Tải bản đầy đủ (.docx) (159 trang)

Thực trạng thu hút và sử dụng ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn tại các tỉnh miền trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.42 KB, 159 trang )

1
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp
LỜI MỞ ĐẦU
Gần 70% dân số Việt Nam là dân số ở nông thôn và hoạt động trong
lĩnh vực
nông nghiệp. Hoạt động sản xuất nông nghiệp của nước ta chủ yếu vẫn là
sản xuất
truyền thống, ít sử dụng máy móc và công nghệ mới. Hiện nay nước ta
đang tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng nông nghiệp vẫn là ngành quan
trọng
trong phát triển kinh tế cũng như giải quyết phần lớn nguồn lao động ở
nông thôn.
Do đó, đầu tư vào nông nghiệp và phát triển nông thôn là rất cần thiết. Sự
đầu tư
này không chỉ tác động tới ngành nông nghiệp mà còn tác động tới tất cả
các ngành
trogn nền kinh tế. Trong thời gian qua các nguồn vốn dành cho nông
nghiệp và phát
triển nông thôn đã mang lại những lợi ích to lớn trong đó phải kể đến
nguồn vốn
ODA. Các chương trình, dự án ODA đẫ mang lại những lợi ích kinh tế xã
hội cho
nhiều vùng đặc biệt là vùng sâu, vung xa. Tuy nhiên việc quản lý nguồn
vốn ODA
còn nhiều bất cập cần phải giải quyết.
Chính vì vậy em đã quyết định chọn đề tài “ Thực trạng thu hút
và sử
dụng ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn tại các tỉnh Miền
Trung”.


Những nội dung cụ thể của đề tài được trình bày và phân tích qua hai
phần
sau:
Chương 1: Những vấn đề lí luận chung về nguồn vốn ODA
Chương 2: Thực trạng thu hút và sử dụng ODA vào NN&PTNT các tỉnh
Miền Trung
Chương 3: Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn
vốn ODA
vào nông nghiệp và phát triển nông thôn các tỉnh Miền Trung
Em xin cảm ơn Th.S Phan Thu Hiền và Ban quản lý các dự án
nông
nghiệp đã tạo điều kiện cho em hoàn thành đề tài này. Do còn nhiều hạn
chế về thời
gian cũng như kiến thức nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót,
kính
mong các thầy cô góp ý và bổ sung.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Hằng
NguyÔn ThÞ H»ng
Líp : Kinh tÕ ®Çu t− 48B - QN
2
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Chương 1:
Những vấn đề
lí luận chung
về nguồn vốn
ODA
1.1 Vài nét về nguồn
vốn ODA

1.1.1 Khái niệm, đặc
điểm, phân loại ODA:
1.1.1.1 Khái niệm
ODA:
- Sự hình thành
ODA trên thế
giới:
Sau đại chiến thế
giới lần thứ II,
các nước công
nghiệp phát triển
đã thỏa
thuận vì sự trợ giúp dưới
dạng viện trợ không
hoàn lại hoặc cho vay
với điều kiện
ưu đãi cho các nước
đang phát triển. Tháng 7
năm 1944, tại Bretton
Woods bang
Hampshire (Hoa Kỳ),
Hội nghị tài chính tiền tệ
đã ra quyết định thành
lập tổ chức
tài chính Quốc tế – Ngân
hàng thế giới ( WB ).
Mục tiêu của WB là thúc
đẩy phát
triển kinh tế và tăng
trưởng phúc lợi của các

nước với tư cách là một
tổ chức trung
gian tài chính, một ngân hàng thực sự với hoạt động
chủ yếu là đi vay theo các điều
kiện thương mại bằng cách phát hành trái phiếu để
rồi cho vay tài trợ và đầu tư tại
các nước. Và thông qua kế hoạch Marshall thưc
hiện viện trợ ồ ạt cho các nước Tây
Âu với tên gọi là khoản “ hỗ trợ phát triển chính
thức” nhằm phục hối nền kinh tế
Châu Âu sau chiến tranh thế giới thứ II.
- Khái niệm ODA:
Hỗ trợ phát triển chính thức(ODA) là khoản
viện trợ không hoàn lại, viện trợ
có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi cho các chính phủ,
các tổ chức phi Chính Phủ
(NGO), các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc
(UN), các tổ chức tài chính
quốc tế dành cho các nước đang phát triển và chậm
phát triển nhằm hỗ trợ và thúc
đẩy các quốc gia đó phát triển cả về kinh tế lẫn xã
hội.
Như vậy, cùng với tín dụng thương mại ngân
hàng, tín dụng tư nhân, đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) thì ODA là một trong
những dòng vốn chủ yếu chảy vào
các nước đang và chậm phát triển.Các dòng vốn
quốc tế này có những mối quan hệ
rất chặt chẽ với nhau.Nếu một nước không nhận
được mức ODA đủ nức cần thiết

