Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

XÂY DỰNG BẢN ĐỒ ĐẤT pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 47 trang )



7








XÂY DỰNG BẢN ĐỒ ĐẤT






























8
PHẦN 2: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN
CHƯƠNG 1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1. BẢN ĐỒ ĐẤT
1.1.1. Khái niệm chung về bản đồ đất
Theo Lê Quang Trí (1996), bản đồ đất là một bản đồ chỉ cho thấy sự phân bố
các loại đất hoặc các đơn vị bản đồ đất liên quan đến những đặc tính môi trường tự
nhiên và nhân tạo chính yếu của bề mặt trái đất. Những đơn vị đất đo được chỉ ra
cho thấy một cách riêng biệt hoặc kết hợp với nhau và được đặt tên theo đơn vị
phân loại đất.
Định nghĩa trên bao gồm một bản đồ đất phải chỉ cho thấy được những đặc
tính riêng biệt của đất như: sa cấu, độ dốc, độ sâu, màu sắc,…hoặc những tính chất
chung được kết hợp với nhau từ hai hay nhiều yếu tố. Ngoài ra, bản đồ đất còn chỉ
cho thấy những chất lượng của đất như: độ phì nhiêu, khả năng xói mòn hoặc cho
thấy những tính chất về nguồn gốc phát sinh riêng biệt hoặc kết hợp của chúng.
Bản đồ đất với nhiều đặc tính đất khác nhau được xây dựng dựa trên sự quan
sát trực tiếp ngoài đồng kết hợp với phòng phân tích thông qua sự chọn lọc và tổng
quát hóa nó ra thành riêng biệt hoặc kết hợp từng đặc tính với nhau, đồng thời xác
định tên của từng loại đất hay đơn vị đất theo hệ thống phân loại mô tả đã chọn

trước. Ngoài ra, từ bản đồ đất ta có thể xây dựng lên thành nhiều bản đồ đơn tính
đơn giản để mô tả cho thấy những tính chất đất riêng biệt cần thiết thí dụ như: khả
năng xói mòn, tiềm năng tưới tiêu, sự biến động của tầng phèn và tầng sinh phèn
trên đất phèn…
Một bản đồ đất có độ chính xác cao sẽ được sử dụng lâu dài theo thời gian
mặc dù có một số thay đổi nhỏ trong canh tác nông nghiệp. Ngược lại, bản đồ đất
có độ chính xác thấp hay bản đồ có tỷ lệ quá nhỏ so với điều kiện nghiên cứu có thể
chính xác thì bất cứ một sự thay đổi nào trong việc phát triển nông nghiệp đều đưa
đến sự thay đổi một số đặc tính của đất do đó cần thiết phải điều tra dã ngoại trở lại.
Bản đồ đất được sử dụng một cách có hiệu quả khi trên bản đồ có chú dẫn rõ
ràng và có thể biểu thị một số tính chất quan trọng của đất, đồng thời kèm theo đó
phải có tập thuyết minh về bản đồ đất, bên trong mô tả chi tiết các tính chất của đất
đồng thời cũng cho thấy rõ sự phân bố theo quy luật của đất, các yếu tố môi trường


9
ảnh hưởng lên trên các loại đất khác nhau và đề xuất hướng sử dụng đất theo các
mức độ từ loại đất tốt nhất đến loại đất xấu nhất.
Theo Hoàng Văn Mùa (2007), bản đồ đất là một loại bản đồ chuyên đề. Bản
đồ đất thể hiện sự phân bố theo không gian các loại đất có trong một vùng lãnh thổ
hay một đơn vị hành chính (Xã, Huyện, Tỉnh, Vùng, Quốc gia, Châu lục, Thế giới).
Bản đồ đất được xây dựng trên bản đồ địa hình thường gọi là bản đồ nền ở các tỷ lệ
khác nhau từ kết quả điều tra, nghiên cứu phân loại đất. Bản đồ đất là tài liệu cơ bản
quan trọng, là căn cứ xây dựng kế hoạch phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi
trồng thủy sản. Đánh giá đất, phân hạng đất, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch thiết
kế nông nghiệp, lâm nghiệp đều phải dựa vào cơ sở bản đồ đất.
1.1.2. Mục đích xây dựng bản đồ đất
Theo Hội khoa học đất Việt Nam (2000), việc điều tra khảo sát lập bản đồ
đất là một công trình khoa học nhằm mục đích:
- Xác định rõ tài nguyên về các mặt:

+ Loại hình khác nhau của đất.
+ Những đặc tính quan trọng của đất.
- Thành lập các đơn vị đất đai (contour) đất hay ranh giới giữa các loại đất
khác nhau.
- Tiên đoán khả năng ứng dụng của đất thông qua các loại cây trồng khác
nhau để tạo ra các sản phẩm dưới những hệ thống quản lý khác nhau để từ đó:
+ Đề xuất các biện pháp sử dụng đất hợp lý.
+ Khai hoang mở rộng diện tích.
+ Thâm canh tăng vụ.
+ Bảo vệ, bồi dưỡng và cải tạo đất.
1.1.3. Ứng dụng của bản đồ đất
 Quản trị đất
Theo Võ Quang Minh (2005), sự phân biệt các loại đất khác nhau trên bản
đồ dựa vào các tính chất quan trọng để phân loại giúp ta có những dữ kiện cần thiết
để phát triền nông nghiệp. Đồng thời các thí nghiệm phân bón cũng được thực hiện
trên các loại đất khác nhau và từ kết quả thí nghiệm đó có thể khuyến cáo cho các
loại đất giống nhau dựa trên cơ sở các yếu tố môi trường không thay đổi. Cũng vì lý
do này, trước khi lựa chọn vị trí các trại thực nghiệm cần phải có bản đồ đất của


10
vùng rộng lớn để chọn đặt một trung tâm thực nghiệm ở tại một vị trí có đất tương
đối đại diện cho toàn vùng.

Sử dụng đất và quy hoạch đất đai cho sản xuất nông nghiệp
Theo Đỗ Nguyên Hải và Hoàng Văn Mùa (2007), bản đồ đất là cơ sở cần thiết
không thể thiếu đối với việc đánh giá khả năng sử dụng đất cũng như các hoạt động
quy hoạch, quản lý đất đai cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Bản đồ đất là cơ sở
xây dựng các hệ thống cây trồng thích hợp dựa trên nguyên lý “đất nào cây đó”,
cũng như việc xây dựng các biện pháp canh tác để tăng năng suất và sản lượng cây

trồng nhằm thu được hiệu quả cao trong sản xuất nông lâm nghiệp. Bên cạnh đó,
người ta còn dựa vào bản đồ đất để bố trí khảo sát các thí nghiệm về sử dụng phân
bón trên những loại đất khác nhau đã được xác định để từ đó có thể khuyến cáo cho
người sử dụng về hiệu quả, liều lượng và mức bón thích hợp nhằm thu được hiệu
quả kinh tế cao đồng thời duy trì bảo vệ được độ phì của đất.

Mở rộng diện tích đất khai hoang, canh tác
Theo Đỗ Nguyên Hải và Hoàng Văn Mùa (2007), trước khi tiến hành xây
dựng các dự án khai hoang mở rộng diện tích đất canh tác trên những vùng đất mới
thì việc tiến hành điều tra nghiên cứu về điều kiện đất đai và thổ nhưỡng của vùng
dự án phát triển sản xuất là bước đi không thể thiếu. Để làm được vấn đề này bắt
buộc phải tiến hành điều tra xây dựng bản đồ đất để xác định khả năng mở mang,
khai thác đất về diện tích cho mục đích sử dụng. Do đó, phải điều tra tìm hiểu về
các đặc tính như khí hậu, độ dốc, độ dày thì việc đi sâu tìm hiểu các tính chất lý,
hóa học của đất có liên quan tới độ phì như thành phần cơ giới, độ xốp, khả năng
giữ nước, độ chua, lượng mùn,v.v… ở những vùng đất xác định khai hoang để phục
vụ mục tiêu phát triển để từ đó có cơ sở cho việc bố trí các cây trồng một cách hợp
lý.
Theo Võ Quang Minh (2005), những vùng còn bỏ hoang, với bản đồ đất ta
có thể biết khu vực vùng đất nào tốt xấu để có thể mở rộng diện tích đất canh tác
trước theo thứ tự ưu tiên và mục đích khai thác. Vì nếu không có bản đồ đất thì khó
có thể để quyết định chọn khu vực khai thác cho các yêu cầu sử dụng đất đai khác
nhau, nhất là các đề án có kinh phí giới hạn, cần sự ưu tiên.

