Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Báo cáo " Vai trò lãnh đạo trong chính sách nước của Hoa Kỳ và toàn cầu " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.97 KB, 24 trang )

1

HOA KỲ VÀ CHÍNH SÁCH NƯỚC QUỐC TẾ
Ken Conca
University of Maryland

Bài viết này nghiên cứu về vai trò của Hoa Kỳ trong các cơ quan quốc tế và những hành động
để bảo vệ nguồn nước. Nước là thách thức toàn cầu trong nhiệm vụ bảo vệ môi trường và an
ninh nhân loại. Nước cũng là đặc trưng của hàng loạt các vấn đề môi trường “xuyên quốc gia”
mà nổi lên trong đó là các tổ chức quốc tế đang được hình thành để tập trung vào một vài
mảng khác nhau như: sáng kiến hỗ trợ phát triển, những nỗ lực điều hòa các cuộc tranh luận
đang tiếp diễn về tư hữu hóa nguồn nước và những đập nước lớn, chiến dịch nhằm công nhận
“nhân quyền” về nước, và một công ước khung hợp tác quốc tế về chia sẻ các lưu vực sông.
Sự hứa hẹn của Hoa Kỳ đối với những sáng kiến này hé lộ một số vấn đề: sự không thống
nhất trong chính sách của Hoa Kỳ về nguồn nước, sự thiên lệch có hệ thống coi nước như là
một mặt hàng trao đổi hơn là coi nhu cầu về nước như một “nhân quyền”, sự chậm trễ của các
tổ chức phi chính phủ Hoa Kỳ đối với một số lĩnh vực quan trọng trong chính sách nước toàn
cầu, cũng như một vài khoảng trống giữa chính sách trong nước và quốc tế của Hoa Kỳ với
các tư tưởng quốc tế về “hành động tối ưu” (best practices).
Từ khóa: Hoa Kỳ, nước, chính sách ngoại quốc, quản lý, xây dựng tổ chức, hỗ trợ phát triển,
sông quốc tế, đập nước, tư hữu hóa

Giới thiệu: Vai trò lãnh đạo trong chính sách nước của Hoa Kỳ và toàn cầu
Liệu Hoa Kỳ có phải là nhà lãnh đạo của chính sách nước quốc tế? Câu hỏi này có vẻ như kỳ
quặc, vì từ nhiều năm nay Hoa Kỳ vẫn được coi là một nhà lãnh đạo phù hợp trong các vấn đề
môi trường toàn cầu. Hoa Kỳ nắm một vai trò quan trọng trong một số các hiệp ước đa
phương về môi trường trong những thập niên 70 và 80 bao gồm: những ghi nhớ về bảo vệ
tầng ozôn, cấm buôn bán những loài đang có nguy cơ tuyệt chủng. Một điều chắc chắn là vai
trò lãnh đạo của Hoa Kỳ được điều khiển bởi những quyền lợi đặc biệt trong nước hơn là một
sự đồng thuận có tính chiến lược về môi trường trong chính sách ngoại quốc (Desombre,
2000). Tuy nhiên, hiện nay các thỏa thuận không ký, không phê chuẩn, không thực thi của


Hoa Kỳ lại bao gồm hầu như tất cả các hiệp ước quan trọng về môi trường trong vòng 15 năm
qua. Vai trò ngày càng mờ nhạt đi và sự cản trở phát triển của Hoa Kỳ có thể được giải thích
là do: sự dịch chuyển chung về phía cánh Tả trong chính trị Hoa Kỳ trong suốt giai đoạn gần
đây, sự thể chế hóa về các hành động môi trường được xem như là một cách vận động hành
lang lại tập trung chủ yếu vào bảo vệ các lợi ích quá khứ, và sự định hướng thụ động của công
dân Hoa Kỳ đối với công tác bảo vệ môi trường.
Ngay cả việc đánh giá vai trò lãnh đạo trong quản lý môi trường toàn cầu cũng đã trở nên
phức tạp hơn so với việc xác định đơn thuần vị trí của một quốc gia trên các hiệp ước quốc tế
và quá hình “hợp pháp hóa” toàn cầu. Bắt đầu thập niên 70, “chiến lược vĩ mô” của chủ nghĩa
môi trường toàn cầu đã tập trung vào việc hình thành những văn kiện. Cốt lõi của nó là một
mô hình lớn hơn về chủ quyền quốc gia, cách tiếp cận này nhấn mạnh quy luật các dòng chảy
2

ô nhiễm xuyên biên giới và hợp tác hành động để bảo vệ “chủ quyền quốc gia mở rộng”. Vai
trò lãnh đạo trong khái niệm này là chủ đề của các hiệp ước xúc tiến quốc tế.
Tuy nhiên, hiện nay các vấn đề môi trường xuyên quốc gia sinh ra bởi quá trình toàn cầu hóa
kinh tế đang trở thành những thách thức hàng đầu về môi trường toàn cầu. Các hệ thống như
rừng, các lưu vực, các đới bờ, và các vùng đất ngập nước không chỉ đơn giản là những hệ sinh
thái đang nguy ngập từ một viễn cảnh môi trường toàn cầu. Chúng cũng là cơ sở sinh nhai và
văn hóa của địa phương, và là một “nguồn hàng” ngày càng có giá trị đối với thị trường xuyên
quốc gia. Các công ước khung đã cho thấy đó là một văn kiện hạn chế đối với việc điều hòa
những căng thẳng giữa những ý nghĩa toàn cầu/sinh thái, địa phương/văn hóa xã hội hay
xuyên quốc gia/thị trường. Nước là một minh chứng điển hình về làn sóng những thách thức
môi trường mới. Trên cả những chiến lược quốc tế hóa tự do truyền thống về việc tạo ra một
thể chế điều khiển vấn đề môi trường đặc thù, chúng ta đang thấy một hình mẫu phức tạp và
phân mảnh hơn về thể chế hóa xung quanh nguồn nước với rất nhiều bộ phận khác nhau đang
đồng thời hé lộ ra. Trong một số những sáng kiến ví dụ như công ước LHQ về chia sẻ các lưu
vực sông, phản ánh những cách tiếp cận truyền thống, tập quyền (state-centric) đối với việc
hình thành thể chế quốc tế. Những quá trình khác về xây dựng tổ chức, ví dụ như cộng đồng
nghĩ và hành động mà đã nổi lên xung quanh ý tưởng về quản lý tổng hợp tài nguyên nước

(IWRM), nhằm tập trung vào mạng lưới các chuyên gia và khả năng của họ để thấu hiểu các
tổ chức địa phương, các tổ chức liên chính phủ và các tổ chức phi chính phủ (NGO). Vẫn còn
những quá trình khác như là đối thoại giữa các bên liên quan và những vấn đề chính trị gây
tranh cãi xung quanh các đập nước lớn và kinh tế tự do mới là ít theo quy ước nhất định.
Chúng đang định hình xung quanh những hành động phản kháng và những phản ứng chính trị
gây tranh cãi mà loại bỏ một số giả định cốt lõi về những quá trình xây dựng chính sách chủ
đạo trên cơ sở khoa học và ngoại giao.
Điều này làm nảy sinh một câu hỏi khó: Nó có ý nghĩa gì đối với chính sách ngoại quốc của
một quốc gia để đưa ra một vấn đề về nguồn nước, việc xây dựng tổ chức quốc tế nào đã được
tiếp cận và truyền bá? Làm thế nào để chúng ta đánh giá khả năng lãnh đạo khi không có các
mục tiêu cụ thể và có thể lượng hóa được, ví dụ như sự ưng thuận và phê chuẩn hiệp ước?
Liệu nó có ý nghĩa hay không khi sử dụng thuật ngữ “những nhà lãnh đạo và những kẻ lạc
hậu” (Haas, Keohane và Levy, 1993) khi các tranh luận và các thành tố phức tạp trong việc
xây dựng tổ chức chỉ ra rằng có một số xuất phát điểm khác nhau và những định hướng khác
nhau để hướng đến?
Trong bài viết này, ngoài những hiểu biết hẹp tập trung về vai trò lãnh đạo, khái niệm rộng
hơn về lãnh đạo được tiếp cận theo hai cách riêng biệt. Thứ nhất, nghiên cứu các thành phần
phức tạp của việc xây dựng tổ chức: sự hỗ trợ song phương, sự tham gia trong các hoạt động
liên quan đến nguồn nước của các tổ chức tài chính quốc tế, mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
(MDGs) của Liên Hợp Quốc (LHQ), quản lý chia sẻ và lưu vực sông, ủng hộ “luật nhân
quyền” về nước, và các cuộc luận chiến đang tiếp diễn xung quanh tác động của những đập
nước lớn. Thứ hai, xuyên suốt các lĩnh vực, sự lãnh đạo được hiểu không chỉ là bao gồm các
chiến lược hợp pháp quốc tế mà còn là sự cam kết (hay từ chối) các nguồn lực, hỗ trợ (hay
chống lại) quá trình xây dựng tổ chức, sự thống nhất (hay không thống nhất) của cả chính
sách trong nước và chính sách ngoại quốc với sự nâng cao những hiểu biết quốc tế về “best
practices”, và nền tảng khuôn mẫu cho tất cả các yếu tố trên. Trong trường hợp của Hoa Kỳ,
3

bức tranh mà trong đó nổi lên là: những hành động bị bóp méo theo hướng địa chính trị và sự
chậm chạp mang tính dập khuôn đối với các vấn đề về nước và viện trợ nước ngoài; cam kết

về kinh tế tự do hóa nguồn nước ngày một thiếu đồng bộ hóa với sự mở mang hiểu biết về
nước và “nhân quyền” về nước; sự thiếu nhất quán trong những tuyên bố của Hoa Kỳ về
nguồn nước trên vũ đài quốc tế; hành động chậm trễ của các thành phần phi chính phủ của
Hoa Kỳ; và một khoảng trống đáng kể giữa chính sách nội địa và những hiểu biết quốc tế về
“best practices”.

Thách thức toàn cầu về nước
Nước theo nhiều cách khác nhau được coi là vấn đề cục bộ. Nó có đặc điểm phân bố rất
không đồng đều, sự trao đổi giữa các lưu vực là rất hạn chế, việc vận chuyển một lượng lớn
nước vượt qua khoảng cách lớn là rất tốn kém và có thể làm nảy sinh những bất đồng về
chính trị. Một quy tắc trung tâm của IWRM, được xem như một hình mẫu quản lý ưu việt cho
nguồn nước, trong đó các đơn vị địa vật lý cục bộ như là lưu vực sông hay bồn nước ngầm là
những đơn vị cơ bản trong chính sách, quản lý và quản trị nguồn nước.
Hiện nay, có những vấn đề xuyên quốc gia, thậm chí là toàn cầu hết sức quan trọng về nước.
Nhưng rõ ràng nhất đó là báo động về tình trạng thiếu hụt nước ở những khu vực nghèo đói.
Ước tính có đến 1,1 tỷ người thiếu nguồn nước uống an toàn, trong khi đó có đến 2,6 tỷ người
không thể đáp ứng được nhu cầu tối thiểu về nước vệ sinh trong sinh hoạt của mình (UNDP,
2006). Tổn thất về sức khỏe cộng đồng là rất lớn, và khó có thể xác định chi tiết được. Theo
những ước tính có căn cứ thì có đến 5 triệu người mỗi năm chết do các nguyên nhân liên quan
đến nguồn nước (Gleick, 2004). Theo ước tính của WHO, riêng bệnh ỉa chảy đã gây tử vong
cho trên 2 triệu người mỗi năm và là nguyên nhân lớn thứ 2 gây tử vong cho trẻ em, chỉ sau
bệnh nhiễm trùng cấp tính đường hô hấp. Tình trạng thiếu hụt nước ảnh hưởng một cách
không cân đối lên các khu vực nghèo đói, dễ tồn thương và có sự phân biệt mạnh mẽ về giới.
Sự bất bình đẳng về giới trong lao động đặt gánh nặng về nước lên vai nữ giới. Thời gian sử
dụng để lấy nước về là một trong những yếu tố góp phần giảm tỷ lệ trẻ em nữ đến trường ở rất
nhiều các quốc gia (UNDP, 2006, trang 47).
Mục tiêu Thiên niên kỷ của LHQ, được đồng thuận tại hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ
năm 2000, đã lấy “nước cho người nghèo” là trọng tâm, bao gồm mục tiêu giảm một nửa tỷ lệ
dân số thế giới đang thiếu nước uống an toàn và vệ sinh môi trường tối thiểu vào năm 2015.
Nước cũng được gắn với các mục tiêu khác trong Mục tiêu Thiên niên kỷ như là: chăm sóc

sức khỏe trẻ em, giảm nghèo, thành công trong phát triển bền vững (UNDP, 2006, trang 22 -
24).
Mặc dù nghèo đói vẫn còn là vấn đề dai dẳng, nhưng báo cáo hội nghị Mục tiêu Thiên niên kỷ
đã chỉ ra rằng tỷ lệ dân số thế giới có nước sạch để sử dụng đã tăng từ 71% (năm 1990) lên
80% (năm 2004). Điều này có nghĩa là “Thế giới đang đi đúng lộ trình để đạt được mục tiêu
về nước” (LHQ, 2006, p.19). Tuy nhiên, mục tiêu về vệ sinh có lẽ sẽ không thể đạt được ở
một số khu vực bao gồm cả vùng sa mạc và xung quanh sa mạc Sahara, Nam và Đông Nam
Á, nơi mà về cơ bản không thể đạt được các yêu cầu đặt ra của Mục tiêu Thiên niên kỷ.
4