đế cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội thì khó có
cơ hội để thu hut vốn FDI cũng
như vay vốn tín dụng khác để mở rộng kinh
doanh.Nhưng ngược lại chỉ dừng lại ở
việc tìm kiếm ODA mà không tìm cách thu hút các
nguồn vốn FDI và các nguồn
vốn tín dụng khác thì không có điều kiện tăng
trưởng nhanh sản xuất và dịch vụ, sẽ
không có đủ thu nhập để trả nợ lại vốn ODA.
NguyÔn ThÞ
H»ng
Líp : Kinh tÕ ®Çu t−
48B - QN
3
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
1.1.1.2. Đặc điểm của
ODA
Thứ nhất, vốn
ODA mang tính
ưu đãi.
Vốn ODA có thời
gian cho vay
(hoàn trả vốn)
dài, có thời gian
ân hạn (chỉ
trả lại chưa trả nợ
gốc).Đây cũng chính là
một sự ưu đãi dành cho
nước vay.
Thông thường,

ODA có yếu tố
không hoàn lại
(còn gọi là thành
tố hỗ trợ).
Đây chính là điểm phân
biệt giữa viện trợ và cho
vay thương mại. “Thành
tố hỗ trợ
được xác định dựa vào
thời gian cho vay, thời
gian ân hạn và so sánh
mức lãi suất
viện trợ với mức lãi suất
thương mại. Sự ưu đãi ở
đây là so sánh với tín
dụng
thương mại trong tập
quán quốc tế.
Tính ưu đãi của
ODA còn được
thể hiện đó là nó
chỉ dành riêng
cho các
nước đang và chậm phát
triển vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản
nhất
để các nước đang và chậm phát triển có thể nhận
được ODA là:
-Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người
thấp. Nước có bình

quân đầu người càng thấp thì thường được tỉ lệ viện
trợ không hoàn lại của ODA
càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời
hạn ưu đãi càng lớn. Khi các
nước này đạt trình độ phát triển nhất định qua
ngưỡng đói nghèo thì sự ưu đãi này
sẽ giảm đi.
-Mục tiêu sử dụng ODA của các nước này phải phù hợp
với chính sách và
phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ
giữa bên cấp ODA và bên nhận
ODA.
Thông thường, các nước cung cấp ODA đều
có những chính sách và ưu tiên
riêng của mình và đối tượng ưu tiên của các nước
cung cấp ODA cũng có thể thay
đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Do đó, nắm được
hướng ưu tiên và tiềm năng cảu
các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần
thiết. Về thực chất, ODA là sự
chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại một
phần tổng sản phẩm quốc dân
trong những điều kiện nhất định. Như vậy, nguồn
gốc thực chất của ODA chính là
một phần của GNP các nước giàu được chuyển sang
các nước nghèo. Do vậy, ODA
rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh
của dư luận xã hội nước cung cấp
cũng như tiếp nhận ODA.
Thứ hai, ODA mang tính chất ràng buộc.

ODA có thể ràng buộc nước nhận viện trợ về
địa điểm, cách thức chi tiêu.
Ngoài ra, mỗi nước cung cấp viện trợ đều có những
ràng buộc khác và nhiều khi
các ràng buộc này rất chặt chẽ với nước nhận.
Ngu
yÔn
ThÞ

ng
Líp : Kinh tÕ
®Çu t− 48B -
QN
4
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Nguồn vốn ODA
luôn chứa đựng
tính hai mặt của
nó là tính ưu đãi
cho nước
tiếp nhận và lợi ích của
nước viện trợ. Vốn ODA
luôn có tính ràng buộc
về chính
trị.
Các nước viện trợ
sẽ không quên
dành được lợi ích
cho nước mình
vừa gây