Thủy nông


11
Để xây dựng các hệ thống thủy lợi cho sản xuất nông nghiệp, người ta thường
tiến hành khảo sát về điều kiện, đặc tính đất đai, thổ nhưỡng cho việc xây dựng

chúng, nhằm cân nhắc, xem xét tính khả thi của các việc xây dựng các hệ thống
công trình. Những vấn đề liên quan đến các đặc tính và hiệu quả sử dụng ở những
vùng hay diện tích đất định xây dựng đưa hệ thống tưới tiêu vào như: điều kiện địa
hình, độ dốc, kết cấu và thành phần cơ giới đất, khả năng thất thoát nước,v.v… phải
được xem xét trước khi xác định lựa chọn các giải pháp xây dựng hệ thống tưới nào
cho phù hợp. Ví dụ: người ta có thể lựa chọn hệ thống tưới bằng mương thích hợp
cho các loại đất có nguồn nước tưới phong phú và thành phần cơ giới đất từ thịt
trung bình đến nặng. Tuy nhiên, ở những vùng có tài nguyên nước hạn chế đất chủ
yếu là đất cát thì việc lựa chọn hệ thống tưới phun đôi khi là thích hợp hơn. Cũng
tương tự như người ta muốn xây dựng hệ thống mương tưới tháo chua rửa mặn cho
vùng ven biển người ta cũng phải cân nhắc đến độ mặn của đất, khả năng thấm, giữ
nước của đất để xác định mức độ hòa tan và rửa mặn cho đất,v.v… Tất cả những
thông tin trên chỉ có thể thu lượm được sau khi tham khảo các kết quả điều tra bản
đồ đất (Đỗ Nguyên Hải và Hoàng Văn Mùa, 2007).
Theo Võ Quang Minh (2005), trước khi muốn dẫn thủy vào một vùng, ít ra
cũng cần biết xem trong vùng ấy có nơi nào đang dẫn thủy để trồng trọt, các hiện
trạng này đều được mô tả trong thuyết minh của bản đồ đất. Ngoài ra, một vấn đề
rất quan trọng là xây dựng một hệ thống thủy nông phải còn tùy thuộc vào các loại
đất khác nhau như đất cát thì có hệ thống thủy nông khác với loại đất thịt cát khác
với loại đất phèn…
Trong vùng đất khả năng cung cấp nước kém, thì căn cứ vào bản đồ đất có thể
ưu tiên cung cấp nước cho các vùng có khả năng cho sản phẩm cao và hiệu quả kinh
tế cao. Các loại đất phèn sét trương nở, có nhiều khe hở, hoặc đất có tầng phèn ở độ
sâu cạn đều ảnh hưởng đến việc xây dựng hệ thống thủy nông cho đồng ruộng.

Phục vụ cho sản xuất lâm nghiệp
Bản đồ đất giúp cho việc xây dựng định hướng phát triển mở mang diện tích
trồng rừng và quy hoạch rừng. Xác định khả năng sản xuất gỗ (m
3
) trên các đơn vị

diện tích rừng, khoanh vùng cho các mục đích trồng rừng chống xói mòn, bảo vệ
rừng đầu nguồn và bảo vệ cảnh quan môi trường (Võ Quang Minh 2005).

Đánh giá, phân hạng khả năng sử dụng đất


12
Theo Đỗ Nguyên Hải và Hoàng Văn Mùa (2007), những kết quả điều tra về
đặc tính chất đất đai và những nghiên cứu sâu về hình thái và các tính chất lý, hóa
học của đất được sử dụng làm cơ sở cho đánh giá tiềm năng và phân hạng khả năng
sử dụng đất thích hợp. Thực tế đã chỉ ra cho thấy ở những vùng đất bằng phẳng ít
dốc, đất có độ dày lớn và có độ phì, kết cấu của đất tốt có ít những hạn chế trong sử
dụng là những loại đất có khả năng thâm canh cao ít bị thoái hóa và mất khả năng
sử dụng. Trong khi đó, ngược lại ở những vùng đất có độ dốc lớn hay địa hình cao,
tầng đất nông, có nhiều đá lẫn, khả năng giữ ẩm thấp,v.v… thì khả năng sử dụng
chúng cũng sẽ có nhiều mặt hạn chế.

Xây dựng
Theo Võ Quang Minh (2005), trên bản đồ đất người kỹ sư xây dựng có thể
biết được các tính chất lý học khác nhau đề có thể chọn khu vực cho xây dựng nhà
cửa và đường sá, hoặc có thể cho thấy được một số vật liệu xây dựng, lót đường
như khi làm đường cần nhiều đá laterite, do đó có thể biết khu vực nào có thể khai
khác vật liệu này.
Theo Đỗ Nguyên Hải và Hoàng Văn Mùa (2007), ngoài những mục đích
chính phục vụ cho sản xuất nông nghiệp trong một số lĩnh vực khác như xây dựng,
giao thông và công nghiệp,v.v… cũng có thể tham khảo bản đồ đất cho việc tìm
hiểu nền móng xây dựng nhà cửa, đường xá, sân bay và quy hoạch cảnh quan,v.v…
sau khi đã tham khảo bản đồ đất về loại đất kết hợp với những nghiên cứu sâu về
một số đặc tính cơ lý của đất và những tính chất đất có liên quan.


Nghiên cứu khoa học và giảng dạy
Theo Võ Quang Minh (2005), những công việc nghiên cứu đất ngoài đồng
giúp ta có thêm những kiến thức căn bản về sự phân loại đất, nguồn gốc phát sinh,
các đặc tính lý hóa học của đất, đồng thời với các nhà sinh thái học có thể liên hệ để
tìm hiểu các môi trường sinh thái thiên nhiên và những hệ sinh thái có sự tác động
của con người. Ngoài ra, các giáo viên dạy Đại học, Phổ thông trung học có thể tìm
thấy trong bản đồ và các bản thuyết minh về đất những chi tiết cần dùng trong việc
giảng dạy về kinh tế, sinh kỹ thuật nông nghiệp….
Theo Đỗ Nguyên Hải và Hoàng Văn Mùa (2007), trên cơ sở phân loại, xây
dựng bản đồ đất việc tiến hành những nghiên sâu ngoài thực địa đối với các loại đất
sẽ giúp cho việc bổ sung những kiến thức cơ bản về lĩnh vực hình thái, phân loại,


13
tính chất, sử dụng, cải tạo đất cũng như việc đánh giá các tác động ảnh hưởng của
việc sử dụng đất đến môi trường sinh thái, v.v…
1.1.4 Phương pháp khảo sát xây dựng bản đồ đất
Theo Hoàng Văn Mùa (2007), bản đồ đất xây dựng trên bản đồ địa hình (tỷ lệ
của bản đồ địa hình cũng là tỷ lệ của bản đồ đất). Tỷ lệ càng lớn mức độ chính xác
càng cao. Trên nền bản đồ địa hình, xác định mạng lưới phẫu diện cần nghiên cứu
gồm có phẫu diện chính, phẫu diện phụ và phẫu diện thăm dò (định ranh giới). Kết
quả nghiên cứu phẫu diện và phân loại đất là cơ sở để biên vẽ xây dựng bản đồ đất.
Ranh giới của các loại đất là những đường cong khép kín (còn gọi là dùng contour),
mỗi loại được ký hiệu bằng màu sắc và ký tự riêng. Các loại đất, địa hình, địa vật,
v.v… được chú dẫn đầy đủ để giúp cho người đọc bản đồ nhanh chống, thuận tiện.
Hiện nay sử dụng rộng rãi công nghệ GPS trong việc xây dựng bản đồ đất với các
phần mềm riêng (như Mapinfo, Acview,…).
Toàn bộ kết quả phân loại và xây dựng bản đồ đất còn được thể hiện ở thuyết
minh đất kèm theo bản đồ. Sản phẩm đầy đủ của điều tra, nghiên cứu phân loại và
xây dựng bản đồ đất là bản đồ đất và thuyết minh kèm theo.

