La Mã cổ đại
Đế chế La Mã cổ đại thời Trajan (98-117)
La Mã cổ đại hay Roma cổ đại là nền văn minh đã từng tồn tại ở châu Âu, Bắc
Phi, và Trung Đông từ năm 753 TCN do người La Mã kiểm soát và sụp đổ vào
năm 476. Trong nhiều thế kỉ, nó bao gồm toàn bộ Tây Âu và tất cả vùng lãnh thổ
bao quanh biển Địa Trung Hải và một số vùng đất bao quanh Biển Đen.
Mục lục
1 Lịch sử
o 1.1 Thời kì Quân chủ
o 1.2 Thời kì Cộng hoà
o 1.3 Thời kì Đế quốc
o 1.4 Sụp đổ
2 Xã hội
o 2.1 Chính phủ
o 2.2 Luật pháp
o 2.3 Kinh tế
o 2.4 Gia đình
o 2.5 Các tầng lớp
o 2.6 Cưới xin
o 2.7 Giáo dục
o 2.8 Sức khỏe
3 Kinh tế
o 3.1 Tài chính
o 3.2 Buôn bán
4 Văn hóa
5 Kĩ thuật
6 Nhân khẩu học
7 Chú thích
8 Tham khảo
9 Đọc thêm
10 Xem thêm
11 Liên kết ngoài
[ ] Lịch sử
[ ] Thời kì Quân chủ
Thành phố Roma phát triển từ những khu định cư trên và xung quanh đồi Palatine,
xấp xỉ mười tám dặm từ biển Tyrrhenia (một phần của biển Địa Trung Hải) trên
dòng sông Tiber. Tại vị trí này sông Tiber có một hòn đảo mà ở đó có thể lội qua
sông. Do dòng sông và chỗ cạn, Roma ở vị trí quyết định đối với giao thông và
buôn bán.
Trong truyền thuyết của người La Mã, Roma được xây dựng bởi Romulus vào
ngày 21 tháng 4 năm 753 TCN. Romulus, người mà tên đã được coi là sinh ra tên
của thành Roma, là người đầu tiên trong 7 vị vua của Roma mà người cuối cùng là
Tarquin Kiêu hãnh bị phế truất vào năm 510 hay 509 TCN khi La Mã Cộng hoà
được thiết lập. Những vị vua thần thoại hay bán thần thoại là (theo thứ tự thời
gian): Romulus, Numa Pompilius (Vua hiền Numa), Tullus Hostilius, Ancus
Marcius, Tarquinius Priscus, Servius Tullius, và Tarquinius Superbus (Tarquin
Kiêu hãnh).
[ ] Thời kì Cộng hoà
Bài chi tiết: Cộng hòa La Mã
Cộng hòa La Mã được thành lập vào năm 509 TCN, theo những tác giả về sau như
Livy, khi nhà vua bị hạ bệ, và một hệ thống dựa trên những quan chức hành chính
địa phương được bầu ra hằng năm. Quan trọng nhất là hai quan chấp chính tối cao,
những người cùng nhau áp dụng quyền hành pháp, nhưng phải đấu tranh với Hội
đồng Nguyên lão cứ lớn lên về qui mô và quyền lực cùng với lực lượng của nền
Cộng hoà. Các chức vị quan toà lúc đầu chỉ được giới hạn cho quí tộc nhưng sau
này được mở rộng cho cả người bình dân.
Người La Mã dần dần đánh bại những dân tộc khác trên bán đảo Ý, chủ yếu liên
quan đến những bộ tộc Ý khác (thuộc dòng Ấn-Âu) như người Samnite và Sabine,
nhưng cũng có cả người Etrusca. Mối đe doạ cuối cùng cho đế chế La Mã đến khi
Tarentum, một thuộc địa lớn của Hy Lạp, nhận được sự giúp đỡ của vua xứ Ipiros
là Pyrros vào năm 282 TCN.
Trong nửa sau của thế kỉ thứ 3 TCN, Roma xung đột với Carthage trong 2 cuộc
Chiến tranh Punic, xâm chiếm Sicilia và Iberia. Sau khi đánh bại Vương quốc
Macedonia và Đế chế Seleucid vào thế kỉ thứ 2 TCN, người La Mã trở thành
những người chủ không thể chối cãi của vùng Địa Trung Hải.
