Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại công ty cổ phần May 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.29 KB, 79 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Page 1 of 79 Học viện Ngân Hàng
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế nước ta đang phát triển theo hướng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, trong đó
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như môi trường
kinh doanh, trình độ quản lý của nhà quản trị…. Trong đó, trình độ quản lý tài chính
của nhà quản trị đóng vai trò đặc biệt quan trọng, nó quyết định đến tốc độ phát triển,
năng lực cạnh tranh cũng như sự bền vững của công ty. Các quyết định của nhà quản
lý doanh nghiệp đưa ra có kịp thời và hợp lý hay không phục thuộc rất nhiều vào chất
lượng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp.
Quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp chủ yếu dựa trên các báo cáo tài
chính định kỳ của công ty: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo
cao lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính và các bảng phụ chú khác.
Việc thường xuyên phân tích tài chính sẽ giúp cho nhà quản lý doanh nghiệp
thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính. Từ đó có thể nhận ra được những mặt mạnh,
mặt yếu của doanh nghiệp làm căn cứ để hoạch định chiến lược phát triển cho các
giai đoạn tiếp theo. Đồng thời, đề ra những giải pháp tài chính giúp nâng cao hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngày nay, trong điều kiện các quan hệ kinh tế được mở rộng, việc phân tích
tài chính không chỉ là mối quan tâm của riêng bản thân doanh nghiệp mà còn là của
các đối tượng có quan hệ với doanh nghiệp như các cổ đông, nhà đầu tư, các đối tác,
nhà cho vay, các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thuế…. Vì vậy, việc thường
xuyên tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp sẽ giúp cho các đối tượng liên quan
nắm bắt được thực trạng tài chính doanh nghiệp, xác định được nguyên nhân và mức
độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính cũng như các hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó có thể đưa ra những quyết định tài chính kịp
thời và hợp lý.
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 2 of 79 Học viện Ngân Hàng
Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam


nói chung, cũng như tại công ty cổ phần May 10 hiện nay, công tác phân tích tài
chính chưa được coi trọng, một số nội dụng phân tích còn sơ sài, mang tính hình
thức, chưa thể hiện được vai trò là cơ sở cho các quyết định của nhà quản lý.
Nhận thức được vấn đề này, qua thời gian thực tập tại công ty cổ phần May
10, em quyết định nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại
công ty cổ phần May 10”.
2. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về phân tích tài chính doanh nghiệp.
- Chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại công ty cổ phần May
10.
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính
tại công ty cổ phần May 10.
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 3 of 79 Học viện Ngân Hàng
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
1.1 Phân tích tài chính doanh nghiệp và sự cần thiết của phân tích tài
chính doanh nghiệp
 Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức
huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh.
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một hệ thống các phương pháp, công cụ
cho phép thu thập và xử lý các thông tin trong QLDN nhằm xem xét, kiểm tra, đánh
giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của DN cũng như hiệu quả của quá trình
hoạt động sản xuất KD giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin tài chính có các
quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
Thông qua một hệ thống các phương pháp, công cụ, kỹ thuật phân tích giúp
cho người sử dụng thông tin có thể vừa đánh giá tổng hợp toàn diện khái quát, vừa
xem xét một cách chi tiết hoạt động TCDN để qua đó có thể đánh giá chính xác sức

mạnh tài chính và triển vọng phát triển của DN. Vì thế, phân tích tài chính mà trọng
tâm là phân tích các báo cáo TCDN là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng. Mỗi
nhóm đối tượng này có nhu cầu thông tin khác nhau do vậy họ sẽ quan tâm đến
những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của DN.
 Đối với nhà quản trị doanh nghiệp
Mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý là lợi nhuận và sự phát triển bền
vững của DN. Vì vậy, hơn ai hết các nhà quản lý cần đầy đủ thông tin để nhận biết,
đánh giá khả năng và tiềm lực của DN, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của
DN như thế nào có hiệu quả hay không, cơ cấu vốn, khả năng thanh toán... thông qua
việc phân tích tài chính. Đây chính là cơ sở để các nhà QLDN đưa ra các quyết định
cần thiết có hiệu quả để thực hiện các mục tiêu của DN và là cơ sở để định hướng
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 4 of 79 Học viện Ngân Hàng
cho ban giám đốc, giám đốc tài chính xây dựng các kế hoạch đầu tư, dự báo tài chính,
kiểm soát các hoạt động của DN.
 Đối với các nhà đầu tư
Các nhà đầu tư ở đây chính là các tổ chức và cá nhân giao vốn cho DN sử
dụng và sẽ chấp nhận chịu chung mọi rủi ro mà DN gặp phải. Thu nhập của họ bao
gồm: tiền chia lợi tức và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư, hai yếu tố chịu ảnh hưởng
của lợi nhuận kỳ vọng của DN. Đối với các nhà đầu tư lớn họ thường dựa vào các
nhà chuyên môn, các chuyên gia phân tích tài chính, các nhà nghiên cứu kinh tế tài
chính để phát triển và làm dự báo về triển vọng phát triển của DN, đánh giá cổ phiếu
của DN, khả năng đảm bảo mức lợi tức mà họ yêu cầu. Đối với các nhà đầu tư hiện
tại cũng như các nhà đầu tư tiềm năng thì mối quan tâm của họ trước hết là việc đánh
giá những đặc điểm đầu tư của doanh nghiệp. Họ quan tâm tới an toàn trong đầu tư
và mức lợi tức kỳ vọng được phản ánh thông qua điều kiện tài chính của doanh
nghiệp và tình hình hoạt động tài chính. Các nhà đầu tư này quan tâm tới phân tích tài
chính để nhận biết khả năng sinh lời của DN, khả năng tăng trưởng và phát triển của
DN, những rủi ro mà DN có thể phải hứng chịu. Thông qua đó để họ đưa ra quyết
định đầu tư một cách có hiệu quả nhất: có nên bỏ vốn đầu tư vào DN hay không, nếu

