Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Triệu Quang Phục pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.14 KB, 8 trang )

Triệu Quang Phục

Triều Việt Vương Triệu Quang Phục (549-571)
Khi được Lý Nam Đế trao toàn bộ binh quyền, Triệu Quang Phục người huyện
Châu Diên (Hải Hưng) thấy rõ lúc đó giặc còn mạnh, không thể đánh thắng ngay được
nên đưa hơn một vạn quân từ miền núi về đồng bằng tìm cách đánh giặc. Vốn thông
thuộc miền sông nước Chu Diên, ông đưa quân về Dạ Trạch (Bãi Màn Trò, Hải Hưng)
một vùng đồng lầy rộng mênh mông, lau sậy um tùm, ở giữa có một bãi đất khô ráo có
thể ở được. Đường vào bãi rất khó khăn, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc, chống sào
lướt nhẹ trên đám cỏ nước, theo mấy con lạch nhỏ mới tới được đại bản doanh của
nghĩa quân.
Ngay khi đem quân về Dạ Trạch, Triệu Quang Phục đã nghĩ đến việc tự túc
lương thực để kháng chiến lâu dài. Ông chia quân ra làm nhiều tóan: tóan chặt cây làm
trại, tóanh chuyên đục đẽo thuyền độc mộc, tóan chuyên bắt cá, toán đi săn chim, vịt
trời để nuôi quân. Lương thực thiếu, Triệu Quang Phục cùng nghĩa quân ăn củ súng,
khoai dại, để dành thóc gieo mạ. Khi doanh trại đã căn bản xây dựng xongcũng là lúc
tướng giặc là Trần Bá Tiên đánh hơi được, đem quân trùng trùng, điệp điệp đến bủa
vây. Nhìn đầm rộng chỉ có lau sậy, tướng giặc đắc ý nói với tả hưũ:
Số phận quân Dạ Trạch đã được định liệu. Một vạn quân ăn chen chúc trong
đầm tất sẽ chết vì đói. Ta chỉ cần vây mà không cần đánh.
Trần Bá Tiên chia quân lập thành một hệ thống đồn binh vây bọc kín khu đầm
cắt đứt liên lạc, tiếp tế giữa nghĩa quân với dân chúng. Hắn không thể ngờ được, bên
trong vòng vây, Triệu Quang Phục một mặt cho quân do thám theo sát hành tung giặc,
mặt khác cho đắp bờ, khoanh bãi, tôn nền ruộng, gieo mạ để làm vụ chiêm. Hơn thế,
vị tướng tài còn nhằm trước khu đất cao ở gần sông Cái để sửa soạn làm vụ sau. Tất
cả những công việc này đều được tiến hành trong điều kiện thiếu thốn nông cụ và sức
kéo. Vì vậy trong ngày hội xuống đồng, để làm gương cho binh sĩ, Triệu Quang Phục
lúc cầm cày, khi cùng nghĩa quân thi nhau dùngdùng đòn kéo thay trâu, không phân
biệt trên dưới, tạo nên không khí phấn khởi trong sản xuất. Vì vậy sau những ngày
thiếu thốn, nghĩa quân chẳng những có đủ lương ăn mà còn có thóc để dành, đủ sức
quần nhau với giặc lâu dài. Theo lệnh Quang Phục: " Lúa quý như mệnh người",


nghĩa quân vừa đánh giặc vừa thay nhau tiếp tục sãn xuất.
Bao vây lâu ngày không thấy nghĩa quân chết đói, ngược lại các đồn giặc liên
tiếp bị đánh, lương thực bị cướp nên chính giặc lâm vào tình trạng thiếu thóc gạo trầm
trọng. Giặc càng khó khăn, đêm đêm nghĩa quân đánh càng mạnh.
Sau khi Lý Nam Đế mất Triệu Quang Phục xưng hiệu là Triệu Việt Vương.
Dân gian gọi ông là Dạ Trạch Vương. Đến năm Canh Ngọ (550) nhân nhà Lương có
loạn to, thế giặc suy yếu, Triệu Việt Vươngtừ căn cứ Dạ Trạch, biết rõ gan ruột giặc,
xuất toàn quân giao chiến, giết được tướng giặc là Dương Sàn, thu lại Kinh đô, khôi
phục lại nền độc lập dân nước.