Đi liền với những thách thức về thiếu hụt nước là sự cấp bách yêu cầu để giảm những sức ép
lên hệ sinh thái nước ngọt toàn cầu. Hệ sinh thái nước ngọt được biết đến là những gì thiết
yếu nhất đối với sức khỏe con người. Nó cung cấp những „hàng hóa‟ tài nguyên thiên nhiên
và những “dịch vụ” mà hệ sinh thái mang lại, ví dụ như: nước ngọt, đa dạng sinh học, kiểm
soát ngập úng, quy định vùng khí hậu, lọc nước, điều kiện nghỉ ngơi giải trí và các giá trị tự
nhiên khác. Hệ sinh thái nước ngọt là đối tượng bị tác động nhiều nhất bởi hoạt động nhân
sinh trên trái đất (Revenga, Brunner, Henninger, Kassem, & Payne, 2000). Hơn một phần ba
các lưu vực trên thế giới đang bị mất ít nhất 75% thảm phủ rừng, làm gia tăng xói mòn, suy
thoái đất, lũ lụt. Có đến 800.000 con đập làm gián đoạn dòng chảy của rất nhiều dòng sông
trên thế giới, và nó đã làm biến đổi dòng chảy, thay đổi các tính chất lý - hóa học của các hệ
sinh thái nước ngọt, cản trở sự lưu thông của nước, phù sa, chất dinh dưỡng và các sinh vật. Ô
nhiễm nước từ nước thải, các độc tố, và sự vượt ngưỡng của các chất dinh dưỡng đang tạo ra
những tổn thất nghiêm trọng hơn.
Có những quyết định khó khăn liên quan đến việc bảo vệ hệ sinh thái nước ngọt khi cố gắng
để mở rộng phạm vi cấp nước cho những quốc gia nghèo. Những tác động cộng hưởng khác
có thể bắt gặp như: sự lụi tàn của các hoạt động sinh nhai dựa vào nguồn tài nguyên xảy ra
khi các đầm lầy bị cạn, các dòng sông bị ngăn đập thường làm “bần cùng hóa” cộng đồng bản
địa, trong khi đó hệ thống nước máy thường chỉ đáp ứng cho khu vực đô thị hóa, nông nghiệp
tập trung, hay những đô thị thiếu nước, chỉ một phần rất nhỏ lợi ích được giành cho các khu
vực nghèo.

Thách thức thứ ba là sự phân phối nguồn cung cấp nước theo sức cạnh tranh về nhu cầu sử
dụng. Sự tăng lên về tính trạng “khát nước” của các đô thị và các khu công nghiệp đang thách
thức hệ thống nông nghiệp - thành phần sử dụng nước chủ yếu trước đây. Một số ít các nước
có các cơ chế hiệu quả và phù hợp cho việc điều hòa những xung đột trong nhu cầu sử dụng;
hầu hết các quốc gia còn lại là quản lý theo các phạm vi về chính sách, quan liêu, và cơ chế
phân bổ tách rời. Trong vài năm trở lại đây, ý tưởng về thị trường hóa nguồn tài nguyên nước,
để chúng đưa đến giá trị sử dụng tối ưu, đang rất được hoan nghênh. Một số các quốc gia đã
tiến bộ rất nhiều trong việc thị trường hóa, tuy nhiên, nó lại làm nảy sinh những xung đột xã
hội. Những áp lực xuyên quốc gia về sự điều chỉnh nền kinh tế tự do và sự hưởng ứng từ
mạng lưới các nhà hoạt động xuyên biên giới đã góp phần điều hòa những xung đột này.
Biến đổi khí hậu toàn cầu đang làm những thách thức này trở nên khó khăn hơn với sự phân
bổ mất cân đối hơn về lượng nước ngọt sẵn có. Theo Ủy ban Quốc tế về biến đổi khí hậu toàn
cầu, “những tổn hại do biến đổi khí hậu đối với nguồn nước đang vượt qua những giá trị do
nguồn nước mang lại” (Kundzewicz et al., 2007, trang 175). Tính biến động của các kịch bản
thời tiết và sự phân bố rất không đồng đều của các nguồn nước và hoạt động sử dụng nước
làm cho việc khái quát hóa những ảnh hưởng của khí hậu là rất khó khăn. Tuy nhiên, những
thách thức chủ yếu bao gồm: những thay đổi trong nguồn nước sẵn có tạo ra bởi sự thay đổi
về các đặc điểm giáng thủy, đặc biệt là ở vùng khô hạn và bán khô hạn; ảnh hưởng của sự tan
chảy băng tuyết lên khả năng cấp nước; điều kiện vệ sinh môi trường của các nguồn tài
nguyên đới bờ gây ra bởi sự dâng lên của mực nước biển; và những ảnh hưởng đến các hệ
sinh thái có nguồn gốc từ sự biến động của các dòng bờ, nhiệt độ nước, cường độ mưa. Thách
thức cũng đến từ tác động gia tăng sức ép của khí hậu lên khả năng cấp nước và hệ thống
5

quản lý mà đang trải qua sự chuyển hóa rõ rệt về kinh tế và chính trị ở rất nhiều quốc gia trên
khắp thế giới.
Hỗ trợ phát triển nước: Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), các Mục tiêu
Thiên niên kỷ (MDG) và Ngân hàng Thế giới
Một trong những ảnh hưởng then chốt xuyên quốc gia về quản lý nguồn nước là viện trợ nước
ngoài cho các dự án về nguồn nước bằng các tài trợ song phương và đa phương. Trên phương

diện hỗ trợ về nguồn nước, trong 10-15 năm qua thế giới đã chứng kiến cuộc tranh luận ngày
càng gay gắt. Một mặt, có thể thấy một viễn cảnh khá “ảm đạm” về nước trên thế giới (Ủy
ban Thế giới về nước, 2000). Theo cách nhìn nhận này, sự gia tăng dân số và nhu cầu ngày
càng tăng sẽ tạo ra một cuộc khủng hoảng về thiếu hụt nguồn nước và yêu cầu huy động vốn
để khai thác những nguồn nước mới, cũng như là quản lý nhu cầu và cơ chế phân bổ hiệu quả
hơn. Mặt khác, một viễn cảnh mà tầm quan trọng của việc trao quyền, tăng cường “nhân
quyền” đối với nhu cầu về nước được nhấn mạnh. Theo cách nhìn nhận này, được phản ánh
trong Báo cáo phát triển con người của UNDP năm 2006, "sự khan hiếm và khủng hoảng
nước toàn cầu bắt nguồn từ quyền lực, nghèo đói và bất bình đẳng, chứ không phải là từ bản
thân của nguồn nước (tính sẵn có về mặt vật lý)" (UNDP, 2006, trang 2).
Sự khác biệt giữa hai cách nhìn nhận này là không đơn giản chỉ là sự cung cấp nước đối sánh
với nhu cầu về nước mà là cấp nước và quản lý nhu cầu về nước, một mặt, so với sự trao
quyền và mặt khác so với sự tham gia trong các quyết định định mức cung và cầu.
Mô hình "quản lý tổng hợp tài nguyên nước" mới chỉ giúp hạn chế chứ chưa thể giải quyết
triệt để được những vấn đề tranh luận này. Điều này có thể được thấy được theo nhiều cách
khác nhau trong đó các chuyên gia về nước nhìn nhận "sự tham gia" từ những nỗ lực một phía
để lôi kéo xã hội trong kế hoạch phát triển nguồn nước và xa hơn nữa là những khái niệm dân
chủ triệt để về sự trao quyền. Vì vậy, mặc dù vấn đề cấp kinh phí rõ ràng là một khía cạnh
quan trọng của sự lãnh đạo, cũng có thể có một khía cạnh khuôn mẫu: những định hướng này
liệu có làm cho sự cấp vốn và các sáng kiến về chính sách được thúc đẩy?
Không tương đồng với sức mạnh của nền kinh tế, hàng năm viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ
chỉ đứng gần sau cùng trong số các nhà tài trợ. Hoa Kỳ không chú trọng lắm về phân bổ viện
trợ liên quan đến nguồn nước. Trong số các nhà tài trợ, Hoa Kỳ đứng thứ hai sau Nhật Bản về
tổng lượng hỗ trợ phát triển liên quan đến nước trong giai đoạn 2001-2004, nhưng chỉ đứng
thứ 15 về tỷ trọng viện trợ liên quan đến nước (ít hơn 25%). Ngược lại, các nhà tài trợ Nhật
Bản, Đức, Đan Mạch, và Luxembourg mỗi nước đóng góp hơn 60% ngân sách viện trợ của họ
cho nước và các sáng kiến vệ sinh môi trường (UNDP, 2006, trang 69).

6


Bảng 1. Hỗ trợ phát triển liên quan đến nước của Hoa Kỳ,
trong các năm tài chính từ 2002-2006 (Tỷ USD)
Loại hình hỗ trợ
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng
Cấp nước, vệ sinh môi trường và quản
lý nước thải
215,3
374,3
585,6
279,5
260,9
1.715,6
Quản lý lưu vực
133,4
109,4
82,5
67,4
65,3
457,9
Sản xuất nước
61,9
115,6
96,0
47,0
29,3

349,9
Ứng phó thảm họa
31,9
20,6
10,0
6,8
0,8
70,1
Tổng
442,6
619,9
774,1
400,6
356,3
2.593,5
Khác biệt so với năm 2002
-
177,3
331,5
-42,0
-86,3

Nguồn: Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, 2006, Phụ lục B, Bảng B1, trang 65
Trong lịch sử, viện trợ của Hoa Kỳ về nước đã tiếp cận gần hơn những tranh cãi về cung và
cầu. Bản mô tả của USAID về sự phát triển các hoạt động liên quan đến nước theo khá sát sự
dịch chuyển của những luồng tư tưởng về nước: nhấn mạnh vào các dự án cơ sở hạ tầng trong
những năm 1960; quan tâm nhiều hơn đến nước uống, vệ sinh, và y tế trong những năm 1970;
nhấn mạnh vào kiểm soát ô nhiễm trong những năm 1980; và tập trung vào quản lý nhu cầu
về nước trong những năm 1990 (USAID, n.d.d). Tuy nhiên, trong thực tế, chỉ một số ít các
khu vực nhận được nhữ sự hỗ trợ này.

