CUỘC ĐỜI- VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NGUYỄN DU
Cuộc đời
Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng, tại Thăng Long.
Tổ tiên ông vốn từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (thuộc Hà
Tây và nay thuộc Hà Nội) sau di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng
Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).
Nguyễn Du thuộc về một gia đình khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời
Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan.
Đến thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm
quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận Công dưới triều Lê Ngoài là
một đại thần, ông Nghiễm còn là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu sử học. Ông
Nghiễm có cả thảy tám vợ và 21 người con trai
[1]
. Người con trưởng là Nguyễn
Khản (1734-1786) đỗ Tam giáp tiến sĩ, làm quan tới chức Tham Tụng, tước Toản
Quận Công (con bà chính, rất mê hát xướng, nổi tiếng phong lưu một thời, thân với
chúa Trịnh Sâm), người con thứ hai là Nguyễn Điều đỗ Hương cống, từng làm trấn
thủ Sơn Tây. Nếu kể theo thứ tự này, thì Nguyễn Du đứng hàng thứ bảy, nên còn được
gọi là Chiêu Bảy.
Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778), con gái một người thuộc hạ
làm chức câu kế,
[2]
, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc
tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, trẻ hơn chồng 32 tuổi. Bà
sinh được năm con, bốn trai và một gái.
[3]
.
Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài
không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các
anh em ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản (khi ấy ông
Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi)).
Năm 1780, khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật án Canh Tý”:
Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh
Tông. Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi,
ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng. Quân lính khác phe (sử
gọi là “kiêu binh”) không phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn
lên Sơn Tây sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh. Thế là anh em
Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã.
Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau đó không rõ vì lẽ
gì không đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà (không rõ tên) ở Thái Nguyên,
không có con nên đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn
Du được tập ấm
[4]
một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.
Năm 1786, Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà.
Năm 1789, Nguyễn Huệ, một trong ba thủ lĩnh của nhà Tây Sơn đã kéo quân ra
Bắc đánh tan hai mươi mấy vạn quân Thanh sang tiến chiếm Đại Việt. Nguyễn Du
cũng chạy theo vua Lê Chiêu Thống (1766-1793) nhưng không kịp, đành trở về quê
vợ
[5]
, quê ở Quỳnh Côi ở Thái Bình, sống nhờ nhà người anh vợ là danh sĩ Đoàn
Nguyễn Tuấn (1750-?).
Được vài năm, Nguyễn Du về Nghệ An. Năm 1796, nghe tin ở Gia Định,
chúa Nguyễn Ánh (1762-1819) đang hoạt động mạnh, ông định vào theo, nhưng chưa
đi khỏi địa phận Nghệ An thì đã bị quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Thuận chỉ huy,
bắt giữ ba tháng. Trở về Tiên Điền (Hà Tĩnh), ông sống chật vật một thời gian dài cho
đến mùa thu năm 1802, khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, thì
ông được gọi ra làm quan cho nhà Nguyễn.
Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái
Châu, Hưng Yên). Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay
thuộc Hà Nội).
Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau: Năm 1803: đến
cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.
Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ.
Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.
Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
Năm 1813: thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.
Sau khi đi sứ về vào năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ.
Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại
được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột
(trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh
đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9 năm 1820
[6]
Lúc đầu (1820), Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền,
tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh)
[7]
.
[sửa] Tác phẩm
[sửa] Khái quát
Xét về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề
cao xúc cảm, tức đề cao “tình”. Điều quan trọng hàng đầu, là sự cảm thông sâu sắc
của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất
hạnh (xem: Văn tế thập loại chúng sinh, Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giả v.v.). Cái
nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là “ tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo
chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”. Riêng vớiTruyện Kiều, kiệt tác
này còn “thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi.”
Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững
nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật , thất ngôn luật, ca,
hành nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ
bằng chữ Nôm của ông, mà bằng chứng là ở Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát
“có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn của thể loại truyện thơ.”
[8]
[sửa] Tác phẩm bằng chữ Hán
Tính đến tháng 5 năm 2008, giới chuyên môn đã sưu tập được 249 bài thơ chữ
Hán của Nguyễn Du, được chia ra như sau:
Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu
trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài,
viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc)
gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.
Nhận xét về mảng thơ này, Ngữ văn 10 tập 2 viết:
"Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, nhân cách của ông. Các bài
thơ trong Thanh Hiên thi tập và Nam trung tạp ngâm tuy biểu hiện một tâm trạng
buồn đau, day dứt nhưng đã cho thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về cuộc
đời, về xã hội của tác giả. Trong Bắc hành tạp lục, những điểm đặc sắc tư tưởng, tình
cảm của Nguyễn Du được thể hiện rõ ràng hơn. Có ba nhóm đáng chú ý: Một là ca
ngợi, đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán những nhân vật phản diện.