đầu tư thì với khối lượng bao nhiêu và trong thời gian bao lâu?
 Đối với người cho vay, nhà cung cấp vật tư, hàng hóa, dịch vụ, các cơ
quan quản lý nhà nước, và các đối tượng khác.
Người cho vay là các ngân hàng, các công ty tài chính, tổ chức tín dụng ... họ
phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của khách hàng. Khi quyết
định cho vay thì một trong những vấn đề mà người cho vay cần xem xét là DN thực
sự có nhu cầu hay không? khả năng trả nợ của DN như thế nào?
Đối với các nhà cung cấp vật tư, hàng hóa, dịch vụ, họ phải quyết định xem có
cho phép khách hàng sắp tới được mua trả chậm hàng hóa hay không, họ cần thiết
phải nắm thông tin về khả năng thanh toán của DN hiện tại cũng như trong tương lai
….
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 5 of 79 Học viện Ngân Hàng
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước như cơ quan thuế, cơ quan đăng ký
KD… Họ phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát hoạt động sản xuất KD,
hoạt động tài chính tiền tệ của DN có đúng chính sách chế độ và luật pháp không,
tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước để đề ra các biện pháp quản lý phù
hợp.
Người lao động cũng quan tâm đến các thông tin về tình hình TCDN để đánh
giá triển vọng của nó trong tương lai. Những người đi tìm việc đều có nguyện vọng
được làm việc ở những công ty có triển vọng sáng sủa với tương lai lâu dài để hy
vọng có mức lương tương xứng và chỗ làm việc ổn định. Do vậy, một công ty có tình
hình tài chính và tương lai ảm đạm đang đứng trên bờ vực phá sản sẽ không thu hút
được người lao động. Các đối thủ cạnh tranh cũng quan tâm đến khả năng sinh lợi,
DTBH và các chỉ tiêu tài chính khác trong điều kiện có thể để tìm biện pháp cạnh
tranh với công ty. Các thông tin về tình hình tài chính của DN nói chung còn được cả
các nhà nghiên cứu, các sinh viên kinh tế quan tâm phục vụ cho việc nghiên cứu và
học tập của họ.
Tuy các đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của DN dưới những góc
độ khác nhau, song nhìn chung họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra các dòng tiền

mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức LN tối đa. Bởi vậy, việc phân
tích tình hình tài chính của các DN phải đạt được các mục tiêu nhất định sau:
- Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ các thông tin hữu ích cho
các nhà đầu tư, các nhà cho vay và những người sử dụng thông tin tài chính
khác để giúp họ có những quyết định đúng đắn khi ra các quyết định đầu tư,
quyết định cho vay.
- Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp cho các chủ công ty, các nhà đầu
tư, các nhà cho vay và những người sử dụng thông tin khác trong việc đánh
giá khả năng và tính chắc chắn của dòng tiền mặt vào, ra và tình hình sử dụng
có hiệu quả nhất vốn kinh doanh, tình hình và khả năng thanh toán của công
ty.
- Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp những thông tin về nguồn vốn chủ
sở hữu, các khoản nợ, kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, sự
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 6 of 79 Học viện Ngân Hàng
kiện và các tình huống làm biến đổi các nguồn vốn và các khoản nợ của các
công ty.
Tóm lại, phân tích tình hình tài chính của DN là một công việc có ý nghĩa
quan trọng trong công tác quản trị DN. Nó không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân DN,
mà còn cần thiết cho các chủ thể khác có liên quan đến DN.
1.2 Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1 Quy trình phân tích tài chính
Để có được những thông tin đầy đủ chính xác cho người sử dụng thì phân tích
tài chính cần phải tổ chức thực hiện theo một quy trình hoàn thiện với nguồn thông
tin đầy đủ, phương pháp và nội dung phân tích khoa học. Quy trình phân tích tài
chính có thể thực hiện theo 4 bước sau:
Bước 1: Lập kế hoạch phân tích:
- Nội dung phân tích: cần xác định rõ các vấn đề được phân tích: có thể là toàn
bộ HĐTC hoặc chỉ là một số vấn đề cụ thể nào đó như cơ cấu vốn, khả năng
thanh toán…. Đây là cơ sở để xây dựng đề cương cụ thể để tiến hành phân

tích.
- Phạm vi phân tích: Có thể là toàn đơn vị hoặc một số đơn vị được chọn làm
điểm để phân tích, tùy yêu cầu và thực tiễn quản lý mà xác định nội dung và
phạm vi phân tích thích hợp.
- Thời gian ấn định trong kế hoạch phân tích bao gồm cả thời gian chuẩn bị và
thời gian tiến hành công tác phân tích.
- Trong kế hoạch phân tích cần phân công trách nhiệm cho các bộ phận trực
tiếp thực hiện và bộ phận phục vụ công tác phân tích, cũng như các hình thức
hội nghị phân tích nhằm thu thập nhiều ý kiến, đánh giá đúng thực trạng và
phát hiện đầy đủ tiềm năng giúp DN phấn đấu đạt kết quả cao trong kinh
doanh.
Bước 2: Thu thập và xử lý thông tin:
Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn
thông tin, từ thông tin trong nội bộ DN đến những thông tin bên ngoài, từ
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 7 of 79 Học viện Ngân Hàng
những thông tin số lượng đến những thông tin giá trị, từ những thông tin
lượng hóa được đến những thông tin không lượng hóa được.
- Thông tin tài chính: Để có được nguồn thông tin này cần thu thập các kế
hoạch tài chính chi tiết và tổng hợp, các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán
quản trị, các tài liệu kế toán chi tiết có liên quan.
- Thông tin phi tài chính: Sự phát triển của DN do tác động của nhiều nhân tố
trong và ngoài DN. Phân tích tài chính là việc phân tích hướng tới tương lai
của DN. Bởi vậy, ngoài các thông tin tài chính hiện tại và quá khứ, việc phân
tích TCDN phải sử dụng nhiều thông tin phí tài chính khác: thông tin về môi
trường chung về kinh tế, chính trị, pháp luật…, thông tin về ngành mà DN
đang hoạt động, thông tin về DN.
+ Các thông tin chung: là những thông tin về môi trường kinh tế, chính trị,
luật pháp có liên quan đến cơ hội kinh doanh của một DN: sự tăng trưởng
hay suy thoái của một nền kinh tế, sự can thiệp của nhà nước vào hoạt