ảnh hưởng chính trị, vừa
thực hiện xuất khẩu hàng
hóa, dịch vụ tư vấn vào
nước
tiếp nhận viện trợ. Ví dụ:
BỈ, Đức, Đan Mạch yêu
cầu khoảng 50% viện trợ
phải
mua bằng hàng hóa và
dịch vụ của nước mình.
Canada yêu cầu cao nhất
tới 65%. F
Còn Thụy Sỹ yêu cầu
7.1%; Hà Lan 2.2%, hai
nước này được coi là
những nước có
tỉ lệ ODA yêu cầu phải
mua hàng hóa dịch vụ
của nhà tài trợ thấp. Đặc
biệt New
Zealand không đòi hỏi
phải tiêu thị hàng hóa,
dịch vụ của họ.
Kể từ khi ra đời
đến nay, viện trợ
luôn luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn
tại song song đó là thúc đẩy tăng trưởng bền vững
và giảm nghèo ở những nước
đang phát triển và tăng cường vị thế chính trị của
các nước tài trợ.

Thứ ba, ODA là nguồn vốn có khả năng để
lại gánh nặng nợ.
Khi mới bắt đầu tiếp nhận ODA, do tính chất
ưu đãi của nguồn vốn ODA
nên gánh nặng nợ nần thường chưa xuất hiện. Một
số nước do sử dụng ODA chưa
có hiệu quả có thể chỉ tạo ra gánh nặng nhất thời,
nhưng sau đó một thời gian lại
lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ.
Sự phức tạp chính là ở chỗ
vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho
sản xuất, nhất là cho xuất khẩu
trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu để thu
ngoại tệ. Vì vậy, trong khi
hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp
các loại nguồn vốn với nhau
để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất
khẩu.
1.1.1.3. Phân loại ODA
Có các cách phân loại ODA sau đây:
* Theo tính chất tài trợ, ODA bao gồm:
- Viện trợ không hoàn lại: là các khoản cho
không, nước nhận viện trợ không
có nghĩa vụ hoàn trả lại.
- Viện trợ có hoàn lại: các khoản vay ưu đãi.
- Viện trợ hỗn hợp: gồm một phần cho
không, phần còn lại thực hiện theo
hình thức tín dụng (có thể tín dụng ưu đãi hoặc tín
dụng thương mại).
* Theo mục đích sử dụng, ODA bao gồm:

- Hỗ trợ cơ bản: là những nguồn lực được
cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng kinh tế xã hội và môi trường. Đây thường là
những khoản cho vay ưu đãi.
NguyÔn ThÞ
H»ng
Líp : Kinh tÕ ®Çu t−
48B - QN
5
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
- Hỗ trợ kĩ thuật:
là những nguồn
lực dành cho
chuyển giao tri
thức, công
nghệ, xây dựng năng lực,
… loại viện trợ này chủ
yếu là viện trợ không
hoàn lại.
* Theo điều kiện,
ODA bao gồm:
- ODA không
ràng buộc nước
nhận: việc sử
dụng nguồn tài
trợ không bị ràng
buộc bởi nguồn sử dụng
hay mục đích sử dụng
nào.
- ODA có ràng

buộc nước nhận:
+ Bởi nguồn sử
dụng: việc mua
sắm hàng hóa,
trang thiết bị hay
dịch vụ
bằng nguồn vốn ODA
chỉ giới hạn cho một số
công ty do nước sở hữu
tài trợ
hoặc kiểm soát.
+ Bởi mục đích
sử dụng: chỉ sử
dụng ODA cho
một số lĩnh vực
nhất định
hoặc một số dự án cụ
thể.
- ODA có thể
ràng buộc một
phần: một phần chịu ràng buộc, phần còn lại
không chịu bất cứ sự ràng buộc nào.
* Theo đối tượng sử dụng, ODA được chia
thành:
- Hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của
ODA để thực hiện các dự án cụ
thể, có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kĩ thuật, có
thể là cho không hoặc cho
vay ưu đãi.
- Hỗ trợ phi dự án:

+ Hỗ trợ trả nợ: giúp thanh toán các khoản
nợ quốc tế đến hạn.
+ Viện trợ chương trình: là khoản ODA dành
cho mục đích tổng quát với
thời gian nhất định mà không phải xác định một
cách chính xác nó sẽ được sử dụng
như thế nào?
+ Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là hỗ
trợ tài chính trực tiếp hoặc hỗ trợ
hàng hóa, hỗ trợ qua nhập khẩu.
* Theo nhà cung cấp ODA được chia thành:
- ODA song phương: là ODA của một chính
phủ tài trợ trực tiếp cho một
chính phủ khác.
- ODA đa phương: là ODA của nhiều chính
phủ cùng đồng thời tài trợ,
thường được thực hiện qua các tổ chức quốc tế.
- ODA của tổ chức phi chính phủ (NGO)
1.1.2 Tình hình chung về ODA trên thế giới
Trên thế giới việc cung cấp ODA thực chất
đã được tiến hành từ nhiều thập
kỉ trước đây, bắt đầu bằng kế hoạch Marshall của
Mỹ viện trợ cho các nước Tây Âu
NguyÔn ThÞ
H»ng
Líp : Kinh tÕ ®Çu t−
48B - QN
6
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
sau chiến tranh thế giới

thứ hai. Tiếp đó, tại hội
nghị Colombo đã hình
thành nên
những ý tưởng và
nguyên tắc đầu tiên về
hợp tác phát triển.
Một sự kiện quan
trọng nữa là ngày
14/12/1960, tại
Paris đã ký thỏa
thuận
thành lập tổ chức Hợp
tác kinh tế và phát triển
(OECD). Theo đó, với
20 nước
thành viên ban đầu, tổ
chức này đã góp phần
quan trọng trong việc
cung cấp ODA
song phương và đa
phương. Trong khuôn
khổ hợp tác phát triển,
các nước OECD
đã lập ra những ủy ban
chuyên môn, trong đó có
Ủy Ban hỗ trợ phát triển
(DAC)
nhằm giúp các nước
đang phát triển kinh tế
nâng cao hiệu quả đầu

tư. Và kể từ năm
1960 đến nay, ODA
được coi là khoản tài trợ
quốc tế ưu đãi cho các
nước chậm và
đang phát triển. Các
khoản ODA phần lớn
được cung cấp bởi thành
viên DAC,
chiếm khoảng 95% tổng số ODA thế giới. Ngoài ra
các tổ chức phi chính phủ
(NGO) cũng tham gia vào việc cung cấp ODA trên
thế giới.
Trong suốt giai đoạn 2000-2006, tổng
nguồn vốn ODA của các nước DAC
đạt bình quân gần 56 tỷ USD, thấp nhất năm 1997
(gần 47 tỷ USD) và đạt cao nhất
vào năm 2008 (gần 68.5 tỷ USD).Tuy có một số
biến động như vậy nhưng nhìn
chung giá trị tuyệt đối ODA toàn cầu không thay
đổi nhiều và không đủ đáp ứng
nhu cầu ngày càng gia tăng của các nước tiếp nhận.
Trong thời gian 2006-2009, khối lượng viện
trợ dành cho Châu Á chiếm
trung bình khoảng 30% ODA toàn cầu. Nhìn vào
thực tế sử dụng cho thấy, ODA
không phải luôn có hiệu quả đối với bất kì quốc gia
nào, bất kỳ lĩnh vực nào. Trong
khi đó ODA mang lại gánh nặng nợ nần khó trả cho
một số nước nhất là Châu Phi.

Một trong những nguyên nhân chủ yếu đó là do hệ
thống quản lý ODA yếu kém và
tính tự chủ thấp.
* Những xu hướng mới của ODA trên thế
giới trong thời đại ngày nay:
Trong thời đại ngày nay, ODA đang vạn
động theo những sắc thái mới. Đây
cũng là một trong những nhân tố tác động tới việc
thu hút dòng vốn ODA. Bởi vậy
nắm bắt được những xu thế này là điều rất cần thiết
cho các nước nhận tài trợ.
Thứ nhất là vấn đế môi trường đang là trọng
tâm ưu tiên của nhiều nhà tài trợ.
Ngày càng có sự nhất trí cao giữa nhà tài trợ
và nước nhận viện trợ về vấn đề
bảo vệ môi trường. Nhật Bản đã coi vấn đề bảo vệ
môi trường là một trong những
lĩnh vực ưu tiên trong chính sách viện trợ của mình.
Căn cứ vào những diễn biến
gần đây về vấn đề môi trường, Ngân hàng phát triển
Châu Á đã điều chỉnh chính
sách ưu tiên cho bảo vệ
môi trường của mình,
tập trung giải quyết
những thách thức
Ng
uy
Ôn
ThÞ