Hai là phê phán xã hội phong kiến chà đạp quyền sống con người. Ba là cảm thông
với những thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt hủi "(tr. 94)
[sửa] Tác phẩm bằng chữ Nôm
Sáng tác của Nguyễn Du gồm có:
Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đan đứt ruột. Tên phổ
biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát.
Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi
bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc.
Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học ghi: Có thuyết cho rằng Nguyễn Du
viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước
khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết
sau được nhiều người chấp nhận hơn (tr. 1844)
Ngữ văn 10 tập 2 đánh giá: "Trên nền tảng nhân đạo chủ nghĩa vững chãi, với
tài năng điêu luyện, với sự lựa chọn thể loại truyện thơ kết hợp nhuần nhuyễn cả chất
tự sự và chất trữ tình, với sự am hiểu đồng thời cả ngôn ngữ bình dân cũng như ngôn
ngữ văn học bác học, Nguyễn Du đã sáng tạo nên một kiệt tác độc nhất vô nhị của văn
học trung đại Việt Nam." (tr.94)
Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế
mười loại chúng sinh), hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang
Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo”
năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng
triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người
ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân
Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn
làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát,
gồm 184 câu thơ chữ Nôm.
Ngữ văn 10 tập 2 nhận xét: "Nguyễn Du viết bài thơ chiêu hồn cho nhiều hạng
người khác nhau, kể cả những người thuộc tầng lớp phong kiến quý tộc. Song tấm
lòng nhân ái của nhà thơ vẫn hướng về những thân phận nhỏ bé, dưới đáy xã hội Do
giá trị nhân đạo sâu sắc mà Văn Chiêu hồn đã được phổ biến rộng rãi, kể cả trong
phạm vi nhà chùa." (tr. 95)
Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung
là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.
Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ
nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.
Hai bài này được sáng tác khoảng thời gian Nguyễn Du về sống ở Nghệ An,
sau bị quân Tây Sơn bắt giữ rồi thả.
Theo Từ điển văn học (bộ mới) thì: "Bài Thác lời trai phường nón rất tình tứ,
mang âm hưởng củaca dao, của vè còn đậm nét. Bài Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ,
tác giả cũng học tập ở ca dao,tục ngữ, thành ngữ nhưng chưa được nhuần nhuyễn;
nhiều chổ tác giả tỏ ra quá lệ thuộc, làm giảm tính sáng tạo của mình.
[sửa] Nỗi lòng Nguyễn Du
Nỗi lòng của Nguyễn Du rất phức tạp. Để hiểu nó, các nhà nghiên cứu văn học
thường dựa vàoGia phả họ Nguyễn Tiên Điền và các tác phẩm của ông (đặc biệt
là Truyện Kiều) để rút ra một số nhận định. Nhưng những nhận định ấy đến nay vẫn
chưa thống nhất, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau một cách sâu sắc.
Trích một số ý kiến:
Năm 1963, GS. Phạm Thế Ngũ viết:
"Một thuyết thịnh hành từ lâu do Trần Trọng Kim xướng ra rằng Truyện Kiều
chứa đựng một tâm sự tha thiết nhất của Nguyễn Du, ấy là cái tâm sự của kẻ hàng
thần nhớ chúa cũ (hoài Lê). Thuyết trên không phải là điều bị đặt mà có sở cứ rõ ràng.
Thái độ phò Lê của ông được tỏ rõ trong những mưu toan chống Tây Sơn. Về sau, bất
đắc dĩ phải ra hợp tác với Nguyễn, ông thường tỏ ra kín đáo, nếu không nói là lãnh
đạm, lúc nào cũng như mang nặng trong lòng một bầu u uất khó nói. Nỗi lòng ấy chỉ
có thể là, như lời ai điếu của Bùi Kỷ trong bài Truy điệu cụ Tiên Điền vào năm 1927:
Dở dang thay cái tu mi.
Cực trăm nghìn nỗi trong khi tòng quyền.