động kinh doanh của DN, biện pháp giúp đỡ tài chính, chính sách thuế,
chính sách tiền tệ ….
+ Các thông tin theo ngành kinh tế ( theo lĩnh vực hoạt động): Đặt sự phát
triển của DN trong mối liên hệ với hoạt động chung của ngành kinh doanh.
Nghiên cứu theo ngành cần thấy được đặc điểm kinh doanh của ngành có
liên quan đến: Sản phẩm, công nghệ, xu thế biến động của ngành ( tăng
trưởng, suy thoái hay bão hòa), áp lực trong cạnh tranh
+ Các thông tin về DN:
* Đặc điểm hoạt động của DN, hình thức sở hữu vốn, hình thức
hoạt động, thâm niên, quy mô của DN.
* Cơ cấu tổ chức: Giá trị của DN gắn bó chặt chẽ với giá trị của
những người làm việc tại DN. Đặc biệt DN nhỏ càng phụ thuộc vào
những người làm việc tại DN.
* Chủ doanh nghiệp: Cần tìm kiếm thông tin về phương diện cá
nhân như tuổi, tình hình gia đình, nguồn gốc đào tạo, trách nhiệm,
nhân cách đạo đức, thái độ …. Về người thừa kế như khung cán bộ
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 8 of 79 Học viện Ngân Hàng
hay sự hình thành ê kíp lãnh đạo, việc tuyển lựa đề bạt. Về nhân
viên như kết cấu lao động, trình độ lành nghề, bầu không khí tập
thể, việc thay thế nhân viên….
* Mục tiêu của nhà lãnh đạo: Mục tiêu tăng trưởng mạnh doanh
thu sẽ kéo theo tăng chi phí quảng cáo, tăng phải thu do tăng điều
kiện ưu đãi để khuyến khích bán hang, tăng lượng hàng tồn kho để
đáp ứng các đơn đặt hàng lớn….
* Sản phẩm của doanh nghiệp: Mặt hàng, chất lượng, vị trí của
sản phẩm trên thị trường, mức độ đa dạng hóa sản phẩm trong
doanh nghiệp, chu kỳ sống của sản phẩm đó.
* Thị trường của các sản phẩm trong doanh nghiệp mang tính
chất quốc tế hay nội địa, thị phần mà doanh nghiệp chiếm lĩnh cũng

như tính ổn định của thị trường….
* Chính sách của doanh nghiệp để tăng cường và bảo vệ vị trí
của mình: Chính sách dự trữ vật tư, hàng hóa, chính sách bán hàng,
chính sách giá cả, chính sách khách hàng, chính sách quảng cáo…..
Chất lượng công tác phân tích phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của các thông
tin thu thập được. Bởi vậy, trước khi phân tích, nhà phân tích phải kiểm tra tính hợp
pháp của tài liệu chứa đựng thông tin (trình tự lập, ban hành, người lập, cấp thẩm
quyền phê duyệt…. ) cũng như độ tin cậy của nguồn thông tin thu thập được: tính
nhất trí của cùng một thông tin kế toán trên các tài liệu khác nhau, tính trung thực
hợp lý của các thông tin kế toán….
Phạm vi kiểm tra không chỉ giới hạn ở các tài liệu trực tiếp làm căn cứ phân
tích mà cả các tài liệu khác có liên quan, đặc biệt là các tài liệu gốc.
Bước 3: Xác định những biểu hiện đặc trưng:
Tính toán các tỷ số tài chính, lập các bảng biểu theo từng nội dung đã đặt ra,
so sánh với các chỉ số kỳ trước, các chỉ số của ngành, của các doanh nghiệp khác
trong cùng một lĩnh vực hoạt động. Trên cơ sở đó, đánh giá khái quát mặt mạnh,
điểm yếu của doanh nghiệp, vạch ra những vấn đề, những trọng tâm cần được phân
tích.
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 9 of 79 Học viện Ngân Hàng
Bước 4: Phân tích:
- Phân tích các nhân tố, xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến các
chỉ tiêu phân tích.
- Phân tích các nguyên nhân thành công và nguyên nhân thất bại.
Bước 5: Tổng hợp và dự đoán:
- Tổng hợp kết quả, rút ra nhận xét, dự báo xu hướng phát triển.
- Đề xuất các giải phát tài chính cũng như các giải pháp khác nhằm thực hiện
mục tiêu.
1.2.2 Tài liệu cơ bản được sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể sử

dụng các thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin
quan trọng bậc nhất. Mặt khác, các doanh nghiệp còn có nghĩa vụ cung cấp những
thông tin kế toán cho các đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin kế
toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán. Phân tích tài chính được
thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính – được hình thành thông qua xử lý các báo
cáo kế toán chủ yếu là: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo
lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính.
 Bảng cân đối kế toán (balance sheet)
BCĐKT là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ giá trị tài
sản hiện có và nguồn hình thành nên tài sản đó của DN tại một thời điểm nhất định.
Kết cấu của BCĐKT gồm hai phần: Phần tài sản và phần nguồn vốn.
- Phần tài sản: Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu ở phần TS phản ánh số
TS hiện có của DN ở thời điểm lập báo cáo, còn xét về mặt pháp lý, nó
phản ánh vốn thuộc quyền sở hữu hoặc quyền quản lý lâu dài của DN.
- Phần nguồn vốn: Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu thuộc phần NV phản
ánh các nguồn hình thành nên các TS của DN, còn xét về phương diện
pháp lý, các chỉ tiêu này phản ánh trách nhiệm pháp lý của doanh
nghiệp đối với các đối tượng đầu tư vốn ( nhà nước, ngân hàng, cổ
đông) cũng như với khách hàng thông qua công nợ phải trả.
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 10 of 79 Học viện Ngân Hàng
Nhìn vào bảng cân đối kế toán có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp,
quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp.
 Báo cáo kết quả kinh doanh (profit and loss statement)
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính phản ánh toàn bộ kết quả
HĐKD của DN trong một thời kỳ nhất định và những nghĩa vụ mà DN phải thực hiện
với nhà nước.
Dựa vào số liệu trên báo cáo KQKD, người sử dụng thông tin có thể kiểm tra,
phân tích và đánh giá kết quả HĐKD của DN trong kỳ, so sánh với các kỳ trước và
với các DN khác trong cùng ngành để nhận biết khái quát kết quả hoạt động của DN

trong kỳ và xu hướng vận động, nhằm đưa ra các quyết định quản lý, quyết định tài
chính phù hợp.
Báo cáo KQKD cho biết tình hình DT, chi phí và lợi nhuận của một DN trong
một kỳ kế toán đã qua.
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Cash flow statement)
BCLCTT là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng
lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp.
Nếu BCĐKT cho biết những nguồn lực, của cải (tài sản) và nguồn hình thành
của những tài sản đó và báo cáo KQKD cho biết thu nhập và chi phí phát sinh để tính
được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì BCLCTT được lập để trả lời các
vấn đề liên quan đến các luồng tiền vào, ra trong DN, tình hình tài trợ, đầu tư bằng
tiền của DN trong từng thời kỳ.
Theo chuẩn mực kế toán 24 quy định: Một BCLCTT phải được chia thành ba
phần:
- Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh
- Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư
- Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính
 Thuyết minh báo cáo tài chính (Descriptive financial statement)
Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống báo cáo tài
chính của DN, được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình hoạt động sản
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 11 of 79 Học viện Ngân Hàng
xuất kinh doanh, tình hình tài chính của DN trong kỳ báo cáo mà các báo cáo tài
chính khác không thể trình bày chi tiết được. Nội dung của báo cáo:
- Trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp.
- Nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp lựa chọn để áp dụng.
- Tình hình và lý do biến động của một số đối tượng tài sản và nguồn vốn.
- Phân tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu và kiến nghị của doanh nghiệp.
1.2.3 Phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện

pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong
và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng
hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Về lý thuyết, có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp nhưng
thực tế người ta thường sử các phương pháp sau:
 Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính doanh
nghiệp. Phương pháp này dùng để xây dựng xu hướng phát triển và mức độ biến
động của các chỉ tiêu phát triển.
Để có thể áp dụng phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện: phải có
sự thống nhất về thời gian, không gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán nghĩa
là các chỉ tiêu phải được tính trên cùng một khoảng thời gian hạch toán, phải cùng
phản ánh một nội dung kinh tế, phải cùng một phương pháp tính toán, phải cùng một
đơn vị đo lường và các chỉ tiêu cần phải quy đổi về cùng một quy mô và điều kiện
kinh doanh tương đương nhau.
Tùy theo từng mục đích phân tích mà nhà phân tích sẽ lựa chọn gốc so sánh
cho phù hợp. Gốc so sánh được lựa chọn có thể là gốc về mặt thời gian hoặc không
gian. Tuỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch. Giá trị so sánh có
thể lựa chọn là số tương đối hoặc số tuyệt đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh
gồm:
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 12 of 79 Học viện Ngân Hàng
- So sánh kỳ này với kỳ trước để thấy rõ hơn xu thế thay đổi về tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
- So sánh giữa số liệu thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của
doanh nghiệp.
- So sánh số liệu của doanh nghiệp với số liệu của doanh nghiệp khác hoặc với
số liệu trung bình của ngành để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp là
tốt hay xấu, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.

- So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể,
so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số
tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên
tiếp.
Đây là một phương pháp đơn giản, dễ tính toán, dễ thực hiện. Sử dụng
phương pháp này giúp cho các nhà phân tích đánh giá được vị thế của doanh nghiệp,
tình hình tài chính của doanh nghiệp, xem xét việc thực hiện kế hoạch đã đề ra.
Thông qua đó nhà quản lý đưa ra được kế hoạch chiến lược hoạt động cho thời gian
tới. Tuy nhiên kết quả thu được khi sử dụng phương pháp này chưa phản ánh một
cách tổng quát nhất thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Do vậy khi tiến hành phân
tích tài chính nhà phân tích thường sử dụng phối hợp nhiều phương pháp.
 Phương pháp tỷ lệ
Là phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính
doanh nghiệp. Để áp dụng phương pháp này cần xác định được các ngưỡng, các tỷ số
tham chiếu. Để đánh giá tình trạng tài chính của doanh nghiệp cần so sánh các tỷ số
của doanh nghiệp với tỷ số tham chiếu.
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành
các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt
động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về
cơ cấu vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng
sinh lời.
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 13 of 79 Học viện Ngân Hàng
Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ từng bộ phận của
hoạt động tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau tùy theo giác độ phân tích, người
phân tích lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ cho mục tiêu phân tích
của mình.
 Phương pháp phân tích tài chính Dupont
Phương pháp Dupont được công ty Dupont của Mỹ đưa vào sử dụng trong
phân tích tài chính lần đầu tiên vào khoảng chiến tranh thế giới thứ nhất. Ngày nay

được sử dụng phổ biến trên toàn thế giới. Phương pháp Dupont cho biết mối quan hệ
tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính đặc trưng. Từ một chỉ tiêu tổng thể tách thành nhiều
chỉ tiêu bộ phận. Qua đó, nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến
các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp.
Hai tỷ lệ phổ biến được dùng để phân tích là ROA và ROE.
Ví dụ khi phân tích ROA:
ROA
=
LN (trước) sau thuế
TTSbq
=
LN (trước) sau thuế
DT và TN khác
X
DT và TN khác
TTSbq
ROA phụ thuộc vào 2 yếu tố: lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp trên doanh
thu và hiệu suất sử dụng tổng tài sản. Sự phân tích cho phép xác định được nguồn
gốc làm tăng hay giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.4 Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.4.1 Phân tích khái quát về môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường ngành
Nhà phân tích phải phát hiện những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô,
ngành nghề kinh doanh từ đó đánh giá sơ bộ về môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến
sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp như thế nào? Xác định xu hướng
phát triển, nguy cơ cũng như cơ hội đối với doanh nghiệp.
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 14 of 79 Học viện Ngân Hàng
1.2.4.2 Phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp
 Phân tích khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua các cân
bằng trên bảng cân đối kế toán.

BCĐKT cho biết tình hình tài chính của DN tại những thời điểm nhất định, nó
bao gồm hệ thống các chỉ tiêu tài chính phát sinh phản ánh từng nội dung tài sản và
nguồn vốn. Như vậy, dựa vào số liệu trên BCĐKT ta có thể phân tích được kết cấu
nguồn vốn và tài sản của DN xem xét sự tăng giảm của tài sản và nguồn vốn để phân
tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn.
Để phân tích kết cấu nguồn vốn và tài sản trước hết ta xem xét quy mô của
từng loại nguồn vốn và tài sản thông qua giá trị tuyệt đối của chúng, sau đó tính tỷ
trọng của từng loại tài sản và nguồn vốn. Qua đó đánh giá được cơ cấu của từng loại
tài sản và nguồn vốn chiếm bao nhiêu % trong tổng nguồn. Ta tính trên cả cột đầu
năm và cuối kỳ để xem xét kết cấu nguồn vốn và tài sản của doanh nghiệp trong năm
có ổn định không. Ta cũng có thể so sánh kết cấu nguồn vốn và tài sản của doanh
nghiệp qua một vài năm để xem xét cụ thể biến động của chúng qua cac năm.
Căn cứ vào mối quan hệ trên bảng cân đối kế toán, các nhà phân tích có thể
phân tích được tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu sau:
Thứ nhất: Xác định vốn lưu động thường xuyên:
VLĐTX là phần chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn và tài sản dài hạn. Đây là
một phần vốn ổn định sử dụng cho việc tài trợ tài sản ngắn hạn.
Vốn lưu động thường xuyên được xác định theo 2 cách:
- Cách 1: Vốn lưu động thường xuyên=(Nguồn vốn dài hạn) – (Tài sản dài hạn)
- Cách 2: Vốn lưu động thường xuyên=(Tài sản ngắn hạn) – (Nguồn vốn ngắn
hạn)
Nếu VLĐTX>0, chứng tỏ công ty có một phần nguồn vốn dài hạn đầu tư cho
tài sản ngắn hạn, điều này đem lại cho công ty một nguồn vốn tài trợ ổn định, một
dấu hiệu an toàn, một quyền độc lập nhất định.
Nếu VLĐTX<0, chứng tỏ công ty có một phần tài sản dài hạn được tài trợ
bằng nguồn vốn ngắn hạn, công ty kinh doanh với cơ cấu vốn rất mạo hiểm. Do
nguồn vốn ngắn hạn chỉ được sử dụng trong thời gian ngắn, do vậy khi đến hạn DN
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 15 of 79 Học viện Ngân Hàng
có thể lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, hoặc phải huy động vốn với chi