1.1.4.1 Phương pháp khảo sát theo mạng lưới ô vuông
Theo Võ Quang Minh (2004), Trong phương pháp này tất cả các điểm khảo
sát cách đều nhau và cùng nằm trên mạng lưới ô vuông, Thường phương pháp này
áp dụng cho những bản đồ tỉ lệ lớn, hoặc trên các khu vực mà không ảnh không hữu
dụng cho việc giải đoán. Tuy nhiên sự bất tiện của phương pháp này cũng cho thấy
nhiều như: kéo dài thời gian khảo sát, tốn kém kinh phí, đồng thời vị trí quan sát đôi
khi chưa đại diện do cự ly đi ngoài đồng có thể sai lệch và giữa các ranh giới của
các đơn vị đất khác nhau. Đồng thời trong quá trình dã ngoại thường rất vất vả do
sự cắt ngang của các kênh rạch, lùm bụi, đê, đường sá, nhà cửa, do đó vị trí chính
xác ngoài đồng thì rất khó đạt được.
1.1.4.2 Phương pháp khảo sát theo giải đoán không ảnh và ảnh vệ tinh
Theo Võ Quang Minh (2004), Giải đoán không ảnh là xem ảnh của các vật
trên không ảnh để biết các vật ấy là những vật gì và định mức quan trọng của vật
đó. Yêu cầu chính trong việc giải đoán ảnh là sự đánh giá các đơn vị dạng đất. Với
sự hữu dụng của kính xem nổi (stereoscope), khi nhìn lên ảnh máy bay ta có thể
nhận biết được: địa hình (độ dốc), khả năng thoát nước (dòng chảy), sự xói mòn của
đất, độ đậm lợt màu hay trắng đen, thực vật và đặc tính sử dụng đất, đồng thời cũng
xác định thêm được về đặc tính của các dạng hình: sử dụng đất, đất hoang, đất và
mặt nước hoang từ đó sắp xếp kế hoạch, chương trình cụ thể theo sự giải đoán mà
chọn địa điểm và thực hiện các yêu cầu cần làm ở ngoài đồng.


14
Không ảnh có thể được sử dụng để làm căn bản cho các cuộc điều tra khảo sát
đất. Trong các ngành thảo mộc học, lâm học, người ta có thể sử dụng không ảnh
một cách trực tiếp vì thực vật, cây rừng có thể quan sát ngay trên ảnh, còn về đất,
nghĩa là những trắc diện thì nằm sâu dưới đất không thể thấy ngay được trên không
ảnh. Xây dựng bản đồ đất không chỉ dựa vào sự giải đoán không ảnh mà còn phải
kèm theo sự quan sát đất ngoài đồng và số phẫu diện quan sát càng nhiều khi những
điều kiện thổ nhưỡng càng thay đổi.

Dùng không ảnh giải đoán để xây dựng các bản đồ dã ngoại bằng cách là xây
dựng các ranh giới khác nhau dựa theo các đặc tính ảnh từ đó có thể chọn các vị trí
khoan thích hợp đại diện cho các đặc tính khác nhau từ đó có thể tìm sự tương quan
giữa giải đoán không ảnh và đất ngoài đồng. Dựa vào không ảnh có thể vạch được
kế hoạch và chương trình khảo sát ngoài đồng bằng cách dựa vào các yếu tố thay
đổi địa hình, ước đoán được số phẫu diện cần quan sát, các hướng đi khi xác định
điểm ngoài đồng và xây dựng các lát cắt cụ thể theo sự thay đổi của quy luật phân
bố đất, chọn lọc các khu vực cần lấy mẫu.
Theo Võ Quang Minh (2005), trên cơ sở giải đoán ảnh đa phổ và ảnh trắng
đen của vệ tinh Spot để bổ sung chỉnh lý bản đồ phân bố đất vùng ĐBSCL tỉ lệ
1/250.000, cho thấy việc sử dụng ảnh viễn thám là phương pháp có nhiều ưu thế hổ
trợ rất nhiều trong quá trình điều tra lập bản đồ đất so với phương pháp truyền
thống, như hổ trợ trong việc xác định các ranh giới đất được chính xác, hạn chế
được các điểm khảo sát ngoài thực địa so với phương pháp truyền thống.
Theo Nguyễn Ngọc Thạch et al (1997), Viễn thám là phương pháp có nhiều
ưu thế. Nhiều Nước Công nghiệp phát triển cũng như các nước trong quá trình điều
tra đất so với phương pháp truyền thống đang phát triển đã sử dụng rộng rãi phương
pháp này để thành lập bản đồ đất.
Theo Võ Quang Minh (2004), sử dụng việc giải đoán không ảnh để đi dã
ngoại làm bản đồ đất sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian đi ngoài đồng, các vị trí
khoan được chọn lựa cẩn thận và chính xác, các ranh giới về sự thay đổi của đất
được khoanh theo dạng tự nhiên và rất rõ ràng.
Tuy nhiên, việc giải đoán không ảnh để xây dựng bản đồ đất đòi hỏi người
giải đoán phải có nhiều kiến thức và kinh nghiệm giải đoán, đồng thời người đi dã
ngoại phải cần có nhiều kinh nghiệm khảo sát, biết nhận định khoanh và xác định
ranh giới ngay ngoài đồng và ghi nhận những dữ kiện quan trọng liên quan cũng
như những yếu tố của môi trường xung quanh.
1.2. PHÂN LOẠI ĐẤT
1.2.1. Định nghĩa



15
Theo Kaurichev và Panov (1989), phân loại đất là sự sắp xếp đất có hệ thống
vào từng nhóm theo những đặc tính quan trọng nhất, nguồn gốc và đặc điểm độ phì.
Công việc để thiết lập hệ thống phân loại đất gồm:
- Thiết lập, xây dựng các nguyên tắc phân loại.
- Soạn thảo các đơn vị trong bản hệ thống phân loại.
- Thiết lập sơ đồ phân loại.
- Thiết lập hệ thống tên gọi, ký hiệu và dấu hiệu chẩn đoán đất.
Theo Tôn Thất Chiểu và Lê Thái Bạt (2000), nghiên cứu phân loại đất là
nghiên cứu đánh giá từng loại hình riêng lẻ, xác lập mối quan hệ giữa cá thể với
quần thể trong một phạm vi chung với những kiến thức tổng quát nhất về đất hay
phân loại đất là phân loại lớp thổ nhưỡng khác với phân hạng định giá đất đai.
Theo David G. Rossister (2001), mục đích chính của bất kỳ hệ thống phân
loại nào là tổ chức lại kiến thức về các đặc tính của các chủ thể mà có thể nhớ được
và mối quan hệ của chúng có thể dể hiểu nhất cho các mục đích chuyên biệt. Quá
trình bao hàm sự tạo thành các lớp qua việc tập hợp các chủ đề trên các đặc tính cơ
bản thông thường của chúng. Trong bất kỳ hệ thống phân loại nào, các nhóm được
tập hợp dựa trên các trạng thái có số lượng lớn nhất, chính xác nhất và quan trọng
nhất, mà nó có thể được thực hiện cho các mục tiêu phục vụ cho mục đích tốt nhất.
Theo Võ Tòng Anh và Lê Quang Trí (2003), phân loại đất là để sắp xếp lại
các kiến thức, sự hiểu biết về đất, mối quan hệ giữa các cá thể trong quần thể được
phân loại để nhớ các đặc tính của chúng, tìm mối quan hệ mới và cuối cùng là sắp
chúng theo mục đích sử dụng.
Tóm lại, phân loại đất là đặt tên cho các loại đất trong tự nhiên và sắp xếp
chúng theo thứ tự theo hệ thống phân vị.
1.2.2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống phân loại đất
Theo Glazovckaia và Genadive (1995), phân loại đất phải dựa trên những
đặc điểm và các chế độ cơ bản của đất, phải kể đến những tiến trình, điều kiện hình
thành đất. Trên nghĩa rộng hơn phân loại đất phải dựa trên đặc điểm sinh thái, hình