Như trên đã nói, khi Lý Nam Đế thất thế chạy về Khuất Lão thì người anh họ là
Lý Thiên Bảo cùng người anh trong họ là Lý Phật Tử đem quân chạy vào Cửu Chân.
Bị quân Lương truy đuổi, Lý Thiên Bảo, Lý Phật Tử phải chay sang Lào, đến đóng ở
động Dã Năng, xưng là Đào Lang Vương. Năm ất hợi (55) là năm thứ 7 của đời Triệu
Việt Vương, Lý Thiên Bảo mất, không có con, binh quyền về tay Lý Phật Tử.
Đến năm Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về đánh Triệu Việt Vương để
giành ngôi nhà Lý. Nhưng đánh không thắng, Phật Tử xin chia đất giảng hòa. Triệu
Việt Vương nghĩ tình họ Lý , cũng thuận chia đất cho Lý Phật Tử. Phật Tử đóng ở Ô
Diên (làng Đại Mỗ, Từ Liêm) Triệu Việt Vương đóng ở Long Biên, lấy bãi Quần
Thần (làng Thượng Cát, Từ Liêm) làm giới hạn. Triệu Việt Vương còn gã con gái là
Cải Nươngcho Nhã Lang con Phật Tử để tỏ tình hòa hiếu. Nhưng Phật Tử vẫn có ý
muốn thôn tính. Bởi vậy, Phật Tử khẩn trương chuẩn bị lực lượng chờ cơ hội hành
động.
Năm Tân Mão (571), Phật Tử phản trắc, bất ngờ đem quân đi đánh Triệu Việt
Vương. Vì không phòng bị Triệu Việt Vương thua chạy đến cửa biển Đại Nha, cùng
đường gieo mình xuống biển tự vẫn.
Dân đã lập miếu thờ tại nơi ông mất. Năm Trùng Hưng thứ nhất (1285), vua
Trần Nhân Tông sách phong Minh Đạo Hoàng Đế. Năm Trùng Thông thứ tư, vua ban
thêm hai chữ "Khai cơ". Năm Long Hưng thứ 21 (1313) đời Trần Anh Tông, vua ban
thêm bốn chữ: "Thánh Liệt Thần Vũ"
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Triệu Việt Vương ( ?-571), tên thật là Triệu Quang Phục , là vua ViệtNamcai
trị từ năm 548 đến năm 571. Ông có công kế tục LýNamĐế đánh đuổi quân xâm lược
nhà Lương, giữ nền độc lập cho nước Vạn Xuân. Năm 571, ông bị Lý Phật Tử đánh
úp và thua trận. Ông tự tử ở cửa sông Đáy, kết thúc triều đại Triệu Việt Vương.
Sự nghiệp
Kháng chiến của ViệtNam
Triệu Quang Phục là con Triệu Túc, người huyện Chu Diên. Ông cùng cha theo
LýNamĐế khởi nghĩa từ ngày đầu (541), có công lao đánh đuổi quân Lương về nước,
được trao chức tả tướng quân nước Vạn Xuân.
Tháng 5 năm 545, quân Lương do Dương Phiêu và Trần Bá Tiên chỉ huy lại
sang đánh Vạn Xuân. LýNamĐế giao chiến bất lợi. Năm 546, sau khi Lý Nam Đế
thua trận phải lui về động Khuất Lạo, đã ủy thác cho ông giữ việc nước, điều quân đi
đánh Trần Bá Tiên của nhà Lương.
Năm 547, tháng giêng, ông lui về giữ đầm Dạ Trạch (bãi Màn Trò, huyện
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Đầm này rộng, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa
có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng
thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể vào được. Nếu không
quen biết đường đi thì lạc không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn
chết. Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người vào đóng ở nền đất
trong đầm,Ông dùng chiến thuật du kích, ban ngày tuyệt không để khói lửa và dấu
người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên
cướp hết lương thực vũ khí, giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế
cầm cự lâu dài. Bá Tiên không đánh được. Người trong nước gọi ông là Dạ Trạch
Vương (夜澤王). Bãi ấy gọi là "bãi Tự Nhiên", đầm ấy là "đầm Nhất Dạ", ngày nay
vẫn còn tên gọi cũ.