Như trong bảng 1, phần lớn nguồn vốn trong những năm gần đều được đầu tư vào cho các
mục đích cấp nước, vệ sinh môi trường, và quản lý nước thải (66% cho giai đoạn 2002-2006).
Quỹ nước cũng theo dòng chảy chung cho những ưu tiên chiến lược của Hoa Kỳ. Bốn quốc
gia dẫn đầu về nhận viện trợ là Sudan, Afghanistan, Iraq, Palestine, chiếm 41% viện trợ về
nước của Hoa Kỳ trong năm tài chính 2005 (Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, 2006, trang 67-71). Năm
2003, một loại hình viện trợ về nước, nhắm vào một khu vực cụ thể là cung cấp nước cho Bờ
Tây dải Gaza – chiếm 1/3 (32,8%) viện trợ liên quan đến nước của Hòa Kỳ (USAID, 2003).
Cam kết về pháp lý và chính sách gần đây đã tăng cường nhấn mạnh vào vấn đề cung cấp
nước. Tại Hội nghị thượng đỉnh Johannesburg năm 2002, Hoa Kỳ cam kết viện trợ
$970,000,000 trong hơn 3 năm để "tiếp cận nước sạch và dịch vụ vệ sinh" (510 triệu USD),
"cải thiện quản lý lưu vực" (400 triệu USD), và "tăng sức sản xuất của nước" (60 triệu USD)
(USAID, 2003).
Các cam kết này đặt ra câu hỏi có hay không những nguồn viện trợ mới sẽ vượt xa mức hiện
tại hay chỉ đơn giản là các quỹ đóng gói mà đã được ấn định như là một phần của chính sách
ngoại giao Bắc-Nam (Najam, 2005). Sự tăng lên đáng kể trong viện trợ nước đã được ghi
nhận trong năm tài chính 2003 và 2004. Tuy nhiên, sự gia tăng trong viện trợ về nước của
Hoa Kỳ trong suốt 3 năm tiếp theo, lấy mốc từ năm 2002, là khoảng 467,000,000 USD (bảng
1), ít hơn một nửa của cam kết Johannesburg. Trong năm 2005 và 2006, các quỹ giảm xuống
dưới mức nền của cam kết Johannesburg.
Gần đây hơn, trong năm 2005, Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua “Đạo luật Nghèo đói”, mà trong
đó việc thúc đẩy tiếp cận nước sạch và vệ sinh môi trường cho các nước đang phát triển trở
thành một mục tiêu chính sách cụ thể của Hoa Kỳ trong chương trình trợ giúp nước ngoài (Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ, n.d.). Quốc hội đã cáo buộc của chính quyền Bush không thực hiện theo
7

yêu cầu hành động, viện trợ về nước thấp hơn mức cam kết, và “lái” viện trợ nước vào Iraq và
Afghanistan (Phát ngôn viên Hoa Kỳ, 2007).
Chuyển từ các mức trợ cấp sang định hướng có tính khuôn mẫu trong đó các sáng kiến cấp
vốn được thúc đẩy, chúng ta thấy chính sách về nước của Hoa Kỳ tại nước ngoài là sự chống
chéo mà kết quả là các viện trợ phát triển tái định hình hoạt động bao quát hơn trong những

năm 1990, với điểm nhấn về tư nhân hóa, bãi bỏ bớt các quy định, tự do hóa thương mại, tăng
cường cạnh tranh, cắt giảm chi tiêu chính phủ, và nhìn chung làm giảm vai trò của các tiểu
bang (Heynen, McCarthy, Prudham, & Robbins, 2007). Ví dụ như ở Châu Á, USAID đã nêu
bật sáng kiến "sinh thái châu Á" (Eco Asia), trong đó cố gắng tìm kiếm một mô hình kinh
doanh tài chính bền vững về mặt vệ sinh môi trường dựa trên giá trị phục hồi thông qua việc
tăng phí người sử dụng. Năm 2006, trong báo cáo với Quốc hội của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ
yêu cầu về nước đối với Đạo luật Nghèo đói đã xác định những cải cách then chốt cho ngành
nước ở châu Á như hợp tác, thực thi hiệu quả các hợp đồng quản lý và các khung quy định,
siết chặc các quy định kinh tế, tạo các điển hình chuẩn, và khuyến khích sự tham gia của các
thành phần cá thể (Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, 2006, trang 87-88). Một xu hướng khác trong các
sáng kiến USAID mà phản ánh vai trò của kinh tế tự do hóa mà nổi lên là "quan hệ đối tác
công-tư". Trong số những ưu tiên chiến lược của USAID đối với Châu Phi có một số sáng
kiến thực sự: ví dụ như liên quan đến công ty Coca-Cola (do Coke đã từng bị phê phán về các
hoạt động liên quan đến nước của nó ở Ấn Độ và các nơi khác, và vụ việc này đang thúc đẩy
sự tẩy chay ở một số nước).
Cả sự miễn cưỡng để mở rộng nguồn tài trợ và sự đảo lộn của chính sách tự do hóa kinh tế
đều có thể thấy được trong vị trí của Hoa Kỳ đối với sáng kiến toàn cầu quan trọng nhất về
nước cho thế giới nghèo trong Mục tiêu Thiên niên kỷ của LHQ. Như đã thảo luận ở phần
trước, nước và vệ sinh môi trường là một nét nổi bật trong các mục tiêu Thiên niên kỷ. Hoa
Kỳ đã phản đối vào những phút cuối cùng trước khi đi đến thỏa thuận, và đẩy cuộc đàm phán
vào tình trạng hỗn loạn. Nhiều người đã phải làm việc với các chương trình cải cách hành
chính của LHQ đang được thương lượng tại thời điểm đó, nhưng một điểm quan trọng đó là
kết luận về cam kết dài hạn bởi các quốc gia tài trợ để cung cấp 0,7% tổng sản phẩm quốc nội
cho mục đích viện trợ (một mục tiêu mà chưa bao giờ Hoa Kỳ tiến đến gần). Theo Jeffrey D.
Sachs, một cố vấn của Tổng thư ký Kofi Annan trong chương trình MDG, "Hoa Kỳ đến từ
một vài ngày trước cơ bản để cố gắng rút ruột tài liệu này. Mục đích của họ là rõ ràng: để cố
gắng loại bỏ sức đẩy phía sau MDG và để luồn lách thoát khỏi những cam kết mà họ đã ký
kết" (Hoge, 2005). Hoa Kỳ cũng phản đối việc sử dụng thuật ngữ “các mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ” (millennium develop goals), và cáo buộc rằng các cam kết cụ thể và thời gian
biểu được xác định bởi văn phòng Tổng Bí thư LHQ trong năm 2001 không phản ánh được sự

đồng thuận của các nước thành viên LHQ tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ năm 2000
(Sứ mệnh của Hoa Kỳ đối với LHQ, 2005). Thêm một lần nữa, mục tiêu viện trợ 0,7% lại gặp
vấn đề. Sự phản đối này đã được giảm bớt đi trong thỏa hiệp cuối cùng, nhưng sau đó lại bùng
lên vào năm 2005 khi người đại diện mới của Hoa Kỳ - John Bolton đến với LHQ.
Ngân hàng thế giới và kinh tế tự do hóa nguồn nước
Tổng số tiền viện trợ nước ngoài về nước thông qua các chương trình USAID so sánh với
Ngân hàng Thế giới cho vay trong lĩnh vực liên quan đến nước, có tổng cộng khoảng 1,5 tỷ
cho cấp nước và vệ sinh môi trường trong năm tài chính 2006. Khoản vay nợ liên quan đến
8

nước (bao gồm không chỉ cung cấp nước và vệ sinh môi trường, mà còn là phát triển thủy
điện, thủy lợi, và quản lý tài nguyên nước) chiếm đến 16% khoản cho vay của Ngân hàng Thế
giới trong giai đoạn 1993-2002 (Ngân hàng Thế giới, 2004). Hoa Kỳ có 16,39% số cổ phiếu
của Ngân hàng Thế giới và 13,39% của Hiệp hội Phát triển Quốc tế (bộ phận xúc tiến cho các
khoản vay bao cấp và tài trợ của ngân hàng cho các nước đặc biệt nghèo). Điều này cho thấy
tầm ảnh hưởng của Hoa Kỳ đối với các khoản vay nợ Ngân hàng Thế giới thông qua một
trong những cơ chế quan trọng nhất đó là Hoa Kỳ có thể quyết định các giới hạn và điều kiện
cho các chương trình phát triển có liên quan đến nước.
Trong lịch sử, những khoản vay nợ của Ngân hàng Thế giới liên quan đến nước tập trung vào
cơ sở hạ tầng cấp nước: thủy điện, thủy lợi, và cung cấp nước đô thị. Tuy nhiên, trong những
năm 1990, các ngân hàng đã trở thành một nhân tố hỗ trợ mạnh mẽ cho quá trình kinh tế tự do
hóa nguồn nước - việc sử dụng các gói điều chỉnh cơ cấu và các hình thức khác cho vay có
điều kiện khác nhằm khuyến khích quá trình thị trường hóa nguồn nước và tư nhân hoá các
dịch vụ liên quan đến nước. Chiến lược về nước hiện tại của các ngân hàng là gia tăng sự hấp
dẫn thu hút đầu tư tư nhân, nâng cao thu hồi chi phí, đẩy mạnh phân bổ nguồn lực hiệu quả,
và tăng cường quyền sở hữu đối với nước (Ngân hàng Thế giới, 2003), tất cả các chủ đề về
tiếp cận thị trường hóa/tư nhân hóa.
Khả năng thực thi của các sáng kiến tư nhân hóa nguồn nước đã gây ra nhiều tranh cãi. Theo
UNDP (2006),
một số chương trình tư nhân hoá có kết quả tích cực. Tuy nhiên, số liệu thống kê lại là

không đáng khích lệ. Từ Argentina tới Bolivia, và từ Phillipin sang Hoa Kỳ, sức
thuyết phục mà trong đó thành phần tư nhân mang đến một “viên đạn ma thuật" đối
với việc tạo ra tính công bằng và hiệu quả cần thiết để đẩy nhanh tiến trình mang nước
đến cho tất cả mọi người đã được chứng minh là đặt sai chỗ. Những thất bại trong quá
khứ về nhượng quyền nước đã không cung cấp bất cứ bằng chứng nào cho thấy vai trò
của thành phần tư nhân, nhưng nó đã chỉ ra sự cần thiết về cảnh báo, quy định và cam
kết công bằng trong quan hệ đối tác công-tư nhân. (trang 10).
Một báo cáo từ WaterAid & Tearfund (2003), một tổ chức phi chính phủ về dịch vụ giao hàng
của Anh (không phải là một nhà phê bình cực đoan về tư nhân hoá nguồn nước), có kết luận
tương tự trong đánh giá những kinh nghiệm của mình:
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng chính sách về sự tham gia của thành phần tư
nhân (PSP) không giải quyết toàn diện những nguyên nhân tiềm ẩn về sự thất bại
trong sử dụng nước để cung cấp cho người nghèo. Trong bốn lĩnh vực chính: năng lực
xây dựng, sự tham gia của cộng đồng, tài chính, và cải cách thể chế, những vấn đề lớn
nhất vẫn còn tồn cho thấy có lẽ các thành phần tư nhân đa quốc gia đang không đóng
bất kỳ vai trò quan trọng nào trong việc đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên
kỷ (trang 5).
Việc đẩy mạnh tư nhân hóa đã vấp phải những phản kháng mạnh mẽ từ các nhóm phong trào
xã hội, các tổ chức cộng đồng, các công đoàn lao động, và nhóm ủng hộ nhân quyền. Không
có sự nhiệt tình tham gia từ các doanh nghiệp đa quốc gia; việc thu hút các công ty tư nhân
thường đòi hỏi phải bảo đảm tỷ lệ hoàn vốn, rủi ro bảo hộ, các biện pháp khuyến khích tốn
9

kém khác. Đáp lại, Ngân hàng Thế giới và các nhóm ủng hộ tư nhân hóa khác trong những
năm gần đây đã chuyển sang một sự chú trọng hơn vào "quan hệ đối tác công-tư". Tuy nhiên,
sự thay đổi trong thực tiễn vẫn là không rõ ràng: đánh giá bởi các tổ chức chức phi chính phủ
Public Citizen của Hoa Kỳ tìm ra rằng 56 trên 60 khoản vay nợ về nước của Ngân hàng Thế
giới là trong giai đoạn 2000-2004 với các quy định về việc thúc đẩy tư nhân hoá, trong khi đó
54 / 60 quy định khuyến khích sự phục hồi giá.
Hoa Kỳ thường xuyên bỏ phiếu để ủng hộ các dự án về nước của Ngân hàng Thế giới. Trong