Xung đột nội bộ giờ đây trở thành mối đe doạ lớn nhất đối với nền Cộng hoà. Hội
đồng Nguyên lão, khư khư giữ lấy quyền lực cho mình, liên tục phản đối những
cải cách đất đai quan trọng. Một hậu quả không lường trước được từ cải cách quân
sự của Gaius Marius là quân lính thường có lòng trung thành với người chỉ huy
của họ nhiều hơn đối với thành phố, và một vị tướng hùng mạnh như Marius, hay
đối thủ của ông Lucius Cornelius Sulla, có đủ khả năng uy hiếp buộc thành phố và
Hội đồng Nguyên lão phải nhượng bộ.
Vào giữa thế kỉ 1 TCN ba người, Julius Caesar, Gnaeus Pompeius Magnus
(Pompey) và Marcus Licinius Crassus, đã nắm quyền kiểm soát không chính thức
của chính phủ cộng hoà thông qua một hiệp ước bí mật được biết đến như là Chế
độ Tam hùng đầu tiên. Caesar có thể hoà hợp với những đối thủ Pompey và
Crassus, cả hai đều là những người cực giàu với quân đội riêng và sự nghiệp
thượng nghị sĩ, và hành động vì lợi ích của cả hai người khi bầu chọn quan chấp
chính tối cao, trước khi dùng cương vị thống đốc của mình như người cầm quyền
của Gaule để tự mình có được danh tiếng quân sự.
Sau cái chết của Crassus và sự sụp đổ của chế độ Tam hùng, một sự tách biệt giữa
Caesar và Hội đồng Nguyên lão đã dẫn tới nội chiến, với Pompey dẫn đầu lực
lượng của Hội đồng. Caesar chiến thắng và được phong làm nhà độc tài suốt đời
sau khi từ chối tước hiệu quốc vương. Tuy nhiên, ông ta chiếm lấy quá nhiều
quyền lực quá nhanh đối với một vài thượng nghị sĩ, và bị ám sát trong một âm
mưu được tổ chức bởi Brutus và Cassius vào ngày 15 tháng 3 năm 44 TCN.
Một chế độ Tam hùng thứ hai, bao gồm người thừa kế đã được chỉ định của
Augustus và những cựu trợ thần Marcus Antonius và Marcus Aemilius Lepidus,
lên nắm quyền, nhưng những thành viên của nó nhanh chóng rơi vào một cuộc đấu
tranh giành quyền thống trị. Trong nỗ lực cuối giành chính quyền Cộng hoà,
Augustus đánh bại Antonius tại trận chiến Actium vào năm 31 TCN và thôn tính
những vùng lãnh thổ của Cleopatra, người vợ phương Đông của Antonius.
Augustus giữ lại Ai Cập như là thuộc địa không chính thức của nhà vua, bảo đảm
một thu nhập để lấy lòng những cư dân thủ đô. Giờ đây ông ta nắm lấy quyền lực
gần như tuyệt đối với tư cách là thống soái quân sư, người bảo vệ duy nhất của
quần chúng, và quyền lực tối cao trên lãnh thổ La Mã, và lấy tên Augustus. Những
xác lập hiến pháp trên (đã biến Roma từ một nước cộng hoà thành một đế quốc).
Người kế vị được chỉ định của Augustus, Tiberius, lên nắm quyền mà không có
cuộc đổ máu nào (thậm chí còn không có nhiều sự kháng cự), và như vậy đã hoàn
thành công trình của ông.
[ ] Thời kì Đế quốc
Bài chi tiết: Đế quốc La Mã
Xem thêm: Lịch sử đế chế La Mã
Trong thời kì Đế quốc, biên giới đế chế tương đối ổn định vì người La Mã đã chế
ngự được các cuộc nổi dậy, những kẻ lăm le quyền lợi đế quốc, những cuộc xâm
lược của những "người man rợ" (barbarian) và những khó khăn khác. Để đối phó
tốt hơn với nhiệm vụ giữ cả đế chế lại với nhau, các hoàng đế bắt đầu chỉ định các
vị đồng hoàng đế (co-emperor), mặc dù điều này thường dẫn đến nội chiến. Sau
năm 395 đế chế đã bắt đầu tách thành hai phần đông và tây.