thái tiến hoá của đất.
Phân loại đất phải được tiến hành rất khắt khe theo hệ thống đơn vị phân loại
đã được xây dựng một cách khoa học.


16
Trong phân loại phải tính đến những đặc điểm, tính chất mà đất có được
trong quá trình canh tác và hoạt động của con người.
Phân loại đất phải cho thấy được khả năng sản xuất của đất và giúp sử dụng
đất đai có hiệu quả trong sản xuất nông - lâm nghiệp.
1.2.3. Mục đích phân loại
Theo Kaurichev và Panov (1989), mục đích phân loại bản đồ đất là:
- Sắp xếp các kiến thức đã học, hiểu biết về đất có hệ thống.
- Hiểu mối quan hệ giữa các đơn vị đất có hệ thống theo biểu loại đất.
- Sắp xếp các đặc tính đất có hệ thống theo từng biểu loại đất.
- Ước đoán khả năng sản xuất của đất và xếp nhóm chúng theo mục đích sử
dụng đất.
- Phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học từ nơi này đến nơi khác.
- Đất theo quan điểm phân loại là một đối tượng phức tạp:
+ Thứ nhất là do sự khác biệt về đặc tính của đất không có đường phân chia
rõ rệt trong tự nhiên.
+ Thứ hai là rất nhiều tính chất của đất thay đổi theo thời gian. Những tính
chất quan trọng của đất như pH của dung dịch đất, lượng và thành phần của các
muối hoà tan, nhiệt độ, độ ẩm… Thay đổi theo năm, mùa và thậm chí thay đổi trong
ngày.
Theo Đỗ Nguyên Hải và Phạm Văn Mùa (2007), phân loại đất là tài liệu cơ
bản quan trọng phục vụ đánh giá, phân hạng đất, phân bố sử dụng đất, quy hoạch
thiết kế nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản đều phải dựa vào phân loại
đất. Tính chất các loại đất là căn cứ bố trí cơ cấu cây trồng, chuyển đổi cây trồng,
đầu tư phân bón, xây dựng biện pháp bảo vệ hay cải tạo đất. Phân loại đất có nhiều

mục đích khác nhau:
- Xác định nguồn tài nguyên đất đai của một đơn vị hành chính.
- Căn cứ để xây dựng bản đồ đất.
- Phân loại đất là cơ sở để tiến hành những nghiên cứu tiếp theo về đất.
1.2.4. Tên gọi và chẩn đoán đất
Theo Kaurichev và Panov (1989), tên gọi đất trong hệ thống phân loại phải
tương ứng với tính chất và vị trí của nó trong trong hệ thống phân loại.


17
Tên gọi của đất bắt nguồn từ những đặc điểm của tầng trên mặt, màu sắc của
nó đồng thời kể đến điều kiện sinh thái của vùng đất đó. Chẳng hạn như: đất xám
bạc màu trên phù sa cổ, đất mặn, đất cát biển, đất vàng đỏ trên đá macma axit, đất
đen, đất xám rừng. Trong một số trường hợp màu sắc của các loại đất giống nhau
thì khi đặt tên gọi cho đất phải dựa thêm vào điều kiện sinh thái hình thành nên loại
đất đó như: đất nâu rừng, đất nâu bán sa mạc. Hoặc điều kiện sinh thái là tên chính
của đất đầm lầy, đất mặn ven biển.
Tên gọi theo loại phụ gắn liền với tính tiêu biểu, tính chuyển tiếp của loại đất
đó. Để biểu hiện nó người ta thêm vào tên của các tiến trình phụ trong hình thành
đất hoặc những đặc tính tạo nên tiến trình đó. Chẳng hạn như: đất phèn nhiều, đất
phèn trung bình, đất phèn ít, đất phèn tiềm tàng, đất phèn hoạt động v.v…đôi khi
tên gọi loại phụ gắn liền với chế độ nước của đất hoặc chế độ nhiệt của đất.
Tên của giống gọi theo đặc điểm của tính chất chất đặc trưng của đất như:
mặn kiềm, thủy úng hoặc các dấu hiệu còn lại của giai đoạn trước quá trình hình
thành đất, dấu hiệu của glây hoặc podzon.
Tên của loại thể hiện về lượng các tính chất của đất được cường độ các tiến
trình hình thành đất được sử dụng ở 3 mức độ như: ít, trung bình, nhiều đối với số
lượng (mùn, carbonate v.v…) độ dày ít, độ dày trung bình, độ dày rất dày với tầng
nào đó, độ sâu xuất hiện của một tính chất, dấu hiệu nào đó, mức độ thể hiện của
một hiện tượng.

- Tên thứ của đất gắn liền với thành phần cơ giới như: cát, cát pha thịt, thịt,
sét v.v…
- Tên của chi chỉ nguồn gốc của mẫu chất, đặc điểm của đá mẹ: trên phù sa
cổ, trên đá macma axít.
- Tên gọi hoàn chỉnh của đất phải bao gồm tên của tất cả các cấp bậc trong
hệ thống phân loại.
Theo Kaurichev và Panov (1989), chẩn đoán đất là tập hợp tất cả các đặc
điểm của đất có thể có và có thể sắp xếp đất vào một loại đất nào đó rồi đặt tên đất
hoàn chỉnh.
Để chẩn đoán đất, ta sử dụng tất cả các xác định được trong quá trình khảo
sát đất, nghiên cứu về hình thái phẫu diện đất (cấu tạo, độ sâu của các tầng, sự xuất
hiện của những tầng đặc trưng và sắp xếp các tầng) và những phân tích đơn giản.


18
Nhưng đôi khi những phân tích đó không đủ mà cần đến những phân tích phức tạp
như: thành phần cation trao đổi, thành phần mùn, thành phần hoá học đất, thành
phần cơ giới, chế độ nước, chế độ nhiệt.
1.3. HỆ THỐNG PHÂN LOẠI WRB-FAO 2006
1.3.1. Mục tiêu của WRB 2006
Theo FAO (2006), mục tiêu của phân loại:
- Để phát triển một hệ thống có thể chấp nhận được trên toàn cầu để diễn đạt
các tài nguyên đất mà các hệ thống phân loại ở cấp quốc gia có thể được kết hợp
vào cũng như có quan hệ lẫn nhau, trong đó chú giải của FAO được sử dụng như
một khung căn bản.
- Để cung cấp cho khung phân loại này một nền tảng khoa học mà có liên
quan như: nông nghiệp, địa chất, thuỷ văn và sinh thái…
- Để nhận biết các quan hệ quan trọng trong phạm vi khung của hệ thống về
mặt không gian của đất và các tầng đất mà nó được đặc tính hoá bằng những sự liên
tục của địa hình và các tầng đất.