số 53 dự án được xem xét về tài nguyên nước, cung cấp nước và vệ sinh môi trường trong giai
đoạn 2005 - 2006, Hoa Kỳ đã bỏ phiếu "không" vào ba dự án và bỏ phiếu trắng cho hai dựa
án khác, tất cả vì lý do chính trị mà không hề liên quan đến nội dung dự án. Hoa Kỳ phản đối
hai khoản vay cho Iran dựa vào các dự luật về chống khủng bố đã được thông qua trong Quốc
hội trước đó và một khoản cho vay khác với Bosnia và Herzegovina do không dẫn độ tội
phạm chiến tranh. Hai phiếu trống đã được dành cho các dự án do vin vào việc không đáp ứng
các nhu cầu cơ bản của con người, và khởi sự cho một quá trình ủy nhiệm lập pháp khác.
Các con đập lớn gây tranh cãi và Uỷ ban Thế giới về Đập (WCD)
Cùng với các câu hỏi về quá trình tư nhân hoá, có lẽ vấn đề bất đồng lớn nhất trong chính
sách nước quốc tế là vai trò của các đập nước lớn và các dự án cơ sở hạ tầng về nước. Các dự
án này là nhân tố chính của chiến lược phát triển quốc gia ở các nước hợp chủng như Hoa Kỳ,
Liên Xô, Trung Quốc, Brazil và Ấn Độ. Những nước này cũng đã trải qua sự chỉ trích dữ dội
từ một mạng lưới toàn cầu cũng ngày càng được liên kết tốt hơn của các nhà hoạt động nhân
quyền, các nhà môi trường, các nhóm cộng đồng, và các nhóm chủ trương phát triển cơ sở.
Trong những năm 1990, các nhóm này đã triển khai những kháng nghị ngày một sắc sảo hơn,
đồng thời nhắm đến các dự án riêng rẽ, các nguồn tài chính quốc tế hỗ trợ cho họ, và con
đường trí tuệ để hợp pháp hóa họ (Conca, 2006; Keck & Sikkink, 1998; Khagram, 2004).
Những áp lực làm suy yếu năng lực của các chính phủ và các đồng minh quốc tế của họ trong
việc biện minh, cấp kinh phí, và xây dựng đập nước đến mức mà những người ủng hộ đập
nước buộc phải thỏa hiệp với những người chống đối họ.
Kết quả dẫn đến sự ra đời của Uỷ ban Thế giới về Đập (WCD), một sự tập hợp đa phương của
nhiều bên liên quan đã đưa cả những người ủng hộ đập và những người phản đối xây dựng
đập ngồi lại với nhau để có thể trao đổi và thảo luận thẳng thắn hơn (WCD, 2000). Kết quả
của đợt khảo sát trong vòng 2 năm của WCD về kinh nghiệm của quốc tế với các đập lớn
trong đó đã nhấn mạnh đến các vấn đề bất cập của các đập nước, thất bại trong việc xác định
đầy đủ các tác động môi trường của đập nước, và sự thiếu tiếng nói từ các cộng đồng bị ảnh
hưởng (Conca, 2006). Nhân đó, các nhà hoạt động chuyển hướng một phần sang gây sức ép
với các chính phủ để các chính phủ thực thi các khuyến nghị của họ. Đối với các chính phủ tài
trợ, điều này có nghĩa là sử dụng các nguyên tắc của WCD như là một tấm bình phong về hỗ
trợ phát triển và cho các cơ quan xuất khẩu tín dụng.

Giống như hầu hết các nước tài trợ, Hoa Kỳ đã bày tỏ sự ủng hộ đối với các nguyên tắc của
WCD. Các tập đoàn đầu tư tư nhân của Hoa Kỳ ở nước ngoài, đang hỗ trợ đầu tư và bảo hiểm
rủi ro cho các công ty Hoa Kỳ ở nước ngoài, đã kết hợp những “giá trị cốt lõi và ưu tiên chiến
10

lược” của WCD vào các cơ chế sàng lọc của mình trong xem xét hỗ trợ dự án (International
Rivers Network, 2005, trang 8).
Theo các tổ chức phi chính phủ bảo vệ môi trường của Hoa Kỳ, tổ chức mà lâu nay vẫn chỉ
trích việc xây dựng các đập nước lớn và thúc đẩy việc hình thành của WCD, OPIC "sử dụng
các tiêu chuẩn khắt khe hơn so với những tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới để hướng dẫn
hỗ trợ cho các đập lớn và đảm bảo bảo tồn đa dạng sinh học" (Lawrence, 2005). Các Ngân
hàng Xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ (nd) trích dẫn các nguyên tắc của WCD như là tiêu chuẩn
có liên quan trong quá trình sàng lọc dự án trong khi kiểm tra về tính thực tiễn của dự án:
Ex-Im Bank sẽ đánh giá các dự án thủy điện và tài nguyên nước theo hướng phản biện
với các nước triển khai dự án và các nguyên tắc quốc tế có khả năng áp dụng cũng
giống như là những nguyên tắc của Ngân hàng Thế giới. Các thành viên tham gia dự
án cũng được khuyến khích để xác định, để tăng tính thực tế, các nguyên tắc có liên
quan có trong báo cáo tổng kết của Ủy ban Thế giới về đập nước.
USAID cũng đã chấp nhận các nguyên tắc của WCD và đã chỉ trích sự miễn cưỡng của các
ngân hàng phát triển đa phương (MDBs) trong việc thực thi một cách đầy đủ và rứt khoát.
Trong đánh giá năm 2001 về các khoản vay MDB mà nổi lên là những mối quan ngại về môi
trường, USAID đã nhấn mạnh đến một khoản vay thủy điện của Hiệp hội phát triển quốc tế /
Tập đoàn Tài chính Quốc tế đối với Uganda cho một loạt các đập nước. Hướng tới sự cần
thiết phải đánh giá tốt hơn về môi trường, những mối quan ngại về tác động tích lũy của các
đập nước, và tác động đến các cộng đồng chịu ảnh hưởng, USAID (nda) đúc kết rằng:
Những khoản cho vay [từ Ngân hàng Thế giới] trong bối cảnh này cần thiết phải xem
xét đến những phát hiện của Ủy ban Thế giới về Đập; tuy nhiên, các ngân hàng có vẻ
chậm làm điều đó trong bất kỳ cách công khai hoặc đúng nguyên tắc nào, đối với cả
dự án này và các dự án khác nói chung.
Tương tự như vậy, về sự cho vay của Ngân hàng Phát triển Interamerican (IDB), USAID đã

chỉ ra rằng hỗ trợ của Hoa Kỳ về khoản cho vay đa phương cho các dự án thuỷ điện là không
chắc chắn nếu dựa trên việc xem xét các nguyên tắc của WCD:
Theo mô tả của IDB về dự án này, Brazil đã có kế hoạch 10 năm cho việc xây dựng
đập mà bắt đầu từ cuối những năm 1990. Nó có thể rất hữu ích đối với các ngân hàng
phát triển đa phương và các cơ quan Hoa Kỳ để xem xét lại những kế hoạch đó - và
những tư tưởng hiện tại của Brazil – dựa trên những kết quả xác minh trong báo cáo
của Ủy ban Thế giới về Đập, và để định hướng cho những xét duyệt của chúng tôi về
hỗ trợ của MDB cho các dự án đó (USAID, n.d.b)
Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã không sử dụng quyền bỏ phiếu của mình tại các ngân hàng đa phương
để thúc đẩy những thay đổi chính sách hoặc đình chỉ các dự án đập gây tranh cãi. Trong tháng
3 năm 2005, Hoa Kỳ bỏ phiếu trắng đối với dự án gây tranh cãi Nam Theun 2 tại Lào mà đã
được phê duyệt bởi Ban giám đốc ngân hàng.
Tháng tư năm 2007, Hoa Kỳ đã bỏ phiếu để ủng hộ một khoản cho vay cho dự án thuỷ điện
Bujagali gây tranh cãi tại Uganda, và dự án cuối cùng cũng đã được phê duyệt.
11

Nhu cầu sử dụng nước phải được coi như một “nhân quyền”
Sự bất đồng giữa chính sách của Hoa Kỳ và thế giới có lẽ xuất phát từ ý tưởng mà nhu cầu sử
dụng nước của cư dân phải được thừa nhận như một “nhân quyền”. Những người ủng hộ cái
mà chúng ta tạm gọi là “nhân quyền về nước” khẳng định rằng đây là điều quan trọng không
chỉ để xúc tác hành động của chính phủ mà còn để tạo cơ hội cho các công dân có thể yêu
cầu, đòi hỏi khi họ không có đủ nước đảm bảo chất lượng để dùng.
Gleick (1999) đã có một nền tảng lâu đời về luật pháp, hiệp ước, và các tuyên bố quốc tế đối
với việc công nhận quyền đòi hỏi những yêu cầu về nguồn nước của cư dân - mặc dù về mặt
lịch sử, cái quyền đó đã được thể hiện trong luật pháp quốc tế chỉ đơn thuần như là "một phần
ẩn trong quyền được đòi hỏi về lương thực, chăm sóc sức khỏe, và cuộc sống hạnh phúc"
(trang 490). Công ước 1986 về Quyền trẻ em là văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên thể hiện
quyền của con người đối với nhu cầu về nước rõ ràng (Calaguas, 1999). Gần đây, mạng lưới
ủng hộ quốc tế và các phong trào xã hội đã được tiếp sức cho chiến dịch đòi hỏi quyền về
nước như là một quyền cơ bản của con người (bao gồm cả các hành động chống xây đập

nước, chống tư hữu hóa đã được thảo luận trước đó).
Chìa khóa quan trong cho chiến thắng của các cuộc vận động năm 2002 khi Ủy ban LHQ về
kinh tế, xã hội và văn hóa phát hành Tổng luận 15 xác định các quyền của con người đối với
nước, cũng như nghĩa vụ của nhà nước về tôn trọng, bảo vệ, và phải thực hiện quyền đó (Uỷ
ban Liên hợp quốc về kinh tế, xã hội và văn hóa quyền, 2002). Ba khía cạnh của Tổng luận 15
là đáng chú ý là: Thứ nhất, nó bao gồm một ý tưởng được bảo vệ bởi các nhà hoạt động
nhưng bị phản đối bởi Hoa Kỳ - đó là việc ban đầu chỉ coi nước như là một mặt hàng kinh tế,
do đó đã nảy sinh sự căng thẳng khi chuyển sang thừa nhận nhu cầu về nước như là một
quyền xã hội. Thứ hai, nó được ra đời trong bối cảnh của các quyền Quốc tế về kinh tế, xã
hội, văn hóa mà Hoa Kỳ đã không phê chuẩn. Thứ ba, ngược lại với sự nhấn mạnh của Hoa
Kỳ về quyền chính trị như là chìa khóa để thực hiện an sinh xã hội, nó đã nhấn mạnh một
quyền con người đối với nước là "không thể thiếu để dẫn đến một chân giá trị của cuộc sống.
Đó là một điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện các quyền khác của con người "(UN Ủy ban
về kinh tế, xã hội và văn hóa quyền, 2002, trang. 1, đoạn 1).
Kể từ khi phát hành Tổng luận 15, chiến dịch biến mục tiêu “nhân quyền về nước” đã chuyển
biến theo các hướng khác nhau. Tại Diễn đàn Nước Thế giới lần thứ tư (năm 2006), một liên
minh rộng lớn của các NGO đã kêu gọi các chính phủ thực thi các bước đi cụ thể tiến gần hơn
đến “nhân quyền nước”, bao gồm cả thông qua một nghị quyết trong Hội đồng Nhân quyền
LHQ; thiết lập một cơ chế giám sát quốc tế, ví dụ như báo cáo viên đặc biệt của LHQ; và đưa
các luật quốc gia vào Tổng luận số 15 (Heinrich Boll Foundation, n.d.).
Trong vài năm qua, nhiều chính phủ châu Âu đã công nhận một cách rõ ràng về quyền con
người đối với tài nguyên nước, bao gồm Bỉ, Hà Lan, và Anh. Trong năm 2006, một liên minh
rộng lớn các nước đang phát triển và các quốc gia châu Âu đã đưa ra một nghị quyết tại Hội
đồng Nhân quyền LHQ để tham vấn (Barlow, 2006; Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc,
2006).
Trong tháng 3 năm 2008, hội đồng đã thông qua một nghị quyết để bổ nhiệm một chuyên gia
độc lập về "bổn phận nhân quyền liên quan đến việc tiếp cận với nước sạch và vệ sinh môi
12

trường" để chuẩn bị một bản tóm tắt hành động và làm rõ bổn phận về nhân quyền của các

