến nhỏ nhất
Số tổ cần phân
d
i
=
x
Max
– x
Min
n

Khi phân tổ có khoảng cách không bằng nhau :
Độ rộng của khoảng
cách tổ
=
Lượng biến lớn
nhất
-
Lượng biến nhỏ
nhất
d
i
= x
Max
– x
Min
Phân tổ có khoảng cách tổ không bằng nhau có nhược điểm là khó giải thích về tần số
phân phối.
Bảng 2.5. Phân tổ công nhân của một công ty như sau
Phân tổ công nhân
Số công nhân
Đã được đào tạo kỹ thuật Theo tuổi nghề (năm)
Đã được đào tạo kỹ thuật Dưới 5
5-10
10-15
15-20
15
40
40
15
32

Hay
Phân tổ công nhân Số công nhân
(người)
20 trở lên 10
Cả tổ 120
Chưa được đào tạo kỹ thuật
Dưới 5
5-10
10-15
15-20
20 trở lên
10
30
20
10
10
Cả tổ - 80
Chung cho cả DN - 200
2.4. Trình bày số liệu thống kê
2.4.1. Bảng thống kê
2.4.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của bảng thống kê
* Khái niệm: Bảng thống kê là một hình thức trình bày các tài liệu thống kê một cách
có hệ thống, hợp lý và rõ ràng nhằm nêu lên đặc trưng về mặt lượng của hiện tượng
nghiên cứu.
* ý nghĩa: Bảng thống kê có nhiều tác dụng trong nghiên cứu kinh tế xã hội. Các
tài liệu trong bảng thống kê được sắp xếp một cách khoa học giúp cho ta tiến hành
đối chiếu, so sánh, phân tích theo các phương pháp khác nhau nhằm nêu lên một cách
sâu sắc về bản chất của hiện tượng nghiên cứu.
2.4.1.2. Cấu tạo của bảng thống kê
* Về hình thức

Bảng thống kê bao gồm các hàng ngang và cột dọc, các tiêu đề và các số liệu. Các
hàng ngang và cột dọc phản ánh quy mô của bảng. Số hàng ngang và cột dọc càng nhiều
thì bảng thống kê càng lớn và phức tạp. Các hàng ngang, cột dọc cắt nhau tạo thành các
ô dùng để điền các số liệu thống kê vào đó. Các hàng ngang, cột dọc thường được đánh
số thứ tự để tiện cho việc sử dụng và trình bày vấn đề.
Tiêu đề của bảng phản ánh nội dung của bảng và của từng chi tiết trong bảng.
Trước hết có tiêu đề chung, là tên chung của bảng, thường viết ngắn, gọn, dễ hiểu và
đặt phía trên đầu mỗi bảng. Các tiêu đề nhỏ (tiêu mục) là tên riêng của mỗi hàng và
cột phản ánh rõ nội dung của các hàng, cột đó.
* Về nội dung
Bảng thống kê gồm hai phần: Phần chủ đề và phần giải thích.
- Phần chủ đề: Nêu lên tổng thể hiện tượng được trình bày trong bảng thống kê.
Tổng thể này được phân thành các bộ phận, nó giải thích đối tượng nghiên cứu là
33
những đơn vị nào, loại hình nào. Có khi phần chủ đề là các địa phương hoặc thời gian
nghiên cứu khác nhau của hiện tượng nào đó.
- Phần giải thích: Gồm các chỉ tiêu giải thích các đặc điểm của đối tượng nghiên
cứu, nghĩa là giải thích phần chủ đề của bảng.
Phần chủ đề thường đặt bên trái của bảng còn phần giải thích thì đặt phía trên của bảng.
Cấu thành của bảng thống kê có thể biểu hiện như sau:
Bảng 2.6: Tên bảng thống kê (tiêu đề chung)
Phần giải thích Các chỉ tiêu giải thích (tên cột)
1 2 3 … n
Tên chủ đề (tên hàng)
Tổng số
2.4.1.3. Các loại bảng thống kê
* Bảng đơn giản: Là loại bảng mà phần chủ đề không phân tổ, chỉ sắp xếp các đơn vị
tổng thể theo tên gọi, theo địa phương hoặc theo thời gian nghiên cứu.
Bảng 2.7: Tình hình sản xuất tháng 1/2007 của các Doanh nghiệp tại thành phố X
Tên

xí nghiệp
Số công nhân
(người)
Giá trị sản lượng
(triệu đồng)
NSLĐ bình quân/ 1 công nhân
(1000đ)
A 1 2 3 = 2 : 1
Dnghiệp A
Dnghiệp B
526
215
2837,6
1254,2
53947
53335
Tổng 741 4091,8 x
* Bảng phân tổ: Là loại bảng trong đó đối tượng nghiên cứu ghi trong phần chủ đề
được chia thành các tổ theo một tiêu thức nào đó.
Bảng 2.8: Các xí nghiệp công nghiệp thuộc khu vực N năm 2007
Phân tổ các xí nghiệp theo số công nhân viên (người) Tổng số xí nghiệp (xn)
Từ 100 người trở xuống
Từ 101 đến 500 người
Từ 501 đến 1000 người
Từ 1001 đến 2000 người
Từ 2001 người trở lên
15
150
72
48

10
Cộng 295
Thực chất của bảng này là phân tổ theo một tiêu thức.
* Bảng kết hợp: Là loại bảng thống kê trong đó đối tượng nghiên cứu ghi ở phần chủ
đề được phân tổ theo hai, ba tiêu thức kết hợp với nhau. Nó dùng để biểu hiện kết quả
của việc phân tổ theo nhiều tiêu thức.
Bảng 2. 9: Bảng phân tổ các Doanh nghiệp theo ngành kinh tế
34

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×