[ ] Sụp đổ
Theo Edward Gibbon, Đế quốc La Mã đã không chống cự được cuộc xâm lược
của người man rợ (barbarian) do sự mất lòng tin đối với các cư dân. Họ đã trở nên
lười biếng và uỷ mị, giao phó nghĩa vụ bảo vệ Đế chế của họ cho bọn lính đánh
thuê người dã man. Vai trò của lực lượng quân đội người dã man trở nên dày đặc
và ăn sâu đến nỗi họ có thể dễ dàng vượt mặt Đế chế. Những người La Mã,
Gibbon nói, đã trở thành ẻo lả như phụ nữ và không muốn sống theo kiểu quân sự.
Thêm vào đó, Gibbon cũng ám chỉ vai trò của Thiên chúa giáo trong sự sụp đổ của
Roma. Thiên chúa giáo, ông nói, đã tạo ra niềm tin vào một thế giới khác và gợi ý
rằng có một cuộc sống tốt đẹp hơn sau cái chết. Điều này cổ vũ sự thờ ơ giữa
những công dân La Mã tin rằng họ sẽ có một cuộc sống tốt hơn sau khi họ chết, do
đó huỷ hoại ý muốn của họ về việc duy trì và hi sinh cho đế chế. Thêm nữa, sự nổi
lên của Thiên chúa giáo cũng tạo ra một sự xác định tư hữu quan trọng hơn nhà
nước, làm thu nhỏ hơn mong muốn đưa những nhu cầu của nhà nước lên trên của
bản thân. Giải thích này được nhìn nhận với thái độ hoài nghi bởi đế chế chỉ bị tan
rã ở phía Tây, trong khi ở phía Đông, Đế chế vẫn tiếp tục như là Đế chế Byzantine
ở Phương Đông. Tuy nhiên, mọi người điều đồng ý rằng sự suy tàn và sụp đổ của
Đế chế La Mã rất phức tạp không chỉ có một nguyên nhân.
Các nhà sử học ngày nay đã đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau cho sự sụp đổ của
đế chế phía tây: việc nhiễm độc chì các thùng rượu, bệnh dịch, sự mục nát chính
trị, văn hóa đô thị không còn sức sáng tạo, và việc dịch chuyển dịch vụ quân sự
cho người nước ngoài và người ở ven đế quốc.
Trong Đế quốc La Mã, từ "người dã man" chỉ bất cứ ai không phải là một công
dân La Mã, và được áp dụng chủ yếu cho những bộ tộc Bắc Âu ngoài tầm ảnh
hưởng của nền văn hoá Roma.
[ ] Xã hội
Hệ thống dẫn nước đế chế La Mã
Cuộc sống của các cư dân La Mã cổ đại được xác định quanh các thành phố như
thành phố Roma. Thành phố có một số lượng khổng lồ các công trình xây dựng
như là Colosseum, quảng trường của hoàng đế Trajan và đền thờ các vị thần
(Pantheon). Trên thành phố Roma cổ có các vòi nước uống tươi mát được cung
cấp thường xuyên bởi những hệ thống dẫn nước dài hàng trăm dặm, các rạp hát,
khu thể thao lớn, tổ hợp các phòng tắm phức hợp với thư viện và khu mua sắm,
khu chợ lớn, cùng với các khu vực sản xuất hàng hóa. Trên lãnh thổ của La Mã,
các kiến trúc về nhà ở rất đa dạng, từ những căn nhà đơn giản cho đến các biệt thự
quý tộc. Bên trong thủ đô Roma của La Mã cổ đại, là nơi ở của hoàng đế nằm ở
trên ngọn đồi thoáng mát, Palatene, có lẽ từ palace bắt nguồn từ đây. Các tầng lớp
cư dân từ trung xuống thấp, sống trong thành phố thì sống trong những căn hộ
nhiều người, trông giống như nhiều khu dân cư thời hiện nay.
[ ] Chính phủ
Thời kỳ đầu, Roma được điều hành bởi các vị vua được bầu chọn. Các yêu cầu về
năng lực của vua chưa được rõ ràng; ông ta có thể nắm giữ quyền lực gần như độc
đoán, hoặc chỉ đơn thuần như một thủ tướng của nghị viện và dân tộc. Ít nhất trong
lực lượng quân đội, quyền uy của nhà vua là tuyệt đối. Hơn nữa, vua cũng là lãnh
tụ tôn giáo. Để tăng thêm quyền lực của vua, có ba bộ phận hành chính: Nghị viện
là nơi tham vấn chính cho vua; Hội đồng Curiata có thể ủng hộ và phê chuẩn các
luật lệ mà vua đề xuất; Hội đồng Calata là tập hợp các lãnh đạo tôn giáo của dân
chúng nhằm chứng thực hành động đúng, lắng nghe thông cáo và biểu thị sự hăng
hái và lên kế hoạch cho ngày hội của tháng tiếp theo.