quốc gia (Hội đồng Nhân quyền LHQ, 2008, trang 3). Một chiến dịch cũng đã xuất hiện để
“tiếp sức” cho một công ước LHQ về nhân quyền nước (Barlow, 2006; Green Cross
International, 2005).
Hoa Kỳ đã luôn thể hiện những nỗ lực phản đối đối với quá trình điều lệ hóa hoặc chính thức
hóa nhân quyền nước, khi lập luận rằng các quyền dân sự và chính trị củng cố quá trình tiếp
cận hiệu quả đối với tài nguyên nước. Ví dụ, USAID xác định "dân chủ và nhân quyền" là
một trong những mục tiêu chiến lược của tổ chức này. Trong thực tế, điều này có nghĩa là
quyền lợi chính trị, luật pháp, và các tổ chức dân chủ. Điều thú vị là một trong những hình
ảnh trên trang web của USAID về dân chủ và quyền con người cho thấy trẻ em chơi đùa dưới
vòi nước chảy. "Sự phân quyền dân chủ và tham gia của công dân khuyến khích cộng đồng
địa phương lập kế hoạch và quản lý sự tiếp cận các dịch vụ cơ bản của chính họ" (USAID,
NDC). Nói cách khác, con đường dẫn đến nhân quyền về nước không phải là sự thừa nhận
như vậy mà đúng hơn là thông qua sự tham gia chính trị để đưa đến những lựa chọn chọn lọc
và thành quả xã hội tốt hơn. Một lần nữa, điều này đi ngược lại những quan điểm của LHQ
như đã thảo luận, trong đó nhấn mạnh vai trò nền tảng của các quyền kinh tế xã hội như một
điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa các quyền khác.
Hoa Kỳ đã rất tích cực trong việc chống lại sự công nhận chính thức đối với nước như là các
quyền về kinh tế, xã hội, hay văn hóa. Hoa Kỳ phản đối tham chiếu đến quyền về nước trong
một nghị quyết năm 2005 của Ủy ban Nhân quyền kêu gọi các tiểu bang để "mang lại hiệu lực
đầy đủ về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá". Để giải thích cho việc bỏ phiếu trắng của
mình, đại diện Hoa Kỳ đã nhấn mạnh ba mối quan ngại: sự nhấn mạnh thái quá lên các mục
tiêu kinh tế nhắm vào các chi phí về quyền dân sự và chính trị, những mối nguy hiểm của việc
tạo ra một khuôn khổ hạn chế mà không cho phép các quốc gia hiện thực hóa các quyền bằng
các điều kiện khác nhau, và sự thiếu vắng của các uỷ ban thường trực của LHQ để ban hành
các ý kiến pháp lý có căn cứ (LHQ, 2005 ). Hoa Kỳ đã không phê chuẩn Công ước Quốc tế về
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, và cũng không phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em
(Công ước nhân quyền đầu tiên có quy định rõ ràng về quyền đối với nhu cầu về nước).
Gleick (2003) cho biết các thành viên của phái đoàn Hoa Kỳ đã cố gắng loại bỏ những ý kiến
về việc xem xét nhân quyền về nước bằng những phát biểu tại một số hội nghị quốc tế về
nước gần đây.

Trong một nỗ lực để thay đổi chính sách của Hoa Kỳ, đại diện dân chủ Quốc hội Jan
Schakowsky đã giới thiệu về nghị quyết "Nước cho Thế giới" trong năm 2005. Dự luật này
khẳng định sự tin tưởng công chúng và nhân quyền về nước, phản đối việc đối xử với nguồn
nước như là một thứ hàng hóa tư nhân, và kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ đưa các nguyên tắc của
dự luật này vào chính sách phát triển. Dự luật này không nhận được sự ủng hộ từ đảng Cộng
hòa vốn chiếm ưu thế tại Quốc hội (năm 2005-2006) và đã không được giới thiệu lại kể từ khi
đảng Cộng hòa tiếp quản Quốc hội.
Sự chia sẻ quốc tế về các lưu vực sông
Một phần khác về xây dựng tổ chức có liên quan đến sự chia sẻ các lưu vực sông, mà thường
là các trở ngại cho các hợp tác quốc tế. Khi các lưu vực chia sẻ được liên kết bởi các mối
quan hệ sinh thái phức tạp, cần thiết phải có sự hợp tác để có thể giải quyết những vấn đề nảy
13

sinh một cách hiệu quả. Tuy nhiên, thường thì các lưu vực chia sẻ cũng tạo ra mối quan hệ
mất cân đối thượng nguồn/hạ lưu mà có thể làm tăng thêm trở ngại cho những hợp tác phát
triển.
Việc thành lập các nguyên tắc khung và xác định những hành động để quản lưu vực sông chia
sẻ là một thử thách khó khăn cho cộng đồng quốc tế. Hội đồng luật pháp quốc tế của LHQ đã
phải cân nhắc trong hơn hai thập kỷ trước khi viết dự thảo báo cáo cho một công ước khung
về những dòng sông quốc tế để đệ trình lên Đại hội đồng. Các bài viết đã tạo ra nền tảng cho
Công ước về Luật Sử dụng vô hướng (non-navigation) của các dòng sông quốc tế (Liên Hiệp
Quốc, 1997), mà được Đại hội đồng phê duyệt vào năm 1997. Tuy nhiên, công ước này đã
không nhận được đủ tỷ lệ ủng hộ để phê chuẩn có hiệu lực.
Bảng 2 liệt kê các nguyên tắc chính của Công ước Watercourses. Mục tiêu của nó là tạo ra
một khung pháp lý cho việc đàm phán về các thỏa thuận lưu vực cụ thể, nhưng sự lan tỏa của
những nguyên tắc này đến cấp lưu vực là một quá trình khó khăn (Conca, Wu, & Mei, 2006).
Tuy nhiên, công ước này đã cung cấp một thước đo hữu dụng đối với các xu hướng nổi lên về
luật nước quốc tế: nhấn mạnh nhiều hơn vào việc phối hợp, chia sẻ thông tin, và giải quyết
xung đột; tính nhạy cảm cao đối với bảo vệ môi trường và nhu cầu nước nội dòng; và nhấn
mạnh hơn không chỉ đối với các quyền về nước của các quốc gia mà còn là trách nhiệm, đặc

biệt đối với các quốc gia phía thượng nguồn, để tránh thiệt hại cho láng giềng phía hạ lưu của
họ.
Hoa Kỳ đã sử dụng những nguyên tắc này đến đâu khi đối xử với những người láng giềng của
họ là Canada và Mexico? Cơ sở dữ liệu về tranh chấp nước ngọt xuyên biên giới đã liệt kê
danh sách 36 dòng sông quốc tế của Hoa Kỳ chung với Canada trong giai đoạn 1909-1989 và
23 với Mehico trong giai đoạn 1889-1994 (Transboundary Freshwater Dispute Database,
n.d.). Với một số lượng lớn các thỏa thuận, phân tích nội dung của những thỏa thuận trên là
ngoài tầm với của bài viết này. Tuy nhiên, Conca và nnk (2006) đã tiến hành các phân tích
một loạt các báo cáo về lưu vực sông quốc tế trong giai đoạn 1980-2000, bao gồm năm báo
cáo gần đây nhất trong cơ sở dữ liệu của Hoa Kỳ, và tìm thấy các nguyên tắc LHQ có mặt rất
ít trong các báo cáo Bắc Mỹ (trường hợp điển hình cho một số khu vực trên thế giới).
Ngoài việc đàm phán hiệp định quốc tế, Hoa Kỳ đã xây dựng các tổ chức hợp tác và quản lý
với những người láng giếng Mehico và Canada, điều này có nghĩa là không phải chỉ có hiệp
ước nơi duy nhất để có thể tìm thấy một cam kết về quản trị chia sẻ lưu vực sông. Năm 1909,
Hoa Kỳ và Canada đã ký Hiệp ước “ranh giới nước” hình thành Ủy ban phối hợp quốc tế
(IJC) tạo ra một cơ chế để giải quyết tranh chấp về nguồn nước giữa hai nước. Năm 1944,
Hoa Kỳ và Mexico cùng xây dựng Ủy ban quốc tế về ranh giới nước (IBWC). Theo Stephen
Mumme và Pamela Duncan (1997-1998), hai Ủy ban này, với một ngoại lệ quan trọng, đã giải
quyết các vấn đề môi trường dựa trên mối quan hệ bình đẳng ngang hàng. Đối với IJC của
Hoa Hỳ - Canada, các tác giả đã cho rằng mặc dù gây dựng được tiếng tăm như là một mô
hình giải quyết tranh chấp và tùy biến theo thời gian đối với các vấn đề mới như quản lý chất
lượng môi trường mới phát sinh, IJC đã phải chịu đựng "rất nhiều hạn chế và miễn cưỡng
ngày một tăng của các thành viên chính phủ trong việc viện dẫn nó để giải quyết tranh chấp
về các vấn đề môi trường quan trọng" (Mumme & Duncan, 1997-1998, trang 43). Về phần
mình, IBWC Hoa Kỳ-Mexico "đã hoạt động với những thẩm quyền thậm chí còn hạn hẹp hơn
trong công tác bảo vệ môi trường" và hoạt động IBWC bị hạn chế bởi những ủy nhiệm của nó
14

và sự tập trung có tính truyền thống vào các vấn đề kiểm soát lũ lụt, thủy điện, vệ sinh môi
trường, và tích trữ nước (Mumme & Duncan, 1997-1998, trang 43).

Bảng 2. Các nguyên tắc phối hợp quản lý nước trong Công ước Liên Hợp Quốc về các thủy
vực chảy (Watercourses)
 Mỗi tiểu quốc gia có thủy vực chảy được quyền tham gia các cuộc đàm phán đối với
toàn bộ thủy vực và tư vấn về những thỏa thuận ít gây ảnh hưởng hơn đến quốc gia đó
(Điều 4).
 Các quốc gia phải thực hiện "sử dụng công bằng và hợp lý" đối với các thủy vực chảy
quốc tế trong phạm vi lãnh thổ của họ (Điều 5).
 Các quốc gia có nghĩa vụ không gây "tác động có hại" đối với các quốc chia sẻ thủy
vực chảy khác (Điều 7).
 Các quốc gia có nghĩa vụ phải hợp tác trên cơ sở "bình đẳng chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, cùng có lợi và tin tưởng lẫn nhau" (Điều 8).
 Các quốc gia chia sẻ thủy vực chảy phải thường xuyên trao đổi thông tin và dữ liệu
(Điều 9).
 Các quốc gia được yêu cầu phải tham khảo ý kiến của các quốc gia chung thủy vực
chảy khác về những tác động của bất kỳ của “những tính toán có kế hoạch" (Điều 11).
 Các quốc gia phải cung cấp thông báo trước về bất cứ "những tính toán có kế hoạch
mà có thể có tác động có hại" đối với các quốc gia chia sẻ thủy vực chảy khác (Điều
12).
 Những nghĩa vụ về môi trường được xây dựng để bảo vệ và bảo tồn hệ sinh thái, kiểm
soát ô nhiễm, ngăn ngừa sự xuất hiện của những loài lạ, và bảo vệ môi trường biển
(Điều 20-23).
 Các quốc gia có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp một cách hòa bình; công ước này xác
nhận các nguyên tác phân xử, trọng tài và hòa giải, và xác định các thủ tục đối với các
ủy ban đi tìm hiểu thực tế (Điều 33).
Nguồn: Conca, Wu và Mei (2006)
Những yếu kém trong IBWC là một nguyên nhân quan trọng thúc đẩy sự ra đời của một tổ
chức môi trường mới, Uỷ ban Hợp tác môi trường (CEC), trong bối cảnh của Hiệp định
Thương mại Tự do Bắc Mỹ. Sự ủy thác của CEC bao gồm các vấn đề chất lượng nước, nhưng
những văn kiện này không phải chỉ chuyên biệt cho các vấn đề về nước.
Trường hợp ngoại lệ mà Mumme và Duncan (1997-1998) đề cập là hợp tác của Hoa Kỳ-