"Hành vi của tác giả chứng tỏ, mà văn chương của tác giả nhiều khi cũng hé lộ
rõ ràng. Nhiều bài thơ chữ Hán của ông trong Thanh Hiên tập, Bắc hành tập, đầy ý
điếu cổ thương kim, giọng khảng khái bi đát. Cho đến bao nhiêu câu trong
chính Truyện Kiều tả thân thế người con gái lưu lạc cũng gióng lên tiếng đau buồn ấy
của tác giả "(tr. 360)
Năm 1967, GS. Thanh Lãng viết:
"Anh em Nguyễn Du đã từng cầm quân ủng hộ nhà Lê, tỏ ra khí phách hơn
người. Nhưng công việc không thành, nhà chính trị trẻ tuổi (Nguyễn Du) bỏ về quê,
lấy thú chơi săn bắn ở núi Hồng Lĩnh "Và như phần đông nho sĩ đương thời, ông
cho cái đời làm quan dưới một triều đại mới là một trạng thái “thất tiết”, thành ra suốt
đời lúc nào ông cũng buồn rầu, ân hận "(tr. 612)
Năm 1973, nhà phê bình Thạch Trung Giả viết:
"Điều hiển nhiên là niềm tưởng nhớ nhà Lê, nỗi uất ức của người dồn phải dồn
vào thế hàng thần. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Du là một con người có khí tiết nên
đã từng mưu sự cần vương chống Quang Trung. Đến khi nhà Tây Sơn đổ vì nhà
Nguyễn, đám cố Lê hết chính nghĩa để chống lại, nhưng những người như Nguyễn Du
vẫn không quên mình và ông cha mình đã từng ăn lộc nhà Lê. Vậy việc phải làm tôi
cho Gia Long là một vạn bất đắc dĩ, một sự đau lòng, một sự tủi nhục "(tr. 370)
Năm 1978, GS. Trương Chính viết:
"Đọc ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng ta có thể giải quyết được một
vấn đề trước nay ý kiến rất phân tán: thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại."
"Trong một thời gian khá dài, từ khi Tây Sơn ra Bắc hà (1786) cho đến khi Tây
Sơn thất bại (1802), rõ ràng Nguyễn Du có tính việc phục quốc (phù Lê)." Nhưng
những chiến thắng của Quang Trung năm 1789 đã làm cho nhiều người có tư tưởng
chống Tây Sơn khiếp đảm. Do đó, Nguyễn Du bi quan, chán nản."
"Tuy vậy, đến khi ông trở về quê nhà, dưới chân núi Hồng Lĩnh, chí phục
quốc vẫn chưa nguôi. Thế là, theo Gia phả, ông toan vào Gia Định giúp Nguyễn
Ánh."
"Và sau này, cũng theo Gia phả thì: Mùa hạ, tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802),
vua Cao Hoàng (tức Gia Long) đi ra Nghệ An. Ông (Nguyễn Du) đón xe yết kiến vua
và được đem thủ hạ đi theo ra Bắc. Mùa thu tháng 8 năm ấy, ông được bổ tri huyện
huyện Phù Dung. "Về điểm này, Đại Nam chính biên liệt truyện chép hơi khác: Đến
khi có lệnh (Gia Long) gọi, không thể từ chối, ông bất đắc dĩ phải ra. Ở đây, chưa
bàn Gia phả hay Liệt truyện chép đúng, nhưng cũng như một số nhà nho đương thời,
thái độ của Nguyễn Du đối với nhà Nguyễn có khác hơn đối với Tây Sơn. Nghĩa là
những cựu thần nhà Lê này vẫn có thể ra phò giúp mà lương tâm không cắn rứt."
"Nhưng tại sao Nguyễn Du được nhà Nguyễn tin dùng mà thái độ hình như là
bất đắc chí. Sách Đại nam chính biên liệt truyện cho biết Đối với nhà vua thì ông chỉ
giữ hết bổn phận, chứ không hay nói năng điều gì” khiến có khi bị nhà vua quở
trách "Qua những bài thơ trong Nam trung tạp ngâm, kể cả những bài thơ làm trong
khi đi sứ, quanh quẩn chỉ bấy nhiêu ý: ca tụng lòng tiết nghĩa, mạt sát những người
cầu phú quí công danh, nhớ nhà, nhớ thú săn bắn, muốn về yên nghĩ, cho đời là một
cuộc bể dâu Nghĩa là Nguyễn Du đã nhìn thấy những nỗi đau khổ của quần chúng bị
áp bức, đã thấy được cái mục nát, tàn khốc trong triều đình nhà Nguyễn, cho nên ông
đã gửi tâm sự vào hai câu thơ:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như."
[9]
Và ý kiến của Nguyễn Lộc trong Từ điển văn học (bộ mới), xuất bản năm
2004:
"Có một điều lạ là Nguyễn Du từng chạy theo Lê Chiêu Thống, và như một số
tài liệu nói, ông từng có ý định chống nhà Tây Sơn; nhưng trong các sáng tác của ông,
những thái độ này rất mờ nhạt. Trong khi những người khác có hàng tập thơ khóc vua
Lê thì ông chỉ ít nhiều rõ nét trong mỗi bài My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù)
và đả kích nhà Tây Sơn, thì Nguyễn Du không có một bài nào đả kích. Với nhà
Nguyễn, ông được trọng vọng, mà trong thơ ông có cái gì như chán chường nhà
Nguyễn. Cũng giống như Thanh Hiên thi tập, trong Nam Trung tạp ngâm, chưa bao
giờ Nguyễn Du nói rõ cái tâm sự thật của mình; rải rác đây đó, trong thơ chỉ thấy ông
than thở cuộc đời là đáng buồn, đáng chán, là vô nghĩa, là bãi bể nương dâu.