Phòng họp của Nghị viện La Mã
Sự cạnh tranh quyền lực của nền cộng hòa La Mã thể hiện một cách cai trị đặc sắc
của một thể chế chính trị dân chủ. Truyền thống pháp luật La Mã chỉ được thông
qua bởi sự bỏ phiếu tín nhiệm của nhân dân (Hội đồng Tributa). Tương tự vậy,
ứng cử viên cho chức vụ công thì phải thực hiện bầu cử của dân chúng. Tuy nhiên,
Nghị viện La Mã được xem như là nơi tập trung cao nhất của quyền lực, tập hợp
các cố vấn chính. Nền Cộng hòa La Mã nắm giữ quyền lực to lớn (auctoritas),
nhưng thực tế lại không có quyền làm luật; nó được hiểu như là một nhóm cố vấn.
Tuy nhiên, giống Nghị viện, bản thân các nghị viên là những cá nhân rất có thế lực,
gây khó khăn rất lớn cho các quyết định chung của Nghị viện. Một nghị viên mới
phải được chọn trong rất nhiều gia đình quyền thế bởi nhân viên kiểm duyệt
(censura), người mà có quyền loại bỏ một nghị viên khỏi Nghị viện, nếu phát hiện
thấy nghị viên nào có biểu hiện "mất phẩm chất"; lý do để thay đổi có thể bao gồm
cả tội hối lộ (đút lót), hay theo như luật dưới thời Cato Già thì một nghị sĩ bị buộc
phải sa thải khi ôm vợ người khác ở chốn công đường.
[ ] Luật pháp
Bài chi tiết: Luật pháp La Mã
Nguồn gốc của điều cơ bản luật pháp và thực tiễn của La Mã có thể chỉ ra luật của
12 chương mục (từ 449 TCN) cho đến những luật lệ của Hoàng dế Justinian I
(khoảng 530). Luật pháp của La Mã như là các luật lệ của Justinian, bởi vì nó là cơ
sở lý luận và thực tiễn trong thời kỳ Đế chế Byzantine và trong lục địa Tây Âu, và
được tiếp tục ở các thời kỳ về sau, cho đến tận thời kỳ thế kỷ 18 của rất nhiều
quốc gia.
Luật pháp của La Mã gồm 3 phần chính:
Ius Civile, hay "công luật", áp dụng cho tất cả công dân La Mã và chức vị
Praetor Urbanus có trách nhiệm áp dụng luật này,
Ius Gentium, hay "luật quốc tế", áp dụng cho tất cả các người ngoại quốc
trong các trường hợp họ tiếp xúc với các công dân La Mã và chức vị
Praetor Peregrinus có trách nhiệm áp dụng luật này, và
Ius Naturale, hay "luật tự nhiên", bao gồm tất cả các luật trong tự nhiên và
được xem như áp dụng cho tất cả mọi người.
[ ] Kinh tế
Đồng tiền bằng bạc của Roma
Đế chế La Mã cai trị một vùng lãnh thổ to lớn, cùng với một lượng khổng lồ về tài
nguyên thiên và con người. Vốn dĩ, nền kinh tế của La Mã chủ yếu dự trên nền
tảng là nông nghiệp và thương mại. Nông nghiệp phát triển kéo theo thương mại
phát triển đã làm thay đổi bán đảo Ý, vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công
Nguyên, những người tiểu điền chủ có thể sở hữu những điền trang nho và ôliu
rộng lớn. Những tiểu điền chủ không đủ khả năng gây bất ổn về giá cả bởi, Đế chế
La Mã đã sát nhập thêm Ai Cập, Sicilia và Tunisia trở thành các chư hầu cung cấp
sản vật. Hàng hóa xuất trở lại từ Roma là dầu ôliu và rượu vang.
Kỹ nghệ và chế tạo đồ dùng với mức hoạt động khá nhỏ, nhưng khá nhộn nhịp là
các công việc khai mỏ và khai thác đá xây dựng, tùy theo mức độ xây dựng vào
mỗi triều đại khác nhau. Mức độ sản xuất chỉ có các xi nghiệp nhỏ với vài chục
lao động. Tuy nhiên, trong lĩnh vực sản xuất gạch xây dựng cũng có những xí
nghiệp lên đến hàng trăm người.