- Để nhấn mạnh sự đặc tính hình thái của đất hơn là sự tiếp cận của các chỉ
tiêu phân tích trong phòng thí nghiệm.
- WRB cũng là một công cụ cho sự nhận biết các cấu trúc thổ nhưỡng và các
ý nghĩa của chúng. Nó phục vụ như là một ngôn ngữ căn bản trong khoa học đất để
tạo điều kiện cho:
+ Sự thông tin trong khoa học.
+ Sự thực hiện đầy đủ các cuộc kiểm tra tài nguyên đất và chuyển đổi các số
liệu thổ nhưỡng, làm hoàn chỉnh các hệ thống phân loại khác nhau mà nó có cùng
một nền tảng thông thường, cũng như sự diễn đạt các bản đồ.
+ Sự chấp thuận các mối quan hệ giữa các loại đất, sự phân bố các các tầng
đất mà nó được đặc tính hoá bởi sự liên tục của địa hình và các tầng đất.
- Việc sử dụng các số liệu thổ nhưỡng chung trên phạm vi quốc tế, không chỉ
bởi các nhà khoa học về đất mà còn những người sử dụng đất khác như: các nhà địa
chất học, thực vật học, nông học, thuỷ văn học, nông dân, các kỹ sư và kiến trúc sư
với mục tiêu chuyên biệt trên cơ sở:
+ Sử dụng số liệu đất để phục vụ cho các lợi ích của các khoa học khác.


19
+ Đánh giá tài nguyên đất và tiềm năng sử dụng các loại che phủ đất khác
nhau.
+ Kiểm chứng các loại đất, chủ yếu cho sự phát triển của loại đất chuyên biệt
nào đó tùy vào cách mà các đất được sử dụng bởi cộng đồng con người.
+ Chấp nhận các phương pháp thí nghiệm về sử dụng đất phục vụ cho sự
phát triển bền vững, mà nó được tồn tại và nếu thích hợp thì nó có thể cải thiện tiềm
năng của đất.
+ Chuyển đổi các kỹ thuật sử dụng đất từ vùng này sang vùng khác.
1.3.2. Nguyên tắc phân loại
Theo FAO (2006), Phân loại đất bao gồm 3 bước:
Bước 1: Sơ lược về độ dày và chiều sâu của từng tầng trong mẫu đất cần

phân loại sau đó kiểm tra lại với yêu cầu của tầng chẩn đoán, đặc tính chẩn đoán,
vật liệu chẩn đoán trong WRB. Mà những tầng chẩn đoán, đặc tính chẩn đoán, vật
liệu chẩn đoán này được định nghĩa thông qua hình thái và hoặc tiêu chí phân tích.
Tầng nào mà có đầy đủ một hoặc nhiều hơn các đặc tính như trên mà nó giống với
quy định của các đặc tính trong WRB thì được lưu ý tới.
Bước 2: Kết hợp những mô tả về các tầng chẩn đoán, đặc tính chẩn đoán, vật
liệu chẩn đoán để so sánh với chìa khóa phân loại của WRB để tìm ra nhóm đất
chính, đây là cấp phân loại thứ nhất của WRB. Người phân loại sẽ thông qua hệ
thống chìa khoá này để loại trừ những nhóm đất trong tất cả các nhóm đất của WRB
mà các đặc tính trên không phù hợp với yêu cầu của những nhóm đất đó. Mẫu đất
cần phân loại này sẽ thuộc về nhóm đất mà các đặc tính ở trên đáp ứng được yêu
cầu quy định của nhóm đất đó.
Bước 3: Đối với cấp phân loại thứ hai của WRB, các hạng định được sử
dụng. Các hạng định này được liệt kê trong chìa khóa của mỗi nhóm đất tham khảo
như những hạng định tiền tố và hậu tố. Những hạng định tiền tố bao gồm những đặc
tính có liên quan một cách điển hình với nhóm đất tham khảo và tổng hợp vào các
nhóm đất tham khảo khác.
Tất cả những hạng định còn lại được liệt kê như những hạng định hậu tố. Đối
với cấp phân loại thứ hai, tất cả những hạng định được ứng dụng thì được thêm vào
tên của nhóm đất tham khảo. Những hạng định thừa (là những đặc tính mà đã được


20
bao gồm những hạng định đã được đặt trước đây) thì không được thêm vào. Tiếp
đầu ngữ có thể được sử dụng để chỉ ra mức độ biểu hiện của các hạng định. Những
lớp chôn vùi có thể được chỉ ra bởi tiếp đầu ngữ Thapto cái mà được sử dụng đối
với bất kỳ hạng định nào.
Những đất bị chôn vùi dưới vật liệu mới, thì áp dụng nguyên tắc sau:
Những vật liệu mới phủ bên trên và đất chôn vùi được phân loại như là một
loại đất nếu cả hai có những hạng định chung với nhau như: Histosol, Technosol,

Cryosol, Leptosol, Vertisol, Fluvisol, Gleysol, Andosol, Planosol, Stagnosol or
Arenosol.
- Mặt khác, vật liệu mới này được phân loại ở cấp đầu tiên nếu những vật
liệu này ở trong vòng 50 cm hoặc dày hơn hoặc nếu vật liệu này đứng độc lập, phù
hợp với yêu cầu của một nhóm đất tham khảo khác hơn là một Regosol.
- Trong tất cả các trường hợp khác, đất chôn vùi được phân loại ở cấp đầu
tiên. Nếu đất phủ bên trên được phân loại ở cấp đầu tiên, đất chôn vùi bên dưới
được nhận dạng với tiếp đầu ngữ Thapto và –ic được thêm vào tên của nhóm đất
tham khảo của nhóm đất chôn vùi. Toàn bộ được đặt trong dấu ngoặc đơn sau tên
của đất phủ bên trên. Ví dụ Technic Umbrisol (Greyic) (Thapto-Podzolic). Nếu đất
chôn vùi được phân loại ở cấp đầu tiên, vật liệu bao phủ bên trên được chỉ ra với
hạng định Novic.
Cẩm nang Hướng dẫn mô tả đất (FAO, 2006) được đề nghị sử dụng để mô tả
đất và những đặc trưng của nó. Nó hữu dụng để liệt kê sự hiện diện và độ sâu của
tầng chẩn đoán, đặc tính chẩn đoán, vật liệu chẩn đoán cũng được nhận dạng. Sự
phân loại ngoài đồng cung cấp đánh giá sơ bộ bằng cách sử dụng tất cả sự quan sát
hoặc các đặc tính và đặc trưng của đất được đo lường dễ dàng và kết hợp với địa
hình.
Sự phân loại cuối cùng được làm khi dữ liệu phân tích đã sẵn sàng. Theo
Van Reeuwijk (2006), đề nghị sử dụng phương pháp phân tích đất để xác định các
đặc tính lý hóa học đất.
Ví dụ: phân loại đất theo WRB


21
Một loại đất có tầng chẩn đoán Ferralic, sa cấu ở trên tầng Ferralic thay đổi
từ cát pha thịt đến cát pha sét trong vòng 15cm. pH ở giữa 5.5 và 6, độ bão hòa base
ở mức độ cao. Tầng B có màu đỏ đậm, ở dưới 50cm xuất hiện các vết. Sự phân loại
ở ngoài đồng của loại đất này là Lixic Ferralsol (Ferric, Rhodic). Nếu phân tích tiếp
trong phòng thí nghiệm mà sự thay đổi cation (CEC) của tầng Ferrlic nhỏ hơn 4

cmol/kg sét, thì loại đất này cuối cùng phân loại như là Lixic Vetic Ferralsol (Ferric,
Rhodic).
Tầng chẩn đoán, đặc tính chẩn đoán, vật liệu chẩn đoán
Bảng 1.1: Các tầng, đặc tính, vật liệu chẩn đoán đất theo WRB ( FAO, 2006)
Tầng chẩn đoán Đặc tính chẩn đoán Vật liệu chẩn đoán
Albic Natric Abrupt textural change Artefacts**
Anthraquic