Năm 550, Trần Bá Tiên mưu tính cầm cự lâu ngày để làm cho quân của ông
lương hết, quân mệt mỏi thì có thể phá được. Gặp lúc nhà Lương có loạn Hầu Cảnh,
gọi Trần Bá Tiên về (sau này Trần Bá Tiên cướp ngôi vua của nhà Lương năm 557.),
ủy cho tì tướng là Dương Sàn ở lại. Ông tung quân ra đánh. Sàn chống cự, thua chết.
Quân Lương tan vỡ chạy về Bắc. Ông vào thành Long Biên ở.

Anh của Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo, ở đất của người Di Lạo, xưng là Đào
Lang Vương, lập nước gọi là nước Dã Năng. Trước đó, khi Lý Nam Đế tránh ở động
Khuất Lạo, Thiên Bảo cùng với tướng người trong họ là Lý Phật Tử đem 3 vạn người
vào Cửu Chân. Trần Bá Tiên đuổi theo đánh, Lý Thiên Bảo thua, thu nhặt quân còn
sót được vạn người chạy sang đất người Di Lạo ở Ai Lao, thấy động Dã Năng ở đầu
nguôn Đào Giang, đất phẳng rộng màu mỡ có thể ở được, mới đắp thành để ở, nhân
tên đất ấy mà đặt quốc hiệu. Đến bây giờ quân chúng tôn làm chúa, xưng là Đào Lang
Vương.
Năm 555, Đào Lang Vương mất ở nước Dã Năng, không có con nối, quân
chúng suy tôn Lý Phật Tử lên nối ngôi, thống lĩnh quân chúng.
Năm 557, Lý Phật Tử đem quân xuống miền Đông đánh nhau với quân của
Triệu Việt Vương ở huyện Thái Bình, năm lần giáp trận, chưa phân thắng bại, mà
quân của Lý Phật Tử luôn thua, ngờ là ông có thuật lạ, bèn xin giảng hòa. Ông nghĩ
rằng Lý Phật Tử là người trong họ của Lý Nam Đế, không nỡ cự tuyệt, bèn chia địa
giới ở bãi Quân Thần (nay là hai xã Thượng Cát, Hạ Cát ở huyện Từ Liêm, Hà Nội)
cho ở phía tây của nước, Lý Phật Tử dời đến thành Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, huyện
Từ Liêm, xã ấy nay có đền thờ thần Bát Lang, tức là đền thờ Nhã Lang). Lý Phật Tử
có con trai là Nhã Lang, xin lấy con gái của ông là Cảo Nương. Ông bằng lòng, kết
thành thông gia. Ông yêu quý Cảo Nương, cho Nhã Lang ở gửi rể. Triệu Quang Phục
quá tin vào sức mạnh quân sự của mình, mất cảnh giác nên đã bị suy yếu đáng kể. Nhã
Lang ở rể, thực chất là để hoạt động gián điệp nên nội tình của Triệu Việt Vương đã bị
Lý Phật Tử nắm rõ.
Năm 571, Lý Phật Tử phụ lời thề, đem quân đánh. Ông yếu thế không thể
chống được, bèn đem con gái chạy về phía nam, tìm nơi đất hiểm để ẩn náu, nhưng
đến đâu cũng bị quân của Lý Phật Tử đuổi theo sát gót. Ông cưỡi ngựa chạy đến cửa
biển Đại Nha, bị nước chắn, bèn nhảy xuống biển tự vẫn. Họ Triệu mất nước.
Theo Đại Nam Quốc sử Diễn ca, Trương Hống và Trương Hát đã can Triệu
Việt Vương đừng gã Cảo Nương cho Nhã Lang:
Có người: Hống, Hát họ Trương
Vũ biền nhưng cũng biết đường cơ mưu,

Rằng: “Xưa Trọng Thuỷ, Mỵ Châu,
Hôn nhân là giả, khấu thù là chân.
Mảnh gương vãng sự còn gần,
Lại toan dắt mối Châu Trần sao nên?