Một số nhà viết sử, như Peter Temin, mô tả sự phát triển kinh tế của thời kỳ khởi
đầu của La Mã đã thúc đẩy các kỹ nghệ khác và nghệ thuật phát triển, đặc biệt ảnh
hưởng mạnh mẽ lên kinh tế thời Phục Hưng và về sau này của châu Âu.
[ ] Gia đình
Một người đàn ông La Mã trong trang phục đặc trưng toga
Đơn vị cơ bản của xã hội La Mã là các "tiểu lâu đài" (household) và gia đình
(familiy). Tiểu lâu đài bao gồm người đứng đầu, cha (người bố của gia đình), mẹ,
các trẻ em, và những người có quan hệ khác. Ở tầng lớp cao hơn, thì nô lệ và đầy
tớ luôn luôn là bộ phận của "tiểu lâu đài". Người đứng đầu tiểu lâu đài có một
quyền lực rất lớn với những người sống cùng với ông ta: ông ta có thể quyết định
cưới hay tách ly (ly hôn), bán trẻ làm nô lệ, yêu sách về tài sản, có quyền định đoạt
cuộc sống của thành viên dưới quyền
[1]
.
Patria potestas là một khái niệm mở rộng với những người đàn ông (con trai
trưởng thành) đối với lâu đài của ông ta sinh sống. Người con gái, bắt buộc phải
chịu sự điều hành và cai quản của gia đình bên chồng mình
[2]
.
Tập hợp của các tiểu lâu đài có liên hệ tạo nên một gia đình (gens)
[3]
. Gia đình
luôn là nền tảng trên quan hệ huyết thống (hoặc con nuôi được thừa nhận), nhưng
thực chất chính là liên minh về quản trị và kinh tế. Đặc biệt, trong thời kỳ Cộng
Hòa Roman, có một số gia đình siêu quyền thế, thường tham gia vào công việc
chính trị của đế chế.
Dưới thời La Mã việc sử dụng các đám cưới được xem trọng như một hình thức
củng cố hoặc tìm kiếm mối liên kết về đồng minh hơn là sự lãng mạn của tình yêu,
đặc biệt đối với gia cấp quyền thế. Người cha luôn có ý tìm chồng cho con gái của
mình khi cô con gái bước vào tuổi từ 12 đến 14 tuổi. Người chồng luôn được gặp
gỡ thường xuyên với cô dâu trước ngày cưới. Trong khi, những người con gái của
gia đình quyền thế có xu hướng lấy chồng sớm, thì con gái của tầng lớp dưới
thường kết hôn muộn hơn
[4]
.
[ ] Các tầng lớp
Những cư dân La Mã tự do được chia thành 2 tầng lớp: quí tộc và người bình dân.
Quí tộc là tầng lớp thống trị. Ban đầu, chỉ có họ mới có thể được bầu vào các chức
vị. Việc lấy nhau giữa các tầng lớp bị cấm và danh hiệu quí tộc chỉ có thể được
thừa kế chứ không được nhận. Dưới nền Cộng hoà La Mã, một loạt những đấu
tranh dẫn tới việc người bình dân được hưởng những quyền bình đẳng hoặc gần
như bình đẳng.
Cuối thời kì Cộng hoà, sự phân biệt giữa quí tộc và người bình dân bắt đầu mất đi
ý nghĩa của nó. Một tầng lớp cai trị mới, gọi là quý nhân, là những gia đình, quý
tộc hay người bình dân, đã sản ra một quan chấp chính tối cao. Trong thời kì Đế
quốc, sự phân chia giai cấp bị bỏ và bị hầu hết mọi người quên lãng.
Đầu thời kì Cộng hoà, những công dân còn bị chia thành các tầng lớp dựa vào vũ
khí mà họ có thể mua được cho nghĩa vụ quân sự. Tầng lớp giàu nhất là những
người cưỡi ngựa hoặc kị sĩ, những người có thể mua được một con ngựa chiến. Có
cả người cưỡi ngựa là quí tộc và người bình dân. Sau này nước Cộng hoà đã cố
định lượng tài sản được thay bằng quân trang như cơ sở của sự phân chia giai cấp.