Nitic Albeluvic tonguing Calcaric
Anthric** Petrocalcic Andic** Colluvic**
Argic Petroduric Aridic Fluvic
Calcic Petrogypsic Continuous rock** Gypsiric
Cambic Petroplinthic Ferralic Limnic**
Cryic Pisoplinthic**

Geric Mineral**
Duric Plaggic Gleyic colour pattern Organic
Ferralic Plinthic Lithological
discontinuity**
Ornithogenic**
Ferric Salic Reducing conditions** Sulphidic
Folic Sombric** Secondary carbonates Technic hard rock**
Fragic Spodic Stagnic colour pattern Tephric
Fulvic Takyric Vertic**
Gypsic Terric Vitric**
Histic Thionic **
Hortic Umbric
Hydragric Vertic
Irragric Voronic**
Melanic Yermic



22
Mollic
** Tầng, đặc tính, vật liệu chẩn đoán mới (Nguồn: FAO, 2006)
Theo WRB (FAO, 2006a), thì các tầng chẩn đoán: Andic, Chernic, Ochric,
Sulfuric, Vitric; Đặc tính chẩn đoán: Alic, Continuous hard rock, Permafrost,
Strongly humic; Vật liệu chẩn đoán: Anthropogeomorphic đã được lược bỏ. Các
tầng, đặc tính, vật liệu chẩn đoán mới thêm vào so với hệ thống WRB (FAO, 1998),
đó là: tầng chẩn đoán: Anthric, Pisoplinthic, Sombric, Thionic, Voronic; đặc tính
chẩn đoán: Andic, Continuous rock, Lithological discontinuity, Reducing
conditions, Vertic, Vitric; vật liệu chẩn đoán: Artefacts, Colluvic, Limnic, Mineral,
Ornithogenic, Technic hard rock.
Những nhóm đất tham khảo trong WRB (FAO, 2006)
Bảng 1.2: Những nhóm đất tham khảo của WRB ( FAO, 2006)
Nhóm đất

hiệu

Nhóm đất

hiệu

Nhóm đất

hiệu

Nhóm
đất


hiệu

Acrisols AC Chernozems CH Kastanozems KS Podzols PZ
Albeluvisols AB Cryosols CR Leptosols LP Regosols R
Alisols AL Durisols DU Lixisols LX
Soloncha
ks
SC
Andosols AN Ferralsols FR Luvisols LV Solonetz SN
Anthrosols AT Fluvisols FL Nitisols NT
Stagnosol
s***
ST
Arenosols AR Gleysols GL Phaeozems PH
Technosol
s***
TC
Calcisols CL Gypsisols GY Planosols PL Umbrisols

UM
Cambisols CM Histosols HS Plinthosols PT Vertisols VR


23
*** Những nhóm đất mới giới thiệu (Nguồn: FAO, 2006)
Theo WRB (FAO, 2006a) thì có 2 nhóm đất mới được thêm vào so với hệ
thống WRB (FAO, 1998) đó là: nhóm Stagnosols, Technosols.
1.3.3. Các nguyên lý cơ bản của WRB
- Sự phân loại các đất dựa trên các đặc tính đất được định nghĩa dưới hình
thức các tầng chẩn đoán và các đặc tính chẩn đoán, vật liệu chẩn đoán, với tính phù

hợp ở phạm vi rộng lớn mà nó có thể đo lường và quan sát được ngoài thực địa.
- Việc chọn lựa các tầng chẩn đoán và các đặc tính chẩn đoán lưu ý đến mối
quan hệ với các quá trình hình thành đất.
- Để mở rộng sự phù hợp ở cấp độ cao hơn của việc khái quát hóa mà nó lưu
ý đến để chọn lựa các đặc điểm nổi bật của việc chẩn đoán mà nó có ý nghĩa cho
các mục đích quản lý.
- Các thông số khí hậu thì không được áp dụng trong phân loại đất.
- WRB có ý nghĩa là một hệ thống phân loại dễ hiểu mà nó làm cho mọi
người có thể thích ứng được với hệ thống phân loại của chính quốc gia của họ. Nó
bao gồm hai thứ bậc của sự chi tiết các loại hạng sau:
+ Khái niệm “Nền tảng tham khảo (Reference Base) chỉ được giới hạn ở cấp
thứ nhất, mà nó có 32 nhóm đất tham khảo.
+ Khái niệm “Hệ thống phân loại WRB” bao gồm sự kết hợp của một bộ các
tiếp đầu ngữ như các hạng định (hoặc các bổ nghĩa) đồng nhất được thêm vào cho
các nhóm đất tham khảo, cho phép sự đặc tính hóa và phân loại rất chính xác của
các phẫu diện đất chuyên biệt.
- Các đơn vị đất tham khảo trong WRB – FAO nên có tính đại diện cho các
vùng đất chính mà nó cung cấp một khái quát mang tính dễ hiểu cho sự che phủ của
đất thế giới.
- Nền tảng tham khảo không có nghĩa là nó thay thế cho các hệ thống phân
loại đất của quốc gia nhưng nó phục vụ như một mẫu thức cho sự liên lạc ở cấp
quốc tế.
- Chú giải bản đồ đất thế giới của FAO - UNESCO đã được sử dụng như là
nền tảng cho sự phát triển của WRB - FAO để tạo sự thuận lợi cho công việc có
tương quan đến đất ở phạm vi quốc tế mà nó đã được thực hiện qua dự án này.


24
- Theo phiên bản đầu tiên của WRB được xuất bản lần đầu tiên vào năm
1998 gồm có 30 nhóm đất, phiên bản thứ hai của WRB được xuất bản vào năm

2006 gồm 32 nhóm đất.
- Các định nghĩa và mô tả các đơn vị đất phản ánh sự biến động các đặc tính
đất ở cả hai chiều thẳng đứng và kề bên mà nó lưu ý đến sự liên hệ về mặt không
gian trong cùng một phạm vi địa mạo.
- Thuật ngữ “Nền tảng tham khảo (Reference Base)” có nghĩa của hàm mẫu
thức thông thường mà WRB sẽ thừa nhận.
- Thêm vào đó để phục vụ như là cầu nối giữa các hệ thống phân loại hiện
tại.
- Danh pháp được sử dụng để phân biệt các nhóm đất sẽ giữ được các thuật
ngữ mà nó sử dụng phổ biến trước đây hoặc nó có thể dễ dàng đưa vào ngôn ngữ
hiện tại.
Mặc dù khung cơ bản của chú giải FAO với hai cấp loại hạng và các hướng
dẫn cho việc phát triển các cấp ở mức độ thứ ba đã được biết, nó đã quyết định để
hòa nhập các mức độ thấp hơn. Mỗi nhóm đất tham khảo của WRB - FAO cung cấp
với một danh sách các hạn định phù hợp với trình tự ưu tiên, từ việc người sử dụng
có thể xây dựng một số đơn vị ở cấp độ thấp hơn. Các nguyên tắc rộng mà nó chi
phối sự phân biệt các cấp của WRB
- Ở loại hạng cao hơn, các cấp được phân biệt chủ yếu tùy thuộc vào quá
trình nguồn gốc thổ nhưỡng chính yếu mà nó đã hình thành nên các đặc tính nổi bật
của đất, ngoại trừ ở những nơi có vật liệu đất gốc “Đặc biệt” là quan trọng hơn bất
cứ nhận định nào khác.
- Ở loại hạng thấp hơn, các cấp được phân biệt tùy vào bất kỳ quá trình hình
thành đất thứ cấp chiếm ưu thế mà nó có đã ảnh hưởng có ý nghĩa đến các điểm nổi
bật chính yếu của đất. Trong vài trường hợp chuyên biệt, các đặc tính đất mà nó ảnh
hưởng có ý nghĩa cho việc sử dụng thì nó có thể được lưu ý đến.
Qua đó cho thấy rằng một số nhóm đất tham khảo có thể xuất hiện dưới các
điều kiện khí hậu khác nhau. Tuy nhiên, như đã quyết định là không đưa vào sự
phân chia các đặc tính khí hậu mà sự phân loại đất không bị phụ thuộc vào tính hữu
dụng của các dữ liệu khí hậu.



