Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Nghệ thuật trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.39 KB, 3 trang )

Nghệ thuật trong bài thơ Ánh trăng
của Nguyễn Duy




Chúng ta xem xét về đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn
Duy.
Ghi nhớ
Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, Ánh trăng của
Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc
đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý nghĩa
gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “ uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy
chung cùng quá khứ.
( Ngữ văn 9, tập một, nhà xuất bản Giáo dục, 2005, trang 157)
Như vậy về nghệ thuật của bài thơ này có hai điểm chú ý là giọng điệu tâm tình
tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm. Nhưng nếu chỉ có vậy thì bài Ánh trăng của
Nguyễn Duy có khác gì bài Nói với con của Y Phương ở Ngữ văn 9 tập hai? Y
Phương cũng dùng giọng điệu tâm tình tự nhiên; hình ảnh trong thơ Y Phương cũng
giàu sức gợi cảm. Và nói rộng ra, hình ảnh của bài thơ nào mà không giàu sức biểu
cảm hay gợi cảm?
Thế thì nghệ thuật của bài thơ Ánh trăng này có điều gì đáng chú ý?
Trước hết, đây là một bài thơ đậm yếu tố tự sự có hai nhân vật đó là Trăng và
nhân vật trữ tình từng là bạn tri kỉ với Trăng. Câu chuyện về hai người được kể với ba
mốc thời gian: Một thời khó khăn, gian khổ - Trăng và người gắn bó như tri kỉ; thời
hòa bình về thành phố - Trăng thành người dưng; khi mất điện Trăng hiện ra “im
phăng phắc” khiến cho người giật mình. Chính thời gian và hoàn cảnh đã cho người
đọc thấy được sự đổi thay từ tri kỉ thành người dưng, và sự đối mặt khi mất điện làm
cho nhân vật rưng rưng rồi giật mình, làm cho tư tưởng chủ đề của bài thơ hiện rõ.
Điều thứ hai là bài thơ đã sử dụng biện pháp nhân hóa thành công. Trăng là
một người bạn, một người vô tư, trong sáng, dù trong hoàn cảnh nào vẫn thủy chung,


tròn đầy, lặng lẽ, sáng trong: “ Trăng cứ tròn vành vạnh/ Kể chi người vô tình”.
Điều thứ ba là giọng thơ kể chuyện nhỏ nhẹ, như là một lời tâm tình, trong đó
không dùng từ nhân xưng. Nhân vật trữ tình kể chuyện nhưng trong suốt bài thơ
không dùng một từ nhân xưng nào. Các câu thơ không chủ ngữ nối tiếp nhau xuất hiện
trong toàn bài. Suốt các khổ thơ có một chủ thể như là vô danh đã sống, đã ngỡ, đã về
thành phố, đã bật tung cửa sổ, đã ngửa mặt lên nhìn mặt. Chỉ đến dòng thơ cuối cùng
mới có một từ nhân xưng. Đó không phải là từ nào khác mà là “ta”:
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình
Như vậy tác giả đã thành công khi để cho câu chuyện này là chuyện không phải
của riêng ai. Có thể là của tôi, của bạn, của các bạn và rộng ra là của chúng ta. Vì mỗi
người đều từng có quá khứ của mình.
Điều cuối cùng là tính chất tượng trưng của nhan đề bài thơ. Dù trong bài thơ
tác giả bốn lần nhắc đến vầng trăng:
- vầng trăng thành tri kỉ
- cái vầng trăng tình nghĩa
- vầng trăng đi qua ngõ
- đột ngột vầng trăng tròn
và một lần nhắc đến trăng không kèm từ vầng:
- trăng cứ tròn vành vạnh
chỉ có một câu thơ nhắc đến ánh trăng:
- ánh trăng im phăng phắc
nhưng bài thơ lại được đặt tên là Ánh trăng. Phải chăng, tác giả muốn đem
phần tốt đẹp, phần nhân ái, thủy chung của vầng trăng tượng trưng cho ánh sáng để
soi vào chỗ bóng tối, soi rọi vào sự lãng quên, vô tình trong tâm hồn con người, khiến
người ta nhìn rõ mình, khiến người ta giật mình để rồi từ đó sống ân nghĩa, thủy
chung với quá khứ dù quá khứ đó nhọc nhằn, gian khổ và trần trụi?
Đấy là những nét nghệ thuật làm nên sự khác biệt và làm nên thành công của
bài thơ Ánh trăng.


×