Những tầng lớp trên có nhiều quyền lực và uy tín chính trị hơn những tầng lớp
dưới. Hệ thống này cũng mất đi ý nghĩa của nó sau sự bãi bỏ của nền Cộng hoà.
[ ] Cưới xin
Đối với tầng lớp thượng lưu La Mã, người cha thường bắt đầu tìm người chồng
cho con gái của mình khi con gái họ vào khoảng 12-14 tuổi. Người chồng có thể
lớn hơn cô dâu khoảng hai tuổi hay thậm chí gấp ba lần tuổi cô ta. Thường là các
cô không hoặc ít phản đối - mặc dù có bằng chứng rằng một số cô gái có quyền
chọn chồng cho mình (con gái và vợ Cicero tự ý tìm chồng cho cô). Trong khi
tầng lớp thượng lưu cưới lúc còn rất trẻ, có bằng chứng cho thấy phụ nữ thuộc
tầng lớp hạ lưu - thường cưới muộn hơn vào vào khoảng độ tuổi mười mấy, đầu
hai mươi. Cưới xin đối với họ không mang lại nhiều lợi ích về kinh tế và chính trị
trong thế giới chính trị La Mã cắt cổ, vì thế không việc gì phải vội. Bạn bè và gia
đình tham dự lễ dạm hỏi trước lễ cưới. Tại buổi lễ này người cha được hỏi liệu
ông có hứa gả con gái mình ("cô dâu") và thường thì phải trả lời là có. Cô dâu
tương lai sau đó sẽ được nhận các món quà cười trong đó có một chiếc nhẫn để
đeo vào ngón giữa, mà nhiều người tin rằng tại đấy có dây thần kinh nối thẳng với
tim.
[ ] Giáo dục
Mục tiêu của nền giáo dục ở Roma là làm cho các học sinh trở thành những nhà
hùng biện có ảnh hưởng lớn. Trường học khai giảng vào ngày 24 tháng 3 hằng
năm. Mỗi ngày học bắt đầu vào sáng sớm và kéo dài đến hết buổi chiều. Thông
thường, những đứa trẻ được dạy đọc và viết bởi cha của chúng. Về sau, khoảng
200 năm TCN, những đứa bé trai và gái được gửi đến trường khi chúng được
khoảng 6 tuổi. Nền giáo dục cơ bản của Roma bao gồm đọc, viết, và đếm, và
những vật dụng bao gồm những cuộn giấy da và sách. Ở tuổi 13, học sinh học về
văn học Hi Lạp và La Mã và cả phần ngữ pháp. Ở tuổi 16, một số học sinh vào
học ở trường hùng biện. Những người nghèo hơn thương được dạy ở nhà bởi
người cha bởi vì trường học không phải là miễn phí.
[ ] Sức khỏe
Đa số người La Mã tắm tại các nhà tắm công cộng hay nhà tắm tư hằng ngày,
không chỉ vì sạch sẽ mà còn vì lí do xã hội.
[ ] Kinh tế
Nền kinh tế thời kì đầu phụ thuộc vào lực lượng lao động nô lệ, và nô lệ chiếm
khoảng 20 phần trăm dân số. Giá của 1 nô lệ phụ thuộc vào kĩ năng của họ, và một
nô lệ có huấn luyện y khoa tương đương với 50 nô lệ làm nông nghiệp. Vào các
thời kỳ sau, việc thuê sức lao động trở nên kinh tế hơn là sở hữu nô lệ.
[ ] Tài chính
Mặc dù việc đổi hàng lấy hàng là thông dụng (và thường được sử dụng trong việc
thu thuế) hệ thống tiền tệ đã phát triển ở mức độ cao, với tiền xu bằng đồng thau,
đồng thiếc và kim loại quý được lưu thông xuyên suốt đế chế và ra ngoài biên giới
(một vài đồng đã được phát hiện ở Ấn Độ).
[ ] Buôn bán
Ngựa thì quá đắt, và những súc vật thồ khác thì quá chậm cho buôn bán lớn trên
những con đường của người La Mã dùng để nối giữa những bốt quân sự hơn là
chợ và hiếm khi được thiết kế để dùng bánh xe. Do đó có rất ít vận chuyển hàng
hoá giữa các vùng của La Mã, cho đến sự nổi lên của nền buôn bán bằng đường
thuỷ của người La Mã vào thế kỉ thứ 2 TCN. Nền buôn bán nông nghiệp tự do đã
thay đổi cảnh quan của của Ý, và đến thế kỉ 1 TCN những điền trang nho và oliu
rộng lớn đã thế chỗ những nông dân tiểu canh, những người đã không thể địch
được với giá ngũ cốc nhập khẩu. Khối lượng buôn bán lớn đến nỗi chỉ một đụn
những đồ chứa bằng gốm chưa hoàn tất đã cao tới hơn 40 mét và có chu vi tới 1
kilômét.