Canada đối với Great Lakes. Kể từ những năm 1970, nguyên tắc cho việc quản lý nguồn nước
chia sẻ giữa hai nước dựa trên Hiệp định Chất lượng nước Great Lakes ký năm 1972. Mục
đích của thỏa hiệp, được gia hạn vào năm 1978, là "để phục hồi và duy trì tính toàn vẹn về
hóa học, vật lý và sinh học trong hệ sinh thái Great Lakes" (Cơ quan Bảo vệ môi trường Mỹ,
nd). IJC thường được trích dẫn như là một mô hình mà với nó hai nước đã đạt được một số
thành công kể từ khi có Hiệp định vào năm 1972. Tuy nhiên, nhìn chung hai nước đã không
sử dụng IJC đối với phần nào các công việc phối hợp quản lý các thủy vực chảy trong Công
ước Liên Hợp Quốc. Trong tháng mười 2006, IJC đã ban hành một báo cáo kêu gọi một thỏa
thuận mới (IJC, 2006). Các đề xuất cải cách bao gồm một kế hoạch ủy thác hành động song
phương, sự hợp tác rõ ràng về các mục tiêu bảo vệ cùng với các mục tiêu hiện tại của việc
phục hồi và bảo tồn, tiếp cận hệ sinh thái như một đơn vị cơ bản, và một diễn đàn tổ chức hai
năm một lần về quản lý IJC cho các bên liên quan. Không một đề xuất nào trong số này là phù
15

hợp hoàn toàn với Công ước Liên Hợp Quốc về thủy vực chảy trong bối cảnh của thỏa thuận
hiện hành.
Cuối cùng, các xu hướng trong pháp luật quốc tế về thủy vực chảy được quan tâm không đơn
giản là những gì liên quan đến các cam kết của Hoa Kỳ và các hiệp ước quốc tế mà còn cho
các dòng sông xuyên biên giới trong nội địa Hoa Kỳ. Cấu trúc của hệ thống liên bang Mỹ, kết
hợp với số lượng lớn các con sông mà chảy qua các bang của quốc gia có kích cỡ lục địa này,
tạo ra nhiều thách thức trong phối hợp về chính sách xuyên biên giới. Vì thế, những hành
động trong nước của Hoa Kỳ về nước xuyên biên giới có thể được so sánh với các tiêu chuẩn
quốc tế và “best practices”. Theo đề xuất trước đó, vai trò ngày càng tăng của các mạng lưới
xuyên quốc gia liên kết các thành viên tư pháp và lập pháp (Slaughter, 2004) làm cho các hoạt
động trong nước trở thành một phần quan trọng của lãnh đạo quốc tế, không chỉ đơn giản là vì
lợi ích của sự nhất quán hay để tránh những phí tổn của những vấn đề về đạo đức giả, mà còn
để cung cấp nguyên liệu sơ khai cho các ý tưởng và kinh nghiệm mà có được thông qua các
mạng lưới chính sách này.
Nếu chúng ta thay sự tập trung từ các hiệp định quốc tế giữa các đơn vị có chủ quyền đối với
các cơ chế về các thủy vực xuyên giới trong một hệ thống các quốc gia lớn hơn, khi đó Công

ước châu Âu năm 1992 về bảo vệ và sử dụng các thủy vực chảy xuyên biên giới và các hồ
quốc tế cung cấp một mốc chuẩn tiên tiến hơn so với Công ước LHQ
7
. Một số quy định của
Công ước châu Âu cũng cho thấy sự ưu việt vượt xa so với Công ước Liên Hợp Quốc: áp
dụng các nguyên tắc quản lý nước ở mức độ trong nước cũng như mức độ xuyên biên giới;
một cách tiếp cận toàn diện đối với các chu trình thủy văn; chú trọng hơn vào các vấn đề môi
trường như phòng chống, kiểm soát, và giảm thiểu ô nhiễm; nguyên tắc phòng ngừa và
nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền; và một sự ủy nhiệm cụ thể hơn cho các ủy ban
lưu vực như là các cơ quan chung của các quốc gia láng giềng (Ban Kinh tế châu Âu LHQ,
nd).
Hệ thống chính trị - pháp lý Hoa Kỳ trên lý thuyết chứa nhiều cơ chế cho việc giải quyết tranh
chấp về các vùng nước chung giữa các tiểu bang của Hoa Kỳ, bao gồm cả các thỏa thuận giữa
các tiểu bang, các quyết định của Tòa án tối cao, và pháp chế của Quốc hội. Theo Clemons
(nd), mối quan hệ giữa các cơ chế trong thực tế là khá “tăm tối”. Quốc hội chỉ sử dụng quyền
lực của mình có hai lần để phân bổ nguồn nước, giữa các tiểu bang California, Arizona,
Nevada và trên sông Colorado vào năm 1928 và giữa bang California và Nevada trên sông
Truckee, sông Carson, và hồ Tahoe trong năm 1990 (Clemons, nd).
Sự thỏa thuận giữa các tiểu bang cũng tương đối hiếm, với 39 biên bản thỏa thuận đạt được
trong suốt khoảng thời gian từ năm 1922 đến năm 1997
8
. Một hạn chế đối với những thỏa
thuận này là chúng phải phải làm rõ rào cản thẩm quyền đa cấp, được quốc hội thông qua,
cũng như là thỏa mãn được các lợi ích của các bang. Theo Clemons (nd),
thẩm quyền của các bang để liên kết với các bang khác đến từ Điều khoản Liên kết
trong Hiến pháp. Các điều khoản liên kết này không bao gồm tất cả các thỏa thuận
giữa các tiểu bang, mà chỉ bao gồm những thỏa thuận mà có thể tăng thêm sự liên kết
quyền lực chính trị các bang mà không tổn hại đến lới ích của quốc gia. Vì vậy, khi
một thỏa thuận giữa các tiểu bang gắn với lợi ích liên bang, các điều khoản liên kết
cần có được sự chuẩn y của Quốc hội. Những tranh chấp giữa các tiểu bang về nguồn

16

nước có liên quan tiềm tàng đến hai lợi ích của liên bang: về dòng chảy định hướng,
quyền lực của liên bang về điều hướng bị ảnh hưởng; trên vùng nước không định
hướng, quyền lực độc quyền của chính phủ liên bang để điều chỉnh thương mại giữa
các tiểu bang trở thành một yếu tố quan trọng. Bởi vì xung đột giữa các tiểu bang về
nguồn nước sẽ ảnh hưởng đến một hoặc cả hai của những lợi ích liên bang, do đó sự
phê chuẩn của quốc hội là cần thiết.
Trong nhiều trường hợp, khi Quốc hội không phê chuẩn và các bang không đồng thuận, Tòa
án tối cao Hoa Kỳ đóng vai trò trong xét xử các tranh chấp giữa các tiểu bang.
Ngoài ra những “tăm tối” về thể chế, nội dung của luật pháp Hoa Kỳ đối với các thủy vực
chảy chung đã không theo kịp với sự tiến triển của các “best practice” quốc tế. Điều này
không phải luôn luôn như vậy, khi Tòa án Tối cao cơ bản đã đẩy luật về nguồn nước của các
tiểu theo một quỹ đạo mà nó đã được dự liệu trước (và truyền cảm hứng) về sự phát triển
trong luật pháp quốc tế. Những chú trọng của Tòa án Tối cao vào "quyền bình đẳng" (chứ
không phải là theo một khuôn khổ các quyền cụ thể nào như là “quyền về nguồn nước trên
lãnh thổ” hay quyền “tư hữu trước”) phản ánh học thuyết sử dụng công bằng mà cho tới gần
đây mới có được vị trí cao nhất trong luật quốc tế về nước (Clemons, nd).
Tuy nhiên, tòa án đã không chuyển biến như mạnh mẽ như luật pháp quốc tế về nước trong
việc làm ôn hòa nguyên tắc về sử dụng công bằng với các nguyên tắc về phòng tránh tác động
có hại. Một học thuyết về sử dụng công bằng có xu hướng ưu tiên các thành phần ở phía
thượng nguồn, đảm bảo cho họ sự chia sẻ công bằng về nước cho các mục đích phát triển.
Học thuyết về phòng tránh các tác động có hại nói chung là ưu ái hơn cho những người láng
giềng ở hạ nguồn, trong đó nó bắt đầu với một quyền để tránh tác động có hại của bên thượng
nguồn của nếu không sử dụng công bằng.
Trong vụ tranh tụng giữa Colorado và New Mexico, tòa án đã tìm ra rằng một sự lệch lạc
trong sử dụng nguồn nước bởi Colorado (bang thượng nguồn) có thể được bù đắp bằng cách
sử dụng hiệu quả hơn ở New Mexico. Điều này nhấn mạnh về trách nhiệm của cả hai bang để
sử dụng tài nguyên một cách khôn ngoan và hiệu quả xoay quanh các vấn đề liệu một sự lệch
lạc ở thượng nguồn liệu có gây thiệt hại đáng kể cho phía hạ nguồn. Nói cách khác, sự chú

trọng trong luật pháp Hoa Kỳ là bình đẳng không phân biệt bất kể vị trí của dòng nước trong
bang, trong khi đó trong luật pháp quốc tế quan tâm hơn đến những nguyên tắc về tác động có
hại mà được có thể thấy sự ưu ái này bằng việc tạo ra một vị trí mạnh mẽ hơn cho các tiểu
bang ở hạ nguồn chứ không phải là một khuôn khổ về sử dụng công bằng nghiêm ngặt.
Chính sách về nước ở Hoa Kỳ
Rõ ràng, một cam kết đối với kinh tế tự do hóa nguồn nước và sự chống đối trong việc công
nhận nước như một quyền kinh tế xã hội là yếu tố quyết định quan trọng trong chính sách
ngoại giao của Hoa Kỳ về nước. Tuy nhiên, một đặc tính quan trọng thứ hai là sự phân mảnh,
tới mức mà không thể có được sự nhất quán trong các phát ngôn về chính sách ngoại giao của
Hoa Kỳ đối với các vấn đề về nước. Điều này khá trái ngược: phụ thuộc vào khía cạnh cụ thể
của chính sách nước, Cơ quan đứng đầu Hoa Kỳ có thể là Ủy ban Bảo vệ Môi trường, Bộ
ngoại giao, USACE, USAID, Ngân hàng Xuất nhập khẩu, hoặc đại diện của Hoa Kỳ tại Quỹ
Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, và các ngân hàng phát triển khu vực. Một báo cáo tóm
17

tắt gần đây của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã xác định 22 cơ quan liên bang và các phòng ban
riêng biệt phụ trách chuyên môn và tham gia trong các vấn đề nước quốc tế (US Department
of State, 2006, Phụ lục A).
Chính sách nước quốc tế của Hoa Kỳ cũng phân mảnh do Hoa Kỳ thiếu một chính sách toàn
diện về nước hay một khuôn khổ về thể chế ở cấp độ trong nước. Theo Gerlak (2006), "không
có một chính sách quốc gia về nước thực sự tại Hoa Kỳ, mà đó chỉ là những chính sách phân
mảnh và chính sách cho việc điều chỉnh các vấn đề khủng hoảng gia tăng. Các mối quan hệ
bang - liên bang là trung tâm của cuộc xung đột này. Một cuộc đấu tranh giữa uy quyền quốc
gia và các địa phương tự chủ bao trùm hầu hết các vấn đề về quản lý nước" (trang 231). Trong
lịch sử, chưa bao giờ có được một khuôn khổ luật pháp quốc gia về nước và điều đó ngày
càng phổ biến trên thế giới. Thay vào đó là sự phân mảnh về chính sách, liên kết vấn đề bị
giảm thiểu hóa, sự chắp vá điều tiết phức tạp, một “mê cung lịch sử” các quyền phân xử về
nước, và thiếu sự hợp tác giữa các tổ chức.
Đã có thời kỳ trong lịch sử Hoa Kỳ khi chính phủ liên bang đã đóng vai trò mạnh mẽ trong
việc kích thích thúc đẩy các hoạt động phát triển liên quan đến nguồn nước - thủy lợi cho

miền Tây nước Mỹ trong thế kỷ 19, thủy điện trong thời kỳ New Deal, và các quy định về
môi trường trong năm 1970 (Worster, 1985). Tuy nhiên, trong những thập niên gần đây xu
hướng trong chính sách về nước của Hoa Kỳ đã có sự phân cấp. Theo Gerlak (2006),
Sự hoạch định chính sách nước đã trở nên rất phân mảnh, với các cơ quan quản lý
nhiều thành phần nhỏ hẹp, từ việc bảo tồn sông đến bảo vệ chất lượng nước, từ thuỷ
điện đến kiểm soát lũ lụt. Một sự thừa nhận ngày càng tăng về các giới hạn của sự
phân mảnh và phương pháp tiếp cận manh mún trong quản lý tài nguyên (trang 246).
Cách tiếp cận manh mún này đối với nước xuất hiện tràn lan trong các thỏa thuận quốc tế.
Ý tưởng cần phải có một chính sách quốc tế toàn diện của Hoa Kỳ đối với các vấn đề về nước
là tương đối mới. Nước là một trong những vấn đề được đưa ra trong Báo cáo hội thảo toàn
cầu năm 2000 gửi đến Tổng thống (Hội đồng về chất lượng môi trường và Bộ Ngoại giao,
1980) thực hiện ở cuối những năm 1970 do chính quyền Carter nhưng không tạo được bước
ngoặt nào đáng kể. Gần đây, các đề án đã được lưu hành trong một ủy ban quốc gia về nước
của Hoa Kỳ để thúc đẩy sự phối hợp và hội nhập về chính sách, và Gleick (2003) đã kêu gọi
thành lập một ủy ban như vậy để gắn liền với phương diện quốc tế.
Các Tổ chức phi chính phủ về nước của Hoa Kỳ
Hiểu biết về chính sách đối ngoại về nước đòi hỏi một cái nhìn rộng hơn không chỉ về các
kênh thông qua đó ảnh hưởng được đưa vào, mà còn về những người điều phối các kênh đó.
Karkkainen (2004) và rất nhiều các học giả khác đã chỉ ra rằng sự nổi lên của một mô hình lai
về quản lý và giải quyết vấn đề, trong đó các tiểu bang có chủ quyền và các thành phần khác
hợp tác một cách tích cực, gần như là đối tác bình đẳng, nhằm xác định các vấn đề rất phức
tạp mà vượt quá khả năng của các bang có chủ quyền có thể tự giải quyết một mình. (trang
74).
18