phí cao, hay chấp nhận bán tài sản cố định của DN, thu hẹp quy mô tài sản. Tuy
nhiên nếu rủi ro chưa xảy ra thì DN sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí sử dụng vốn.
Khi phân tích VLĐTX, ta so sánh VLĐTX giữa các kỳ để thấy được sự biến
động của nó.
Theo công thức 1, ta thấy VLĐTX chịu ảnh hưởng của 2 nhân tố là nguồn vốn
dài hạn và tài sản dài hạn. Bất cứ sự biến động nào của VLĐTX đều cần lý do để giải
thích, cần đặc biệt chú ý đối với các trường hợp vốn dài hạn giảm, TSCĐ giảm hoặc
TSCĐ tăng nhưng làm mất cân đối tình hình tài chính của công ty.
Thứ hai: Xác định nhu cầu vốn lưu động:
N/cVLĐ là nhu cầu vốn phát sinh trong quá trình sản suất kinh doanh của
công ty nhưng chưa được tài trợ bởi bên thứ 3 (người bán, nhận thầu, ngân sách …)
trong quá trình kinh doanh đó.
N/cVLĐ được xác định theo công thức:
Nhu cầu vốn lưu động=(Tài sản kinh doanh) – (Nợ kinh doanh)
Khi N/cVLĐ>0, tức là TSKD > NKD, cho thấy công ty có một phần tài sản
lưu động chưa được tài trợ bởi bên thứ 3.
Khi N/cVLĐ<0, tức là TSKD < NKD, chứng tỏ toàn bộ phần vốn chiếm dụng
từ bên thứ 3 lớn hơn toàn bộ nhu cầu vốn ngắn hạn phát sinh trong quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp.
Thứ ba: Xác định vốn bằng tiền:
Vốn bằng tiền có thể được xác định theo 2 cách:
- Cách 1: Vốn bằng tiền = (Ngân quỹ có) – (Ngân quỹ nợ)
VBT dương hay ngân quỹ có lớn hơn ngân quỹ nợ, chứng tỏ công ty chủ động
về vốn bằng tiền. Ngược lại VBT âm thể hiện công ty bị động về VBT.
- Cách 2: Vốn bằng tiền = (Vốn lưu động thường xuyên) – (Nhu cầu vốn lưu
động)
VBT>0, với N/cVLĐ dương chứng tỏ VLĐTX thỏa mãn N/cVLĐ. Ngược lại,
công ty có quá nhiều tiền do chiếm dụng được vốn từ bên thứ 3 nếu N/cVLĐ âm.
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 16 of 79 Học viện Ngân Hàng

VBT<0, N/cVLĐ>0, VLĐTX>0, chứng tỏ VLĐTX chỉ tài trợ được một phần
N/cVLĐ, phần còn lại công ty phải dựa vào tín dụng ngắn hạn ngân hàng, phần này
càng nhiều, doanh nghiệp càng phụ thuộc vào ngân hàng.
 Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh
Số liệu trên báo cáo KQKD cung cấp những thông tin tổng hợp về phương
thức kinh doanh, việc sử dụng các tiềm năng vốn, lao động kỹ thuật, kinh nghiệm của
doanh nghiệp và chỉ ra rằng HĐKD đó đem lại lợi nhuận hay gây ra tình trạng lỗ vốn.
Nó không chỉ cung cấp số liệu về hoạt động kinh doanh mà DN đã thực hiện trong kỳ
mà còn dự báo các hoạt động của DN trong tương lai.
Thực chất, phân tích báo cáo kết quả HĐKD của DN là phân tích thu nhập và
chi phí.
Thứ nhất: Phân tích doanh thu và thu nhập khác của doanh nghiệp:
Về mặt lý thuyết một DN thông thường cần có nguồn thu nhập chủ yếu,
thường xuyên và ổn định là DTT từ bán hàng và cung cấp dịch vụ. Các khoản thu
nhập khác từ hoạt động tài chính và hoạt động khác chỉ nên mang tính chất bổ sung
cho hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ. Khi phân tích DT, trước hết nhà phân
tích cần xác định rõ được nguồn gốc các khoản thu nhập trong kỳ của DN, từ đó đánh
giá tầm quan trọng, sự ổn định cũng như khả năng tăng trưởng của chúng trong tương
lai. Để làm được điều đó, nhà phân tích có thể tách riêng số liệu về DT và thu nhập
khác của DN từ báo cáo KQKD sau đó xác định tỷ trọng từng loại DT hay thu nhập
khác trong tổng số thu nhập của DN và có thể so sánh cơ cấu thu nhập của năm hiện
tại với các năm trước hay so sánh với cơ cấu thu nhập của doanh nghiệp khác cùng
ngành.
Thứ hai: Phân tích tình hình quản lý chi phí của DN:
Phân tích chi phí của DN để xem xét quá trình phát sinh chi phí, xác định tỷ
trọng và xu hướng thay đổi các yếu tố chi phí để từ đó cắt giảm những chi phí không
cần thiết nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm…. Việc quản lý chi phí để
làm căn cứ xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét mức độ hiệu
quả, mức độ tăng trưởng trong HĐKD của DN.
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9