ng
Líp : Kinh tÕ
®Çu t− 48B -
QN
7
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
về môi trường trong thời
đại ngày nay, cải thiện
môi trường sống vì sự
phát triển lâu
bền.
Thứ hai là vấn đề
“phụ nữ trong
phát triển”
(Women in
Development-
WID)
thường xuyên được đề
cập tới trong chính sách
ODA của nhiều nhà tài
trợ.
“ Phụ nữ trong
phát triển” là một
quan điểm đề cao
vai trò của phụ nữ

khuyến khích họ tham
gia vào các hoạt động
phát triển. Việc tạo ra
các cơ hội cho

phụ nữ phát triển nói
chung và nâng cao thu
nhập của họ nói riêng sẽ
dẫn tới cải
thiện mức sống, giảm tỉ
lệ đói nghèo và duy trì
tăng trưởng ổn định.
Ngay từ tháng
7/1985, ADB đã đưa ra
vấn đề nâng cao vai trò
người phụ nữ trong phát
triển thành
mục tiêu chiến lược
trong hoạt động của
mình. Tư tưởng chủ đạo
trong các dự án
của ADB là “ nâng cao vị trí của phụ nữ trong hoạt
động kinh tế xã hội và đảm bảo
sự phát triển của họ trong sự phát triển chung”.
Thứ ba, mục tiêu và yêu cầu của nhà tài trợ
ngày càng cụ thể, tuy nhiên ngày
càng có sự nhất trí cao giữa nước tài trợ và nước
nhận viện trợ về một số mục tiêu.
Với mỗi khoản ODA cung cấp ODA cho các
nước nghèo, các nhà tài trợ đều
đưa ra những mục tiêu và yêu cầu ngày càng cụ thể
hơn. Với những mục tiêu và yêu
cầu cụ thể này nó sẽ tạo ra sự ràng buộc càng chặt
chẽ và nhà tài trợ của mình sẽ đạt
được mục đích ở mức cao nhất. Các mục tiêu đạt

được sự nhất trí ngày càng cao
giữa nhà tài trợ và nước nhận viện trợ là:
-
-
-
-
Tạo tiền đề tăng trưởng kinh tế
Xóa đói giảm nghèo
Bảo vệ môi trường
Hỗ trợ khai thác tiềm năng sẵn có và sử dụng chúng
một cách có hiệu quả.
Thứ tư, nguồn vốn ODA tăng chậm.
Các tổ chức tài chính quốc tế như WB,
ADB đang phải đương đầu với
những khó khăn về nguồn vốn do phần góp vốn hạn
hẹp của một số nước thành
viên. Tình trạng một số nước nghèo mắc nợ nhiều,
khả năng hấp thụ ODA của
nhiều nước tiếp nhận còn hạn chế, thiếu chủ động
trong thu hút viện trợ… cũng
là một trong những nguyên nhân làm nguội “nhiệt
tình” của các nhà tài trợ.
Ngoài ra, trên thế giới đã xuát hiện những quan
điểm mới tiến bộ hơn là quan
tâm nhiều hơn đến hiệu quả sử dụng vốn ODA chứ
không phải quan tâm tới số
lượng ODA được cung cấp. Bởi vậy, thêm một lý
do nữa để các nhà tài trợ trân
trọng hơn trong việc mở “hầu bao” của mình. Mặt
khác, hiện nay ở nhiều nước

Ngu
yÔn
ThÞ

ng
Líp : Kinh tÕ
®Çu t− 48B -
QN
8
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
người dân muốn Chính
Phủ cắt giảm bớt viện trợ
để tập trung giải quyết
những
vấn đề kinh tế xã hội
trong nước.
Thứ năm, cạnh
tranh giữa các
nước đang phát
triển trong việc
thu hút vốn
ODA đang tăng lên.
ODA đang là
đối tượng cạnh
tranh gay gắt
trong các ưu
tiên phân phối
ODA, nguyên nhân là
do:
-Quốc tế đang đặt ra trách nhiệm