Đối với các chính sách quốc tế về nước của Hoa Kỳ, một điều kiện quan trọng đối với cả
những phản đối về tự do hóa kinh tế và sự phân mảnh về thể chế là những điểm yếu của các
thành tố phi chính phủ của Hoa Kỳ về các vấn đề nước quốc tế.
Trong số các lĩnh vực khác nhau được phác thảo trong bài viết này, các tổ chức phi chính phủ
Hoa Kỳ là thành phần tích cực nhất trong các cuộc tranh cãi về các đập lớn. Các tổ chức Hoa

Kỳ là trung tâm của chiến dịch để xanh hóa Ngân hàng Thế giới, trong đó các đập nước nổi
lên như là mục tiêu trọng yếu. Quốc phòng môi trường đã sớm được gắn liền với các chiến
dịch bảo vệ đập nước; một thành phần trọng yếu sau này sau này được coi như một thành viên
hội đồng về WCD. Berkeley, mạng lưới sông quốc tế (IRN), là trung tâm hàng đầu cho kháng
nghị quốc tế và các hoạt động bảo vệ đập nước, cũng đã có một tiếng nói quan trọng.
Các NGO Hoa Kỳ ít tập trung vào những phạm vi khác về chính trị đối với vấn đề nước toàn
cầu. Công chúng đã có chiến dịch "Nước cho Tất cả mọi người” chống lại sự tư hữu hoá
nguồn nước. Khi một nhóm làm việc quốc tế được đôn lên để tìm hiểu về sự đối thoại giữa
các bên liên quan về sự tham gia của các thành phần tư nhân cá lẻ, tuy nhiên nó lại không bao
gồm các NGO Hoa Kỳ trong các nhóm lãnh đạo. Cũng không có các công đoàn lao động của
Hoa Kỳ nằm trong số những nhóm đứng đầu trong chiến dịch chống tư hữu hóa (có lẽ bởi vì
xâm nhập hạn chế mà trong đó sự hữu hoá được thực hiện trong quá trình tái cơ cấu lại ngành
nước ở Hoa Kỳ). Tương tự như vậy, mặc dù rất các tổ chức nhân đạo phi chính phủ của Hoa
Kỳ có liên quan với các dự án về nước trên thế giới, vẫn chưa có một sự thể hiện đáng kể nào
đối với vấn đề nước toàn cầu hay vòng luẩn quẩn nghèo đói trong giai đoạn gần đây. Trong số
437 tổ chức thành viên của Mạng lưới hành động toàn cầu vì nước ngọt (FAN), chỉ có một số
có trụ sở tại Hoa Kỳ. FAN đã được tạo ra được sự thức tỉnh của Diễn đang thế giới về nước
lần thứ hai (năm 2000) "để bảo đảm rằng miền Nam [các tổ chức xã hội dân sự] đang làm các
vấn đề về nước hoặc các vấn đề vệ sinh môi trường được có được vị thế mạnh mẽ tại các diễn
đàn về chính sách nước quốc tế [để] tiếng nói của họ ngày càng có trọng lượng hơn trong các
cuộc tranh luận chính trị về nước" (FAN, nda, ndb). Trong số các tổ chức phi chính chủ chốt
của Hoa Kỳ về môi trường, chỉ có Hội đồng Quốc phòng về tài nguyên thiên nhiên, Ủy ban
Bảo tồn Thiên nhiên, và Liên đoàn về động vật tự nhiên hoang dã là các thành viên. Gần đây,
các MDG thúc đẩy sự hình thành một liên minh của các tổ chức Hoa Kỳ dưới danh nghĩa là
một Khối liên minh Thiên niên kỷ về nước (Millenium Alliance - MWA). Trong số các thành
viên và các chi nhánh của nó là các NGO cứu trợ nhân đạo, các dịch vụ cứu tế Công giáo, và
Worldvision. MWA đã đưa ra chương trình cung cấp nước, vệ sinh môi trường, và giáo dục
về nước ở Kenya và Ethiopia, với sự tài trợ của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, USAID, Coca Cola,
và các nguồn khác từ các quỹ và tổ chức tư nhân khác.
Khớp nối yếu của các NGO Hoa Kỳ là sự phân tán và chia nhỏ trong một bức tranh tổng thể

về cứu trợ của Hoa Kỳ mà đã được phác thảo trước đó. Việc không có tiếng nói mạnh mẽ làm
giảm sự thúc đẩy các nguồn tài trợ, và sự tài trợ có giới hạn không có vai trò trong phát triển
hoạt động của các NGO.
Kết luận
Như đã đề cập trong phần đầu của bài viết này, đánh giá về sự lãnh đạo nước đối với các vấn
đề nước toàn cầu là phức tạp, với nhiều lý do: vì số lượng lớn các lĩnh vực trong xây dựng tổ
chức về nước; sự lãnh đạo đối với các vấn đề "xuyên khu vực" như các vấn đề về nước đòi
19

hỏi phải đánh giá sự tranh luận và các hoạt động thực tiễn nội địa, không chỉ đơn giản là việc
tuân thủ một hiệp ước với một chế độ thỏa thuận; và bởi vì các vấn đề thuộc loại này liên
quan đến một mảng rộng lớn của các thành phần chính phủ và phi chính phủ. Với những phức
tạp kể trên, có thể nói gì về vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ?
Hoa Kỳ là một nhà bảo trợ quan trọng đối với khối lượng tổng thể viện trợ nhân đạo về nước,
nhưng cũng là một quốc gia mà không đặt ưu tiên về nước hay tỷ lệ hóa viện trợ nước. Dòng
chảy viện trợ nhân đạo tiếp tục hướng theo những ưu tiên chính trị, nước không phải là ưu
tiên cân xứng với các đối tượng khác, cam kết về mức viện trợ cao hơn không đạt được, và cơ
hội để sử dụng tầm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Ngân hàng Thế giới được đáp ứng với sự chấp
nhận tương đối khiên cưỡng trong các hoạt động của ngân hàng trong các vấn đề về nước.
Đối với phương diện lãnh đạo liên quan đến “best practices”, có rất nhiều cách trong đó các
chính sách nội địa về nước của Hoa Kỳ tụt lại phía sau những gì có thể được coi như là “best
practices” trên phạm vi thế giới. Hoa Kỳ thiếu các loại khuôn khổ luật pháp quốc gia về nước
mà hiện tại đang phổ biến trong các dự án quản lý tổng hợp tài nguyên nước (IWRM) – nơi
trong đó nhấn mạnh nước như là một sự tin tưởng một quốc gia và nhân quyền, tập hợp các
ưu tiên rõ ràng giữa các đối tượng sử dụng, khuyến khích các cơ chế phân bổ hiệu quả và
chiến lược quản lý nhu cầu có hệ thống, và thực thi các hệ thống hành chính ở quy mô lưu
vực để quản lý và quản trị nguồn nước. Vẫn chỉ có một vài bước thử nghiệm về hướng phát
triển của quản lý lưu vực có sự tham gia của nhiều bên liên quan (đáng chú ý nhất là Ủy ban
vịnh Chesapeake). Phân bổ quyền về nước vẫn còn vướng mắc những phức tạp trong tranh
tụng về các tập quán truyền thống. Những tranh chấp xuyên biên giới len lỏi theo cách của

các quốc gia thông qua hệ thống tòa án trong bối cảnh thiếu vắng các cơ chế giải quyết tranh
chấp được thể chế hóa. Mặc dù sự tiến bộ đáng kể đã có được trong việc loại bỏ liên hệ giữa
tiêu thụ nước và tăng trưởng kinh tế, hầu hết công dân Hoa Kỳ sử dụng trên 600 lít mỗi ngày,
nhiều hơn gấp đôi của Pháp, gần gấp ba Đức, và gấp bốn lần Anh (UNDP, 2006, trang 1).
Vai trò lãnh đạo đối với thách thức môi trường xuyên quốc gia như các vấn đề về nước cũng
có tính dập khuôn. Chính sách quốc tế về nước của Hoa Kỳ phần chủ yếu tiếp tục phản ánh
một mô hình những năm 1990 về kinh tế tự do hóa nguồn nước, ở thời điểm khi mà những tư
duy tiến bộ của thế giới về nước đã được đặt trong sự nhấn mạnh mới đối với vai trò lâu dài
của quốc gia, tầm quan trọng của một khung pháp lý vững mạnh, và sự tập trung hóa nhận
thức về nước như một nhân quyền. Hồ sơ không mấy ấn tượng của các sáng kiến thị trường
hóa đã cắt xén vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ trong xu hướng thị trường hóa, ấy vậy mà chính
sách của Hoa Kỳ vẫn quá chậm trễ trong việc điều chỉnh. Điều này rõ ràng là Hoa Kỳ không
đóng vai trò lãnh đạo trong việc thúc đẩy để biến nhu cầu về nước thành một nhân quyền.
Ngược lại, đến mức mà có những mâu thuẫn giữa xử lý nước như là một nhân quyền và như
là một thứ hàng hóa thị trường, sự chú trọng mạnh mẽ trong chính sách của Hoa Kỳ về thị
trường hóa, phân bổ hiệu quả, nguyên tắc kinh doanh, và phục hồi chi phí thúc đẩy theo một
hướng khác. Chắc chắn là việc coi nước như là một nhân quyền sẽ đối nghịch với việc coi
nước như là một thị trường hàng hóa.
Nguyên tắc Dublin năm 1992, một khung quan trọng về nước toàn cầu, nhấn mạnh cả quyền
con người và phương diện hàng hóa thị trường của nước. Tuy nhiên lại có ít hoặc không có
hướng dẫn làm thế nào để điều hoà hai nguyên tắc (Hội nghị quốc tế về nước và môi trường,
20