Khóa luận tốt nghiệp Page 17 of 79 Học viện Ngân Hàng
Phân tích chỉ tiêu trong báo cáo kết quả kinh doanh chúng ta chủ yếu sử dụng
phương pháp so sánh. So sánh chỉ tiêu kỳ này với kỳ trước để xem xét kết quả hoạt
động kinh doanh của DN năm nay có tốt hơn năm trước không?
Thứ ba: Phân tích lợi nhuận:
Lợi nhuận là kết quả cuối cùng trong HĐKD của DN. Nó là chênh lệch giữa
doanh thu và chi phí. Một khi nhà phân tích đã hiểu rõ về sự thay đổi của doanh thu
và chi phí thì sẽ có thể đánh giá được sự thay đổi của lợi nhuận, biết được sự thay đổi
đó là tốt hay xấu, phản ánh những thay đổi mang tính bản chất trong HĐKD của DN
hay chỉ là kết quả của những tác động mang tính ngoại lai, và triển vọng của nó như
thế nào.
 Phân tích khả năng thanh toán ngắn hạn
Khả năng thanh toán là năng lực đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán của công ty.
Với dòng tiền đủ lớn, công ty có thể trang trải cho các nghĩa vụ tài chính, nhờ đó
không lâm vào tình trạng vỡ nợ hay kiệt quệ về tài chính.
Chỉ tiêu đo lường khả năng thanh toán phổ biến nhất là hệ số thanh toán ngắn
hạn và hệ số thanh toán nhanh.
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn:
Hệ số khả năng thanh toán nợ
ngắn hạn
=
Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn đo lường khả năng mà các tài sản
ngắn hạn có thể chuyển đổi thành tiền để hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn. Nếu hệ số
này cao có thể đem lại sự an toàn về khả năng thanh toán cao so với nghĩa vụ phải
thanh toán.
Nếu gặp khó khăn tài chính, công ty có thể không còn khả năng thanh toán
đúng hạn các khoản phải trả hoặc cần mở rộng hạn mức tín dụng tài ngân hàng. Kết
quả là, nợ ngắn hạn sẽ tăng nhanh hơn tài sản ngắn hạn, chỉ số thanh toán ngắn hạn

có thể giảm xuống. Đây có thể là tín hiệu đầu tiên của sự trục trặc về tài chính. Chỉ số
này chỉ thể hiện khả năng thanh toán tại một thời điểm nhất định, vì vậy khi nghiên
cứu cũng cần phải tính toán, thống kê trong một khoảng thời gian đủ dài để có cái
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 18 of 79 Học viện Ngân Hàng
nhìn đầy đủ về lịch sử vận hành và phát triển của công ty. Ngoài ra, cũng có thể so
sánh chỉ số này giữa các công ty trong cùng ngành để đánh giá hiệu quả tương đối
của công ty.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh tương đối: Hệ số này đo lường khả năng
thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của công ty bằng việc chuyển đổi các tài sản ngắn
hạn không kể hàng tồn kho, do không phải lúc nào, nguyên vật liệu, thành phẩm …
hay quá trình từ dự trữ chuyển thành tiền cũng được diễn ra ngay nhanh chóng mà
phải trải qua một thời gian nhất đinh.
Hệ số khả năng thanh toán
nhanh tương đối
=
Tiền + ĐTTC ngắn hạn + Phải thu
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này được đánh giá là tin cậy hơn chỉ tiêu khả năng thanh toán nợ ngắn
hạn vì nó đã loại bỏ ra các tài sản chậm chuyển thành tiền. Nhìn chung, các chủ nợ
thích cho vay đối với các công ty có chỉ tiêu này lớn hơn hoặc bằng 1.
Hệ số khả năng thanh toán ngay: Trong một số trường hợp, tuy công ty có
hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và hệ số khả năng thanh toán nhanh tương đối
cao nhưng vẫn có thể mất khả năng thanh toán các nghĩa vụ nợ đến hạn do các khoản
phải thu chưa thu hồi được. Vì vậy, muốn biết khả năng thanh toán nhanh tức thì của
công ty tại thời điểm nghiên cứu, nhà phân tích có thể sử dụng chỉ tiêu khả năng
thanh toán ngay
Hệ số khả năng thanh toán
ngay
=

Tiền + ĐTTC ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán ngay tức thì của công ty bằng tiền
và các chứng khoán ngắn hạn có tính thanh khoản cao, không bị chi phối bởi thời
gian chuyển đổi hàng tồn kho và các khoản phải thu. Chỉ tiêu này đánh giá chính xác
hơn khả năng thanh toán của công ty vì đã loại bỏ đi được các khoản phải thu khó đòi
hoặc không thể thu hồi.
Hệ số khả năng thanh toán lãi tiền vay:
Hệ số khả năng thanh toán
lãi tiền vay
=
Lợi nhuận trước thuế + Chi phí lãi vay
Chi phí lãi vay
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 19 of 79 Học viện Ngân Hàng
Hệ số này nói lên trong kỳ doanh nghiệp đã tạo ra lợi nhuận gấp bao nhiêu lần
lãi phải trả tiền vay. Thông thường hệ số này càng cao thì rủi ro mất khả năng thanh
toán lãi tiền vay càng thấp và ngược lại.
Ngoài ra để đánh giá khả năng thanh toán của DN có thể dung các chỉ tiêu:
- Hệ số vòng quay khoản phải thu
- Hệ số vòng quay hàng tồn kho
Phương pháp phân tích chủ yếu là so sánh hệ số khả năng thanh toán của
doanh nghiệp giữa các kỳ khác nhau, hệ số khả năng thanh toán của DN với các DN
khác trong ngành, hệ số trung bình ngành. Tuy nhiên, để có kết luận đúng về khả
năng thanh toán của doanh nghiệp cần phải có cách nhìn toàn diện, phải thấy được sự
tác động của các nhân tố làm tăng hay giảm các chỉ tiêu.
 Phân tích các chỉ số về cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư
Cơ cấu tài chính đề cập tới việc công ty sử dụng nguồn tài trợ từ các khoản
vay thay cho vốn cổ phần. Các tỷ lệ này được dùng để đo lường vốn góp của các
CSH với công ty so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với công ty và có ý nghĩa

quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số VCSH của công
ty để xem xét mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn cho chủ nợ về các món nợ.
Nếu CSH công ty chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro trong sản
xuất kinh doanh chủ yêu do chủ nợ phải gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn
thông qua vay nợ, chủ công ty vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành công ty,
nếu công ty thu được lợi nhuận từ tiền vay lớn hơn chi phí sử dụng vốn thì lợi nhuận
dành cho chủ lợi nhuận sẽ gia tăng đáng kể.
Đòn bẩy tài chính là công cụ để khuếch đại tỷ xuất lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu, khi doanh nghiệp làm ăn có lãi. Thêm vào đó, vay nợ cũng là một hình thức tài
trợ vốn quan trọng, tạo lợi thế lá chắn thuế cho công ty vì chi phí lãy vay là một
khoản chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên khi doanh
nghiệp sử dụng càng nhiều nợ thì càng có nguy cơ mất khả năng hoàn thành nghĩa vụ
trả nợ, dẫn tới các rủi ro tài chính và nguy cơ phá sản. Khi sử dụng nợ, chủ nợ và chủ
sở hữu công ty có thể gặp phải những xung đột về quyền lợi. Chủ nợ có thể muốn
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 20 of 79 Học viện Ngân Hàng
công ty thực hiện các khoản đầu tư ít rủi ro hơn so với mong muốn của những người
đầu tư vào cổ phiếu công ty. Cơ cấu tài chính được tính toán như sau:
Hệ số nợ:
Hệ số nợ
=
Nợ phải trả
Tổng nguồn vốn
Hệ số nợ nói lên trong tổng nguồn vốn của công ty, nguồn vốn từ bên ngoài là
bao nhiêu phần, hay trong tổng tài sản hiện có của công ty, có bao nhiêu phần được
hình thành từ vốn vay nợ. Hệ số này càng nhỏ thể hiện mức độ độc lập về tài chính
của công ty càng cao và ngược lại.
Hệ số tự tài trợ
=
Vốn chủ sơ hữu

Tổng nguồn vốn
Hệ số này dùng để đo lường sự góp vốn của chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn
của doanh nghiệp. Nếu hệ số nợ càng thấp thì hệ số tự tài trợ càng cao và ngược lại.
Hệ số nợ dài hạn
=
Nợ dài hạn
Vốn chủ sơ hữu
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ phụ thuộc của DN đối với chủ nợ. Chỉ tiêu này càng
cao thì rủi ro của DN càng tăng. Chỉ tiêu này cao hay thấp cũng tùy theo từng ngành
hoạt động, những ngành có tỷ trọng tài sản cố định lớn thường có chỉ số này cao. Tuy
nhiên theo kinh nghiệm, để hạn chế rủi ro tài chính, thường người cho vay chấp nhận
chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 hay nợ dài hạn không vượt quá nguồn vốn chủ sở hữu. Khi chỉ
tiêu này càng gần 1, doanh nghiệp càng ít có khả năng được vay thêm các khoản vay
dài hạn.
Hệ số tự tài trợ
tài sản dài hạn
=
Vốn chủ sơ hữu
Tài sản dài hạn bình quân
Tỷ suất này lớn hơn 1, thể hiện khả năng tài chính vững mạnh. Ngược lại, nếu
nhỏ hơn 1 có nghĩa là có 1 phần tài sản cố định được tài trợ bằng nguồn vốn vay, nợ.
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 21 of 79 Học viện Ngân Hàng
Nếu nguồn vốn đó là nguồn vốn ngắn hạn thì doanh nghiệp đang sử dụng cơ cấu vốn
mạo hiểm.
 Phân tích chỉ tiêu phản ánh năng lực hoạt động của tài sản
Nhóm chỉ tiêu này được tính cho một thời kỳ thường là 1 năm dương lịch
hoặc năm tài chính, cho thấy công ty khai thác và sử dụng các nguồn lực hiệu quả
như thế nào. Nhóm chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu sau:
- Vòng quay khoản phải thu và kỳ thu tiền bình quân:

Vòng quay khoản phải thu
=
DTT về bán hàng và cung cấp dịch vụ
Các khoản phải thu bình quân
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu
thành tiền mặt của công ty. Thông thường vòng quay các khoản phải thu càng lớn
chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu càng nhanh, công ty ít bị chiếm dụng vốn
và ngược lại. Tuy nhiên không phải lúc nào vòng quay tăng cũng tốt và giảm là
không tốt, phân tích biến động của doanh thu thuần và các khoản phải thu bình quân
trong kỳ để có được cách nhìn nhận đúng đắn.
Kỳ thu tiền bình quân
=
Số ngày trong kỳ phân tích
Vòng quay các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân phản ánh số ngày cần thiết để chuyển các khoản nợ của
khách hàng thành tiền. Kỳ thu tiền bình quân tỷ lệ nghịch với vòng quay các khoản
phải thu. Thông thường, kỳ thu tiền trung bình ngắn thì càng tốt, nó thể hiện thời gian
công ty bị chiếm dụng vốn ngắn.
- Vòng quay hàng tồn kho và số ngày một vòng quay hàng tồn kho:
Vòng quay hàng tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển hàng tồn kho, trong kỳ hàng tồn kho
luân chuyển được bao nhiêu vòng, thể hiện hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Vòng quay hàng tồn kho thấp, thể hiện tốc độ luân chuyển hàng tồn kho chậm, tăng ứ
đọng vốn ở hàng tồn kho, giảm hiệu quả sử dụng vốn, làm tăng nhu cầu vốn lưu động
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 22 of 79 Học viện Ngân Hàng
trong khi quy mô kinh doanh không thay đổi, làm giảm khả năng thanh toán nhanh

tương đối.
Giai đoạn hàng tồn kho bắt đầu từ khi doanh nghiệp bỏ tiền ra mua nguyên vật
liệu, sản xuất xong sản phẩm cho đến quá trình lưu thông để bán sản phẩm.
Số ngày một vòng quay
hàng tồn kho
=
Số ngày kỳ phân tích
Vòng quay tồn kho bình quân
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định:
Hiệu suất sử dụng
tài sản cố định
=
DTT về bán hàng và cung cấp dịch vụ
Tài sản cố định bình quân
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định phản ánh trong một kỳ, một đồng tài sản cố
định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Thông thường, hệ số này càng cao phản
ánh sức sản xuất của tài sản cố định hiệu quả. Tuy nhiên, hệ số này cao nhưng là do
doanh nghiệp thu hẹp quy mô sản xuất là không tốt.
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản:
Hiệu suất sử dụng
tổng tài sản
=
DTT về bán hàng và cung cấp dịch vụ
Tổng tài sản bình quân
Chỉ tiêu này thể hiện trong kỳ, một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng thu
nhập. Thông thường hệ số này càng cao chứng tỏ công ty sử dụng càng hiệu quả tài
sản của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh và ngược lại.
 Phân tích khả năng sinh lợi
Đây là nhóm chỉ tiêu phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và
hiệu năng quản lý công ty.

- Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu:
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
=
Lợi nhuận
Doanh thu
X 100%
Tỷ suất này thể hiện trong 100 đồng doanh thu mà công ty thu được trong kỳ
có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất này càng cao chứng tỏ hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp càng tốt. Tỷ suất này được dùng để phản ánh khả năng sinh lời toàn bộ
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 23 of 79 Học viện Ngân Hàng
hoạt động, khả năng sinh lời hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời hoạt động bán
hàng.
- Khả năng sinh lời tổng tài sản:
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế
trên tổng tài sản (ROA)
=
Lợi nhuận (trước) sau thuế
Tổng tài sản bình quân
X 100%
Tỷ suất này thể hiện trong 100 đồng tài sản hiện có tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế điều chỉnh trên
tổng tài sản (ROA)
=
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Tổng tài sản bình quân
X 100%
Chỉ tiêu này phản 100 đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập trước thuế
và lãi vay. Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của

một đồng vốn đầu tư. Vì nguồn vốn công ty sử dụng để tài trợ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh bao gồm cả vốn của chủ sở hữu và chủ nợ.
- Khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu:
Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE)
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân
X 100%
Chỉ tiêu phản ánh 100 đồng vốn chủ sở hữu trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
Thông thường các chỉ số trên càng cao thể hiện khả năng sinh lời càng tốt.
Bên cạnh đó, nhà phân tích cần sử dụng phương pháp phân tích Dupont kết hợp với
phương pháp thay thế liên hoàn và số chênh lệch để hiểu rõ nguyên nhân tạo nên
những biến động đó.
 Phân tích cơ bản báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Bước 1: Đánh giá xem nguồn thu và chi bằng tiền chủ yếu từ hoạt động kinh
doanh, hoạt động đầu tư hay hoạt động tài chính.
Các nguồn tiền chính của một công ty có thể thay đổi theo giai đoạn tăng
trưởng của nó. Trong dài hạn thì công ty phải tạo ra tiền từ hoạt động kinh doanh.
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 24 of 79 Học viện Ngân Hàng
Nếu dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của công ty liên tục bị âm thì công ty
cần phải vay tiền hoặc phát hành cổ phiếu (hoạt động tài chính) để tài trợ cho phần
thiếu hụt. Nhưng cuối cùng thì các nhà tài trợ vốn này cũng phải nhận lại được tiền
nhờ hoạt động kinh doanh, nếu không họ sẽ không tiếp tục cấp vốn cho doanh
nghiệp. Tiền được tạo ra từ hoạt động kinh doanh có thể được dùng cho hoạt động tài
chính và hoạt động đầu tư. Nếu công ty có những cơ hội kinh doanh hoặc cơ hội đầu
tư khác tốt thì sử dụng tiền cho hoạt động đầu tư, nếu không thì nên trả lại vốn cho
các nhà cấp vốn tức là hoạt động tài chính. Tóm lại phải xác định được dòng tiền thu
và chi chính của doanh nghiệp là gì? , lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh

có dương hay không và có đủ để tài trợ chi phí đầu tư hay không?
Bước 2: Đánh giá các nhân tố chủ yếu của lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh
doanh.
Nhà phân tích cần tìm hiểu các nhân tố quan trọng nhất quyết định dòng tiền
từ hoạt động kinh doanh. Trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp gián tiếp,
ta có thể xem xét sự tăng, giảm của các khoản phải thu, tồn kho, phải trả, … để biết
xem công ty đang tạo ra tiền hay phải chi tiền cho hoạt động kinh doanh và tại sao.
Việc so sánh giữa lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh với lợi
nhuận sau thuế cho ta thấy chất lượng của lợi nhuận. Nếu một công ty có lợi nhuận
sau thuế lớn mà dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh kém thì đó có thể là một
dấu hiệu của chất lượng lợi nhuận thấp.
Tóm lại, cần phải xem xét các yếu tố: Những nhân tố chính quyết định dòng
tiền từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh cao hơn hay thấp
hơn lợi nhuận sau thuế, lý do, và dòng tiền từ hoạt động kinh doanh có ổn định
không?
Bước 3: Đánh giá nhân tố chủ yếu của lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư.
Trong phần hoạt động đầu tư, nhà phân tích cần đánh giá từng khoản mục
một. Mỗi khoản mục đều thể hiện hoặc là nguồn tiền, hoặc là sử dụng tiền của doanh
nghiệp. Điều này cho phép ta hiểu được xem tiền đang được thu hay chi cho hoạt
động gì.
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9
Khóa luận tốt nghiệp Page 25 of 79 Học viện Ngân Hàng
Nếu công ty thực hiện một khoản đầu tư lớn, ta cần biết xem tiền đầu tư được
lấy từ đâu, từ hoạt động kinh doanh hay hoạt động tài chính.
Bước 4: Đánh giá các nhân tố chủ yếu của lưu chuyển tiền từ hoạt động tài
chính.
Trong phần này nhà phân tích cần xem xét từng khoản mục để hiểu được xem
công ty đang thu hút vốn hay hoàn trả vốn, cũng như bản chất của nguồn vốn là gì.
Nếu mỗi năm công ty đều vay nợ thêm thì ta cần cân nhắc tới thời điểm đáo hạn nợ là
bao giờ. Phần này cũng cho biết lượng cổ tức được chi trả cùng giá trị của cổ phiếu

quỹ mà công ty mua lại. Đây chính là các cách thức hoàn trả vốn khác nhau cho chủ
sở hữu của công ty.
1.2.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động phân tích của công ty
1.2.5.1 Nhân tố khách quan
 Về phía nhà nước
Để có thể thực hiện được chức năng, vai trò điều tiết, định hướng và quản lý
các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, nhà nước cần thiết phải ban hành một hệ
thống các quy phạm pháp luật để có thể điều chỉnh một bộ phận lớn và đặc thù các
hoạt động và quan hệ xã hội. Đối với lĩnh vực tài chính kinh tế, nhà nước cần ban
hành các chính sách, chế độ có tính chuẩn mực. Trong điều kiện đó, báo cáo tài chính
được nhà nước quy định theo một số chuẩn mực nhất định và có tính chất bắt buộc.
Một số loại hình báo cáo tài chính tùy theo điều kiện của mỗi công ty có thể có tính
chất bắt buộc hoặc không đối với các công ty.
Báo cáo tài chính được nhà nước quản lý rất chặt chẽ theo cấp và được xác
định thống nhất về phương pháp lập, phương pháp tính, thời gian lập và gửi… Các
thông tin kế toán trên báo cáo tài chính phải có tính chất xác thực và có cơ sở.
Các công ty thực hiện tốt quá trình phân tích tài chính phải lập đầy đủ và
chính xác các báo cáo tài chính. Nếu chính sách của nhà nước nói chung và chính
sách kinh tế tài chính nói riêng chưa hoàn thiện thì sẽ có sự ảnh hưởng tới công tác
phân tích tài chính doanh nghiệp.
Vũ Minh Ngọc Lớp : TCDN A – K9

×