25
1.4. HỆ THỐNG THÔNG TIN ĐỊA LÝ- GIS
1.4.1. Định nghĩa GIS
Theo Võ Quang Minh (1999), GIS là một kỹ thuật quản lý các thông tin dựa
vào máy vi tính được sử dụng bởi con người vào mục đích lưu trữ, quản lý và xử lý
các số liệu thuộc về địa lý hoặc không gian nhằm phục vụ cho các mục đích khác.
Mặt khác, có thể hiểu “GIS là một tập thể có tổ chức của phần cứng máy
tính, phần mềm, dữ liệu địa lý và các thủ tục của người sử dụng nhằm trợ giúp việc
thu nhập, lưu trữ, quản lý, xử lý, phân tích và hiển thị các thông tin không gian từ
thế giới thực để giải quyết các vấn đề tổng hợp thông tin cho các mục đích của con
người đặt ra” (Nguyễn Thế Thận và Trần Công Yên, 2000).
1.4.2. Sơ lược về tình hình phát triển và ứng dụng của công nghệ GIS trên
thế giới và Việt nam
Theo Đào Ngọc Cảnh (2003), trên thế giới công nghệ GIS ra đời vào năm
1960 ở Canada và sau đó ở Mỹ. Từ những năm 80, công nghệ GIS đã phát triển hết
sức nhanh chóng và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực của đời sống. Hiện nay,
GIS đã được ứng dụng mạnh mẽ hầu hết các nước trên thế giới như: Mỹ, Canada,
Anh, pháp, Đức, Ôxtrâylia, Trung Quốc, Thái Lan, Bangladesh, Lào, Campuchia,
Zimbawe,
Ở Việt Nam, sự phát triển của công nghệ GIS có thể chia thành những giai
đoạn chính như sau:
- Giai đoạn (1990-1992): công nghệ hình thành với quy mô nhỏ, mang
tính chất thử nghiệm. Nhìn chung, các sản phẩm GIS giai đoạn này điều do người
Việt nam tự thiết kế xây dựng và phát triển ứng dụng. Các sản phẩm thường mang
tính chất phân tán, độc lập với nhau trên mọi phương diện nên mỗi sản phẩm chỉ
phục vụ riêng cho một đơn vị, một ngành, một lĩnh vực cụ thể, việc chuẩn hoá các
số liệu chưa được đặt ra.
- Giai đoạn nghiên cứu, tìm tòi và tự hoàn thiện (1993 – 1995): một số phần
mềm GIS Việt Nam hình thành trong giai đoạn trước tiếp tục phát triển và hoàn

thiện: WINGIS, GEOMAP, KAMAP, đồng thời xuất hiện khuynh hướng sử dụng
các phần mềm GIS chuẩn của thế giới: ARE/INFO, INTERGRAPH, MAPINFO,
- Giai đoạn phát triển và bùng nổ (1996 đến nay): Cùng với những yêu cầu
cao về công tác quản lý trong mọi lĩnh vực của đời sống, sự giảm giá nhanh chóng


26
Chuyên
Viên
Phần Mềm
thiết bị
Số liệu
GIS
của phần mềm và thiết bị tin học làm cho thị trường GIS phát triển và bùng nổ
mạnh mẽ. Bên các dự án quốc gia và dự án cho các tổ chức quốc tế tài trợ (UDNP,
WB, IMF, ADB, ) cũng đã kích thích mạnh mẽ việc sử dụng công cụ hiện đại, tiên
tiến của thế giới (ARE/INFO, INTERGRAPH, MAPINFO, ) vào việc xây và triển
khai các ứng dụng GIS tại Việt Nam.
Gần đây GIS cũng đã được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như:
- Quản lý tài nguyên môi trường tỉnh Khánh Hoà.
- Đánh giá tiềm năng đất cho sản xuất nông nghiệp tỉnh Đồng Nai.
- Quy hoạch tổng thể vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (DAVIE89/034)
- Quản lý địa chính ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang và
Thành Phố Hồ Chí Minh.
- Đánh giá hiện trạng đất ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.
- Xây dựng bản đồ ngập lũ ở Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long.
- Xây dựng ngân hàng dữ liệu Đông Bắc.
- Xây dựng các điểm du lịch ở Hà Nội và phụ cận.
- Điều tra quy hoạch và quản lý rừng.
- Quy hoạch và quản lý đô thị.

1.4.3. Các thành phần chính của công nghệ GIS
Theo võ Quang Minh (1999), công nghệ GIS bao gồm 5 phần cơ bản:
thiết bị (hardware), phần mềm (software), số liệu (georgaphic data), chuyên viên
(expertise) chính sách và cách thức quản lý (policy and managemet).









Hình 1.1: Sơ đồ các hợp phần thiết yếu của công nghệ GIS

Chính sách và
quản lý


27
Số
Liệu
Vào
Qu
ản lý
số liệu

Xử lý
số liệu
Phân tích

& mô
hình hoá
số
liệu
ra
1.4.4 . Mô hình của công nghệ GIS
Theo Nguyễn Thế Thận, (1999): hệ GIS có thể hiểu như là quá trình “vào -
ra”.
Phương pháp biểu thị dạng “vào - ra” là khởi điểm của việc xây dựng nguyên
tắc hoạt động của GIS.






Hình 1.2: Sơ đồ mô hình công nghệ GIS
* Số liệu vào:
Số liệu có thể được nhập từ các nguồn như: Chuyển đổi, số hoá, quét, viễn
thám, ảnh, hệ thống định vị toàn cầu GPS, máy toàn đạt điện tử.
* Quản lý số liệu:
Các số liệu sau khi được thu thập và tổng hợp thì cần bảo trì và lưu trữ
trong máy. Để quản lý dữ liệu có hiệu quả cần bảo đảm các khía cạnh về: bảo mật
số liệu, tích hợp số liệu, lọc và đánh giá số liệu, khả năng duy trì số liệu.
* Xử lý số liệu:
Với các thao tác xử lý số liệu nhằm để tạo ra thông tin như là các ảnh,
báo cáo và bản đồ.
* Phân tích và mô hình hoá:
Số liệu sau khi tổng hợp, chuyển đổi và yêu cầu tiếp theo khả năng giải
mã, phân tích về mặt định tính và định lượng thông tin đã thu nhập.

* Số liệu ra:
Đối với các phương pháp truyền thống thì số liệu ra ở dạng bảng và đồ
thị. Ngoài ra, có thể cung cấp bằng các bản đồ và ảnh 3 chiều.
Việc sử dụng công nghệ máy tính kỹ thuật số có nghĩa là thông tin này
được quan sát trên màn hình máy tính, được vẽ ra như các bản đồ giấy, nhận được
như ảnh địa hình hoặc dùng để tạo ra một file số liệu.