Trong Bắc hành thi tập, nhà thơ có viết về Thăng Long (2 bài) để nói lên
những đổi thay đáng buồn của một đế đô. Tuy bài thơ toát lên một tình cảm nhớ cổ,
thương kim da diết, mông lung , nhưng khó có thể nói đây là bài thơ nhớ nhà Lê được.
Còn ở Long thành cầm giả ca, thì bài thơ không có tí gì gọi là thù địch với nhà Tây
Sơn, mà trái lại, trong khi thương xót cho số phận của người ca nữ, nhà thơ lại có vẻ
như ngậm ngùi cho sự sụp đổ của triều đại trên Thái độ của ông như thế nào, thật hết
sức khó hiểu. (tr. 1122)
Bởi còn đôi điều khác biệt trên, nên chỉ có thể tạm kết luận:
Nguyễn Du là một con người suy nghĩ nhiều về cuộc sống đương thời, có thái
độ yêu ghét khá rõ trước cái tốt cái xấu, nhưng không sao thoát khỏi buồn phiền vì
không giải thích nổi cuộc đời và không biết phải làm thế nào để thay đổi cuộc đời
đó.
[10]
[sửa] Chú thích
1. ^ Ghi theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr. 18.
2. ^ Từ điển văn học (bộ mới) ghi: xuất thân từ giới bình dân. (tr.1120)
3. ^ Thứ tự như sau: Nguyễn Trụ, Nguyễn Nễ (hơn Nguyễn Du 4 tuổi),
Nguyễn Du, Nguyễn Ức (kém Nguyễn Du 2 tuổi) và Nguyễn Thị Niên. Năm 1775,
người con đầu của bà Tần mất, mới 18 tuổi, năm sau chồng mất, hai cái tang liền làm
cho bà đau buồn rồi lâm bệnh mất ngày 27 tháng 7 năm 1778, khi mới 39 tuổi
(theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr 19 và Từ điển văn học(bộ mới), tr. 1120.)
4. ^ Tập ấm: Tập có nghĩa truyền lại đời sau, ấm có nghĩa là nhờ ơn người
trước để lại mà con cháu được phong tặng chức tước hoặc miễn cho một trách nhiệm
nào đó.
5. ^ Vợ Nguyễn Du, sách Ngữ văn 10 không ghi tên, chỉ cho biết là con
gái Đoàn Nguyễn Thục, quê ở Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam, nay thuộc tỉnh Thái Bình.
Khi đến sống ở đây, vài tác giả như Phạm Thế ngũ (sách ghi bên dưới, tr. 349) cho
biết Nguyễn Du có mưu chống lại Tây Sơn, nhưng việc không thành nên bỏ về Nghệ
An. Nhưng theo Từ điển văn học, căn cứ vào những sáng tác viết vào khoảng thời
gian này trong Thanh Hiên thi tập, thì hình như Nguyễn Du chủ yếu là trốn tránh để
giữ mình, chứ không có âm mưu chống đối gì.
6. ^ Ghi theo Ngữ văn 10 tập 2 (Nxb Giáo dục, 2008, tr.93). Còn Văn học
11 tập I (Nxb Giáo dục, 1981, tr 23), Từ điển Văn học (bộ mới, sách đã dẫn,
tr.1120) và theo cách tính của website [1]đều cho biết đó là ngày 16 tháng 9 năm
2008.
7. ^ Phần tiểu sử Nguyễn Du dựa theo Từ điển văn học (bộ mới), Ngữ văn
10 tập 2, Thơ chữ Hán Nguyễn Du và Việt Nam văn học sử giản ước tân biên quyển
2 của Phạm Thế Ngũ. Và theo GS. Trương Chính thì một phần cuộc đời của Nguyễn
Du được phân ra mấy giai đoạn như sau: Năm 1786 cho đến khoảng cuối năm 1795
đầu năm 1796, là giai đoạn “Mười năm gió bụi”. Năm 1796 cho đến năm 1802 là giai
đoạn “Dưới chân núi Hồng”. Từ năm 1802 đến cuối năm 1804 là giai đoạn “Ra làm
quan ở Bắc Hà” (Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr. 15-16)
8. ^ Lược theo Một vài đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ văn
Nguyễn Du, Ngữ văn 10, tr. 95-96.
9. ^ Lược theo bài Giới thiệu của Gs Trương Chính trong Thơ chữ Hán
Nguyễn Du, tr. 29 - tr.48
10. ^ Văn học 11, Nxb Giáo dục, 1981, tr.24.