1992). Tuy vậy, hơn là phản ánh sự căng thẳng biến động này, chính sách của Hoa Kỳ lại đi
xuống khá rõ rệt về mặt thị trường hàng hóa.
Với đặc tính không đồng nhất nhất định về xây dựng cơ quan toàn cầu về nước, hệ thống
chính sách nội địa phân mảnh về nước của Hoa Kỳ và khoảng trống giữa những hành động
của Hoa Kỳ với các quan niệm quốc tế đang phát triển về “best pratices”, điều đó không có gì
là ngạc nhiên rằng Hoa Kỳ không phải là một nhà lãnh đạo toàn cầu có hiệu quả về nước. Đến
nay, các nỗ lực để thay đổi này thực tế này đang tập trung vào việc tăng cường viện trợ nước,

và sự thông qua của Hạ viện Hoa Kỳ đối với Đạo luật Nghèo đói có thể mang lại một số lợi
ích trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, sự thay đổi lớn hơn và khó khăn hơn đó là tính dập khuôn.
Những thay đổi bị gây cản trở bởi cả hạn chế tương đối về sự xâm nhập “best practices” quốc
tế vào chính sách về nước của Hoa Kỳ và sự chậm trễ của các NGO Hoa Kỳ đối với một số
lĩnh vực then chốt của các cuộc tranh luận nước toàn cầu.
Những lưu ý
1. Hoa Kỳ chưa phê chuẩn Công ước về Đa dạng sinh học, Công ước Basel về kiểm soát vận
chuyển xuyên biên giới các chất thải nguy hại, Hiệp ước Quốc tế về Nguồn tài nguyên di
truyền thực vật cho Lương thực và Nông nghiệp, Công ước Rotterdam về thỏa thuận thủ tục
thông báo Trước đối với các hoá chất độc hại và thuốc trừ sâu trong thương mại quốc tế, và
Công ước Stockholm về các chất gây ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy; Hoa Kỳ đã không ký
Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học hay Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển; và
Hoa Kỳ đã rút khỏi Nghị định thư Kyoto trong Công ước khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi
khí hậu.
2. Danh sách của các tổ chức về nước đang nổi lên, xem Conca (2006, chương 5) và Varady,
Meehan, Rodda, McGovern, và Iles-Shih (2008).
3. Mặc dù IWRM đã được xác định bằng nhiều cách, phương châm trung tâm của nó thường
bao gồm sự cần thiết phải lưu tâm đối với quản lý trên phương diện nhu cầu cũng như là
những cân nhắc trong cung cấp nước; sự cần thiết đối với các hệ thống và hoạt động quản lý
tổng hợp nước đa cấp, đa ngành; tầm quan trọng của sự tham gia giữa các bên liên quan; và sự
cần thiết về tăng cường giám sát, quản lý dựa trên kiến thức, và các hệ thống thông tin về
nước (xem nước toàn cầu tác, nd; về sự tiến hóa của khái niệm, xem Conca, 2006, chap 5).
4. Mặc dù mức tăng 34% trong hỗ trợ phát triển chính thức trong năm 2005, nhưng chủ yếu
được điều tiết viện trợ cho Afghanistan và Iraq, Hoa Kỳ đã đóng góp chỉ có 0,22% trong tổng
thu nhập quốc dân trong hỗ trợ phát triển, đứng thứ ba trong số 22 Tổ chức Hợp tác Kinh tế
và Phát triển (OECD) các nhà tài trợ (OECD Uỷ ban Hỗ trợ, nd, trang 8) có tỷ lệ đóng góp ít
nhất.
5. Lập bảng kê từ dữ liệu trong tài liệu Grusky và Fiil-Flynn (2004).
6. Danh sách các dự án cho vay theo lĩnh vực và quốc gia, xem các cơ sở dữ liệu về hỗ trợ dự
án có sẵn trên trang Web của Ngân hàng Thế giới. Để biết thông tin về hồ sơ bỏ phiếu của đại

diện Hoa Kỳ đối với Ngân hàng Thế giới, xem US Department of the Treasury (nd).
21

7. Đây không phải là để gợi ý rằng châu Âu nên được xem như là một cấu trúc liên bang xấp
xỉ Hoa Kỳ hay rằng các đại diện cho một cái gì đó quy ước giống như pháp luật trong nước.
8. Danh sách của các thỏa thuận, xem Transboundary Freshwater Dispute Database (nd).

Tài liệu tham khảo
Barlow, M. (2006). A UN convention on the right to water (Food & Water Watch, November
2006).
Retrieved February 10, 2007, from />conventionright-to-water.
Calaguas, B. (1999). The right to water, sanitation and hygiene and the human rights-based
approach to development (WaterAid Briefing Paper, July 1999). Retrieved February 21,
2007, from

Clemons, J. (n.d.). Interstate water disputes: A road map for states (National Sea Grant
Law Center).
Retrieved February 19, 2007, from
Conca, K. (2006). Governing water: Contentious transnational politics and global institution
building. Cambridge, MA: MIT Press.
Conca, K., Wu, F., & Mei, C. (2006). Global regime formation or complex institution
building? The principled content of international river agreements. International Studies
Quarterly, 50, 263-285.
Council on Environmental Quality and U.S. Department of State. (1980). The global 2000
report to the president: Entering the twenty-first century (Vol. 1). Washington, DC:
Author.
DeSombre, E. (2000). Domestic sources of international environmental policy. Cambridge,
MA: MIT Press.
Export-Import Bank of the United States. (n.d.). Environmental guidelines—Table 9:
Hydropower and water resources management (dams & reservoirs). Retrieved February

16, 2007, from
Freshwater Action Network. (n.d.a). FAN members. Retrieved February 22, 2007, from

Freshwater Action Network. (n.d.b). Freshwater Action Network: The background. Retrieved
February22, 2007, from
Gerlak, A. (2006). Federalism and U.S. water policy: Lessons for the twenty-first century.
Publius: The Journal of Federalism, 36, 231-257.
Gleick, P. (1999). The human right to water. Water Policy, 1(5), 487-503.
Gleick, P. (2003). Testimony before the Legislative Hearing of the Subcommittee on Water
and Power of the Committee on Resources, United States Congress, April 1, 2003.
Retrieved February 22, 2007, from

Gleick, P. (2004). The Millennium Development Goals: Crucial objectives, inadequate
commitments. In P. H. Gleick (Ed.), The world’s water 2004-2005 (pp. 1-15).
22

Washington, DC: Island Press. Global Water Partnership. (n.d.). Toolbox: Integrated
water resources management. Retrieved April 4, 2008, from
Green Cross International. (2005). Fundamental principles for a framework convention on the
right to water. Retrieved August 15, 2007, from

Grusky, S., & Fiil-Flynn, M. (2004). Will the bank back down? Water privatization in a
climate of global protest (A special report of Public Citizen‟s Water for All Program).
Washington, DC: Public Citizen‟s Water for All Program.
Haas, P., Keohane, R., & Levy, M. (Eds.). (1993). Institutions for the Earth: Sources of
effective international environmental protection. Cambridge, MA: MIT Press.
Heinrich Boll Foundation. (n.d.). NGOs call on governments to strengthen the human right to
water.
Retrieved February 10, 2007, from
Heynen, N., McCarthy, J., Prudham, S., & Robbins, P. (Eds.). (2007). Neoliberal

environments: False promises and unnatural consequences. New York: Routledge.
Hoge, W. (2005, September 1). Bolton seeks changes to U.N. Millennium Development
Goals. The New York Times.
International Conference on Water and the Environment. (1992). Dublin statement on water
and sustainable development. Retrieved July 30, 2000, from
www.wmo.ch/web/homs/icwedece.html
Conca / U.S. International Water Policy 235 Downloaded from at New
School Digital Library on June 16, 2009.
International Joint Commission. (2006). Advice to governments on their review of the Great
Lakes Water Quality Agreement (IJC special report to the governments of Canada and the
United States).
Washington, DC: Author. International Rivers Network. (2005). From commitment to
implementation: The report of the World Commission on Dams after five years. Berkeley,
CA: Author.
Karkkainen, B. (2004). Post-sovereign environmental governance. Global Environmental
Politics, 4, 72-96.
Keck, M., & Sikkink, K. (1998). Activists beyond borders: Advocacy networks in
international politics. Ithaca, NY: Cornell University Press.
Khagram, S. (2004). Dams and development: Transnational struggles for water and power.
Ithaca, NY: Cornell University Press.
Kundzewicz, Z., Mata, L., Arnell, N., Döll, P., Kabat, P., Jiménez, B., et al. (2007).
Freshwater resources and their management. In M. Parry, O. Canziani, J. Palutikof, P.
van der Linden, & C. Hanson (Eds.),
Climate Change 2007: Impacts, Adaptation and Vulnerability. Contribution of Working
Group II to the Fourth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate
Change (pp. 173-210). Cambridge, UK: Cambridge University Press.
Lawrence, S. (2005). Retreat from the safeguard policies: Recent trends undermining social
and environmental accountability at the World Bank (Environmental Defense). Retrieved
February 16, 2007, from
23


/>df
Mumme, S., & Duncan, P. (1997-1998). The Commission for Environmental Cooperation and
Environmental Management in the Americas. Journal of Interamerican Studies and
World Affairs, 39, 41-62.
Najam, A. (2005). Developing countries and global environmental governance: From
contestation to participation to engagement. International Environmental Agreements, 5,
303-321.
Organisation for Economic Co-operation and Development Assistance Committee. (n.d.).
Final ODA data for 2005. Retrieved February 11, 2007, from

Revenga, C., Brunner, J., Henninger, N., Kassem, K., & Payne, R. (2000). Pilot analysis of
global ecosystems: Freshwater systems. Washington, DC: World Resources Institute.
Slaughter, A. M. (2004). A new world order. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Transboundary Freshwater Dispute Database. (n.d.). Department of Geosciences,
Oregon State University. Available at
United Nations. (1997, April 11). Convention on the law of the non-navigational uses of
international watercourses (U.N. General Assembly Document A/51/869). New York:
Author.
United Nations. (2005, April 15). Commission adopts six resolutions and two decisions on
economic, social and cultural rights. U.N. press release.
United Nations. (2006). The Millennium Development Goals Report 2006. New York: Author.
United Nations Committee on Economic, Social and Cultural Rights. (2002, November 26).
Substantive issues arising in the implementation of the International Covenant on
Economic, Social and Cultural Rights: The right to water (General Comment No. 15.
United Nations Document E/C.12/2002/11). New York: Author.
United Nations Development Programme. (2006). Human development report 2006. New
York: Oxford
University Press. United Nations Economic Commission for Europe. (2004). The 1992
UNECE Convention on the Protection and Use of Transboundary Watercourses and

International Lakes. New York and Geneva, Switzerland: Author. Retrieved February 19,
2007, from
United Nations Human Rights Council. (2006, November 27). Human rights and access to
water (Decision 2/104). Geneva, Switzerland: Author.
United Nations Human Rights Council. (2008, March 20). Promotion and protection of all
human rights, civil, political, economic, social and cultural rights: Human rights and
access to safe drinking water and sanitation (A/HRC/7/L.16). Geneva, Switzerland:
Author. 236 The Journal of Environment & Development Downloaded from
at New School Digital Library on June 16, 2009
United States Agency for International Development. (2003, June). USAID FY 2003 report to
Congress: USAID investments in drinking water supply and related activities (a report to
the U.S. House and Senate Appropriations Committees). Washington, DC: Author.
United States Agency for International Development. (n.d.a). Projects and loans in Africa
(page 2). Retrieved February 16, 2007, from
24

United States Agency for International Development. (n.d.b). Projects and loans in Latin
America & Caribbean. Retrieved February 16, 2007, from

United States Agency for International Development. (n.d.c). I. Public benefit. Retrieved
February 10, 2007, from
United States Agency for International Development. (n.d.d). USAID’s changing role in
global water resources management. Retrieved February 14, 2007, from

United States Department of State. (2006). Senator Paul Simon Water for the Poor Act:
Report to Congress June 2006 (Department of State Report 11345, Bureau of Oceans and
International Environmental Scientific Affairs). Washington, DC: Author.
United States Department of State. (n.d.). Paul Simon Water for the Poor Act. Retrieved
February 10, 2007, from
United States Department of the Treasury. (n.d.). Multilateral development institutions: Loan

review votes. Retrieved February 8, 2007, from

United States Environmental Protection Agency. (n.d.). Great Lakes Water Quality
Agreement 1978: What is the Great Lakes Water Quality Agreement? Retrieved February
23, 2007, from
United States House of Representatives. (2007). Africa’s water crisis and the U.S. response.
Testimony of Congressman Earl Blumenauer before the House Foreign Affairs
Committee, Subcommittee on Africa and Global Health, May 16, 2007.
United States Mission to the United Nations. (2005). Letter from Ambassador Bolton on
Millennium Development Goals, August 26, 2005. Retrieved February 9, 2007, from

Varady, R., Meehan, K., Rodda, J., McGovern, E., & Iles-Shih, M. (2008). Strengthening
global water initiatives. Environment, 50, 18-31.
WaterAid & Tearfund. (2003). New rules, new roles: Does PSP benefit the poor? London:
Author.
World Bank. (2003). Water resources sector strategy: Strategic directions for World Bank
engagement (final report, February 2003). Washington, DC: Author.
World Bank. (2004). Water resources sector strategy: New directions for World Bank
engagement. Washington, DC: Author.
World Commission on Dams. (2000). Dams and development: A new framework for decision-
making. The report of the World Commission on Dams. London: Earthscan.
World Water Commission. (2000). A water secure world: Vision for water, life, and the
environment. Paris: Author.
Worster, D. (1985). Rivers of empire. New York: Oxford University Press.

Ken Conca là một giáo sư về chính quyền và chính trị tại Đại học Maryland. Nghiên cứu của
ông tập trung vào môi trường chính trị quốc tế, quốc tế hóa, chủ nghĩa tích cực, và quản lý
toàn cầu. Cuốn sách của ông về Quản lý nước đã nhận được giải thưởng Harold và Margaret
Sprout, và giải thưởng Chadwick Alger năm 2006 từ Hiệp hội Nghiên cứu quốc tế.

×