28
1.4.5. Các kết quả ứng dụng của GIS trên thực tế trong thời gian qua
* Trên thế giới:
- Ứng dụng GIS để dự đoán, dự báo và quản lý dịch hại ở Finland (Tikkala
và Ctv 1996).
- Ứng dụng GIS để nghiên cứu xói mòn đất ở Đài Loan (cheng, 1992)
- Ứng dụng kỹ thuật GIS để thiết lập phương án đánh giá chất lượng nước ở
Nam Triều Tiên (Kyehyun, 1996).
* Ở Việt Nam:
- Ứng dụng GIS để giải đoán ảnh vệ tinh Spot và GIS để nghiên cứu hiện
trạng sử dụng đất đai ở huyện Tân Thạnh - Tỉnh Vĩnh Long (Lê Quang Trí,1996).
- Xây dựng hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu khảo sát và phân tích đất ở Đồng
Bằng Sông Cửu Long bằng phần mềm Mapinfo (Trần Thị Ngọc Trinh,Võ Quang
Minh, Trương Chí Quang, Võ Quốc Tuấn, 2003).
- Hệ thống quản lý, truy xuất thông tin tài nguyên ĐBSCL (Võ Quang Minh,
Trương Chí Quang, 2003).
1.4.6. Ưu điểm và nhược điểm của việc sử dụng GIS
* Ưu điểm:
Theo Võ Quang Minh (1999), kỹ thuật GIS là một công nghệ ứng dụng các
tiến bộ của khoa học và máy tính. Do đó, việc sử dụng GIS trong các mục tiêu
nghiên cứu so với các phương tiện cổ điển thì có thể mang lại những hiệu quả cao
như:

- Là cách tiết kiệm thời gian và chi phí tốt nhất trong việc lưu trữ số liệu.
- Số liệu lưu trữ có thể cập nhật hoá một cách dễ dàng.
- Chất lượng và số lượng được quản lý, xử lý và hiệu chỉnh tốt.
- Dễ dàng truy cập và phân tích số liệu từ nhiều nguồn và nhiều loại khác
nhau.
- Tổng hợp một lần được nhiều loại số liệu khác nhau để phân tích và
nhanh chóng tạo ra một lớp số liệu mới.
* Nhược điểm:
- Chi phí và những vấn đề về kỹ thuật đòi hỏi trong việc chuẩn bị lại số liệu
thô hiện có, nhằm có thể chuyển bản đồ dạng giấy sang kỹ thuật số trên máy tính.


29
- Đòi hỏi nhiều kiến thức của các kỹ thuật cơ bản về máy tính và yêu cầu lớn
về nguồn tài chính ban đầu.
- Chi phí của việc mua sắm và lắp đặt các trang thiết bị và phần mềm GIS khá
cao
- Trong một số lĩnh vực ứng dụng, hiệu quả tài chính thu lại thấp. Đặc biệt
trong nông nghiệp, thì GIS có 3 điểm thuận lợi chính khi so sánh với cách quản lý
bản đồ bằng tay trước đây:
+ Một công cụ khá mạnh trong việc lưu trữ và diễn đạt các số liệu mà đặc
biệt là các số liệu bản đồ.
+ Chúng có thể cho ra kết quả dưới nhiều dạng khác nhau như các bản đồ,
biểu bảng, các biểu đồ thống kê,
+ Là một công cụ đắc lực cho các nhà khoa học về lĩnh vực nghiên cứu hệ
thống canh tác, đánh giá đất, đánh giá khả năng thích nghi của các kiểu sử dụng đất,
quản lý và xử lý các bản đồ giải thửa trong quản lý đất đai.
1.5.VÀI NÉT VỀ MAPINFO
1.5.1. Khái Niệm Mapinfo
MapInfo là một phần mềm thuộc nhóm GIS được xây dựng nhằm giúp chúng

ta xử lý bản đồ số cũng như quản lý và phân tích các thông tin liên quan đến địa lý.
Trước đây, xử lý bản đồ là một chức năng chuyên nghiệp của ngành Bản đồ học,
với sự ra đời của MapInfo thì việc xử lý bản đồ trở nên một công việc mà mọi
người đều có thể làm được. Không những có các chức năng của bản đồ thông dụng
như cung cấp thông tin địa lý, giúp định vị, làm bản đồ…, MapInfo còn là một phần
mềm rất mạnh giúp xử lý và phân tích thông tin địa lý. Nói cách khác, MapInfo là
một hệ cơ sở dữ liệu địa lý, tính năng này được tăng cường thêm nhờ khả năng liên
kết được với các hệ cơ sở dữ liệu khác như Microsoft Access, SQL Server và
Oracle (Bùi Hữu Mạnh, 2005).
1.5.2. Tổ chức thông tin bản đồ trong Mapinfo
Bản đồ số trong MapInfo được gọi là Bảng (table) và một Bảng của MapInfo
có thể có phần dữ liệu (tức nội dung hiển thị trong cửa sổ Browser) và phần đồ họa
(nội dung hiển thị trên cửa sổ bản đồ).


30
1.5.3. Phân tích xử lý dữ liệu không gian
Theo Nguyễn Đức Bình (2006), phân tích dữ liệu không gian là khả năng đặc
biệt của các phần mềm hệ thống thông tin địa lý. Chính khả năng này đã giúp chúng
ta xây dựng những bản đồ quy hoạch hay phân tích mới dựa trên các dữ liệu không
gian đã số hóa.
Mapinfo cung cấp một số chức năng như kết hợp, chia cắt, xóa một phần đối
tượng không gian, tạo vùng đệm của một đối tượng hay tạo điểm chung của hai đối
tượng… Các chức năng này được thực hiện trên cùng một lớp dữ kiệu, các đối
tượng này có thể khác kiểu.
1.5.4. Sự liên kết thông tin thuộc tính với các đối tượng bản đồ
Theo Bùi Hữu Mạnh (2005), trong cơ cấu tổ chức và quản lý của cơ sở dữ
liệu MapInfo là các đối tượng bản đồ và cơ sở dữ liệu thuộc tính, chúng được liên
kết chặt chẽ, không thể tách rời giữa các tập tin thuộc tính với các đối tượng bản đồ.
Sự liên kết này thông qua chỉ số Index, dữ liệu được lưu trữ và quản lý bên trong

của các đối tượng bản đồ và có thể truy cập, tìm kiếm thông tin cần thiết qua dữ liệu
và đối tượng bản đồ.


















31
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG TIỆN – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. PHƯƠNG TIỆN
2.1.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện tại huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thời gian thực
hiện từ tháng 11 năm 2010 đến tháng 04 năm 2011.
2.1.2. Địa điểm phân tích mẫu
Bộ môn Quản Lý Đất Đai, khoa Địa Lý, trường Đại Học Đồng Tháp và Bộ môn
khoa học đất, khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng, trường Đại học Cần Thơ.

2.1.3 Các phương tiện xử lý số liệu
- Các phần mềm Microsoft Word , Excel, Mapinfo.
- Máy vi tính, máy in, máy scan, các đĩa mềm và USB.
- Các máy đo pH, EC, CEC, ….
2.1.4 Các phương tiện điều tra khảo sát ngoài đồng
- GPS cầm tay;
- Leng, dao, khoan;
- Quyển tập, viết chì, gom, đồ chuốt viết chì, thước;
- Bìa cứng đựng bản đồ và bản đồ.
- Hộp đựng mẫu đất;
- Quyển so màu Munsell;
- Chai đựng nước
- Chai đựng acid
- Giấy thử pH
- Bọc ny long dùng để đựng tầng đất mặt
- Bình đựng H
2
O
2
và H
2
O
2
- Phiếu điều tra dã ngoại ( mô tả phẫu diện đất).

- Máy ảnh và các dụng cụ cá nhân cấn thiết
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nhằm mục đích xác định các loại đất chính ở huyện Cao Lãnh theo hệ thống
WRB của FAO năm 2006 (FAO, 2006a); làm cơ sở để chỉnh lý và chú giải bản đồ
đất Cao Lãnh tỷ lệ 1:25.000 theo hệ thống WRB – FAO (FAO, 2006a) . Đề tài được

thực hiện gồm các bước và được trình bày ở hình 2.1 như sau:

×