[ ] Văn hóa
Bài chi tiết: Văn minh La Mã cổ đại
Roma đã sản sinh ra nhiều nhà văn và nhà viết kịch. Rất nhiều tác phẩm văn học
viết bởi các tác giả Roma trong thời kì đầu của nền Cộng hoà có tính chất chính trị
hoặc trào phúng. Đặc biệt những kết cấu tu từ của Cicero rất được ưa chuộng. Một
vài trong số những vở kịch được ưa thích nhất ở thời kì đầu của nền Cộng hoà là
những vở hài kịch, đặc biệt là những vở của Terence, một nô lệ La Mã đã được trả
tự do bị bắt trong cuộc chiến Punic thứ nhất.
[ ] Kĩ thuật
Thời kì này La Mã cũng đã có những đóng góp quan trọng về kĩ thuật cho sự phát
triển của nền văn minh thế giới:
1.CHế tạo thủy tinh(khoảng thế kỉ đầu trước công nguyên)
2.Sử dụng chì
3.Khai thác than
4.Chế tạo xi-măng.
-Họ cũng là những người đầu tiên biết đặt các thiết bị như guồng ước nhằm lợi
dụng thủy năng và chế tạo ra thuyền buồm.
[ ] Nhân khẩu học
Dân số từ thế kỷ 6 TCN đến thế kỷ 1 CN .
Bản đồ đế quốc Roma năm 400
Điều tra Dân số Khủng hoảng kinh tế Chiến tranh Dịch bệnh
508 TCN
130.000
505-504 TCN
503 TCN
120.000
499 or 496 TCN
498 TCN
150.700
493 TCN
110.000
492-491 TCN
486 TCN
474 TCN
103.000 474 TCN 474 TCN
465 TCN
104.714
459 TCN
117.319
456 TCN
454 TCN 454 TCN
440-439 TCN
433 TCN 433 TCN
428 TCN 428 TCN
412 TCN 412 TCN
400 TCN
396 TCN
392 TCN
152.573 392 TCN 392 TCN
390 TCN 390 TCN
386 TCN
383 TCN 383 TCN
343-341 TCN
340 TCN
165.000 340-338 TCN
326-304 TCN
323 TCN
150.000
299 TCN
298-290 TCN
294 TCN
262.321
293/292 TCN
289 TCN
27.200
281 TCN
280 TCN
287.222 280-275 TCN
276 TCN
271.224 276 TCN?
265 TCN
292.234
264-241 TCN
252 TCN
297.797
250 TCN 250 TCN
247 TCN
241.712
241 TCN
260.000
234 TCN
270.713
216 TCN 216 TCN
211-210 TCN 211-210 TCN
209 TCN
137.108
204 TCN
214.000 204 TCN
203 TCN
201 TCN
200 TCN 200-195 TCN
194 TCN
143.704
192-188 TCN
189 TCN
258.318
187 TCN
182-180 TCN
179 TCN
258.318
176-175 TCN
174 TCN
269.015
171-167 TCN
169 TCN
312.805
165 TCN
164 TCN
337.022
159 TCN
328.316
154 TCN
324.000
153 TCN
147 TCN
322.000
142 TCN
322.442 142 TCN
138 TCN
136 TCN
317.933
131 TCN
318.823
125 TCN
394.736
123 TCN
115 TCN
394.336
104 TCN
87 TCN
86 TCN 463.000
75 TCN
70 TCN 910.000
67 TCN
65 TCN
54 TCN
49-46 TCN
43 TCN
28 4.063.000
23-22 23-22
8 4.233.000
5-6
10
14 4.937.000
[ ] Chú thích
1. ^ tuy nhiên gần đây vẫn còn bàn cãi về điều này
2. ^ Đôi khi vẫn có ngoại lệ, do quyền thế của gia đình mình mà được đối xử
tương đối tốt
3. ^ Ở Á Đông gọi là một họ
4. ^ Scullard 1982, chapters I-IV