Truyền thuyết
Trong sử sách cổ đại có nói rằng nguyên nhân được thua của ông là do được và
mất mũ đầu mâu móng rồng. Thực ra, đó chỉ là huyền thoại. Truyện kể như sau:
Năm 549, ông ở trong đầm thấy quân Lương không lui, mới đốt hương cầu
đảo, khẩn thiết kinh cáo với trời đất thần kỳ, thế rồi có điềm lành được mũ đâu mâu
móng rồng dùng để đánh giặc. Từ đó quân thanh lừng lẫy, đến đâu không ai địch nổi
(tục truyền rằng thần nhân trong đầm là Chử Đồng Tử bấy giờ cưỡi rồng vàng từ trên
trời xuống, rút móng rồng trao cho ông, bảo gài lên mũ đâu mâu mà đánh giặc). Năm
557, con gái của Triệu Quang Phục lấy con trai của Lý Phật Tử là Nhã Lang. Năm
570, Nhã Lang nói với vợ rằng: "Trước hai vua cha chúng ta cừu thù với nhau, nay là
thông gia, chẳng cũng hay lắm ư? Nhưng cha nàng có thuật gì mà có thể làm lui được
quân của cha tôi?". Cảo Nương không biết ý của chồng, bí mật lấy mũ đâu mâu móng
rồng cho xem. Nhã Lang mưu ngầm tráo đổi cái móng ấy, rồi bảo riêng với Cảo
Nương rằng: "Tôi nghĩ ơn sâu của cha mẹ nặng bằng trời đất, vợ chồng ta hòa nhã yêu
quý nhau không nỡ xa cách, nhưng tôi phải tạm dứt tình, về thăm cha mẹ". Nhã Lang
về, cùng với cha bàn mưu đánh úp, chiếm được nước.
Ngô Sĩ Liên nói: Đàn bà gọi việc lấy chồng là "quy" thì nhà chồng tức là nhà
mình. Con gái vua đã gả cho Nhã Lang thì sao không cho về nhà chồng mà lại theo
tục ở gửi rể của nhà Doanh Tần để đến nỗi bại vong?
Truyện này giống như truyền thuyết Mỵ Châu-Trọng Thủy thời Triệu Đà đánh
An Dương Vương.
Thờ phụng
Đền thờ Triệu Quang Phục ở thị trấn Yên Ninh, Yên Khánh, Ninh Bình
Người đời sau lập đền thờ ông ở cửa biển Đại Nha (Đại Nha có tên khác là Đại
Ác, thời nhà Lý đổi là Đại An), nay là cửa Liêu (cửa sông Đáy). Các đền thờ tập trung
chủ yếu ở vùng ven biển 2 tỉnh Ninh Bình vàNamĐịnh.

ỞNamĐịnh, Ông được thờ tại chùa Độc Bộ, huyện Ý Yên. Một nơi khác ở
Nam Định nữa thờ ông là chùa Thiên Biên Tự, thuộc xã Hải Thanh, huyện Hải Hậu,
tỉnh Nam Định. Tại vùng đất mới xã Nam Điền huyện Nghĩa Hưng nằm ở gần cửa
Đáy, người dân cũng xây dựng đền thờ.
Ninh Bình hiện là tỉnh có nhiều đền thờ Triệu Việt Vương nhất. Huyện Kim
Sơn-Ninh Bình nay nằm ở cửa sông Đáy, có rất nhiều đền thờ Triệu Việt Vương như
Đình Chất Thành (xã Chất Bình, Kim Sơn), miếu Thượng (xã Thượng Kiệm, Kim
Sơn), đền Ứng Luật (Quang Thiện, Kim Sơn), đình xã Lưu Phương, Kim Sơn.
Tại vùng văn hóa cửa biển Thần Phù, xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, Ninh Bình
có đình Phù Sa là di tích văn hóa cấp quốc gia thờ Triệu Việt Vương là thành hoàng
làng. Xã Yên Từ cũng có đền thờ Triệu Việt Vương. Tại Ngã ba mỏ neo (sông Hoàng
Long, Hoa Lư) người dân cũng lập đền thờ Vương.
Yên Khánh là vùng đất thuộc cửa biển xưa nay đã lùi xa vào đất liền, tại đây có
hàng chục đền thờ Triệu Quang Phục nằm ở các xã như: đền Duyên Phúc xã Khánh
Hồng, đền Triệu Việt Vương ở Thị trấn Yên Ninh, đền Triệu Việt Vương ở xã Khánh
Hải,
Tại Đền Hóa Dạ Trạch xã Dạ Trạch - Khoái Châu, bên cạnh ban thờ của Chử
Đồng Tử có ban thờ của Triệu Việt Vương.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×