giúp đỡ các nước đang phát triển
giải
quyết các vấn đề môi
trường toàn cầu như sự
thay đổi khí hậu, bảo vệ
tầng Ozon,
bảo vệ sinh thái, bảo vệ
nguồn nước. Vì vậy, các
nước muốn nhận được
viện trợ
phải cạnh tranh để nhận
được sự giúp đỡ này vì
cung cấp ODA nhỏ hơn
nhu cầu
về vốn rất nhiều. Hơn
nữa, vốn ODA dành cho
các vấn đề môi trường
có một tỷ
trọng lớn thường là viện
trợ không hoàn lại nên các nước đều muốn nhận
được
sự ưu đãi này.
-Gần đây trên thế giới xuất hiện một loạt những vấn đề
mà việc giải quyết
nó cần đến những khoản ODA khẩn cấp như: khắc
phục hậu quả chiến tranh vùng
vịnh, xung đột sắc tộc ở Châu Phi, khắc phục hậu
quả của thiên tai…
1.1.3. Vai trò của ODA trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của các nước

đang phát triển
Thứ nhất, ODA là một nguồn vốn có vai trò
quan trọng đối với các nước
đang phát triển
Một trong những trở ngại lớn nhất mà các
nước nghèo gặp phải trong quá
trình công nghiệp hóa là vốn đầu tư. Trong điều
kiện hiện nay, với những thành tựu
mới của khoa học công nghệ, các nước không chỉ
bằng khả năng tích lũy trong
nước mà còn kết hợp với vận dụng khả năng của
thời đại. Bên cạnh nguồn vốn huy
động trong nước, còn có thể huy động nguồn vốn
nước ngoài. Đối với các nước
đang phát triển, khoản viện trợ và cho vay theo điều
kiện ODA là nguồn tài chính
quan trọng, nhiều nước đã tiếp thu một lượng vốn
ODA khá lớn như một lượng bổ
sung khá lớn cho phát triển.
Thứ hai, ODA giúp cho các nước đang phát
triển tiếp thu những thành tựu
khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn
nhân lực
Những lợi ích quan trọng mà nguồn vốn
ODA mang lại cho nước nhận tài
trợ là công nghệ, kĩ thuật hiện đại, kĩ thuật chuyên
môn và trình độ quản lí tiên tiến.
Ngoài ra các nhà tài trợ còn ưu tiên cho phát triển
nguồn nhân lực vì họ tin tưởng
rằng việc phát triển của một quốc gia có quan hệ

mật thiết với việc phát triển nguồn
Ngu

n
ThÞ

ng
Líp : Kinh tÕ
®Çu t− 48B -
QN
9
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
nhân lực. Đây chính là
những lợi ích căn bản
lâu dài đối với nước
nhận tài trợ. Nhật
Bản được biết đến là
nước đứng đầu thế giới
về cung cấp ODA. Hợp
tác kĩ thuật
của Nhật Bản là một ví
dụ minh họa điển hình
về vai trò của hỗ trợ phát
triển chính
thức trong việc giúp các
nước đang phát triển tiếp
thu những thành tựu
khoa học
hiện đại, công nghệ tiên
tiến và phát triển nguồn

nhân lực. Hợp tác kĩ
thuật được coi
là một bộ phận quan
trọng trong ODA của
Nhật Bản và được Chính
Phủ Nhật Bản
đặc biệt coi trọng.
Thứ ba, ODA
giúp các nước
đang phát triển
điều chỉnh cơ cấu
kinh tế.
Dân số tăng
nhanh, sản xuất
tăng chậm và
cung cách quản lý
kinh tế, tài
chính kém hiệu quả, các
nước đang phát triển,
đặc biệt là các nước
Châu Phi đang
vấp phải khó khăn về kinh tế như nợ nước ngoài và
thâm hụt cán cân thanh toán
quốc tế ngày càng tăng. Để giải quyết vấn đề này,
các quốc gia đang cố gắng hoàn
thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối hợp với WB,
Quỹ tiền tệ quốc tế và các tổ chức
quốc tế khác để tiến hành điều chỉnh cơ cấu. Chính
sách này có xu hướng là chuyển
chính sách kinh tế Nhà nước đóng vai trò trung tâm

sang chính sách khuyến khích
nền kinh tế phát triển theo định hướng phát triển
kinh tế khu vực tư nhân. Thế giới
đã thừa nhận sự cần thiết của loại hình viện trợ này
đối với các nước đang phát triển
và Nhật Bản cũng chú trọng tới loại hình này.
Thứ tư, ODA góp phần tăng khả năng thu
hút FDI và tạo điều kiện để mở
rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang
phát triển
Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài khi
quyết định bỏ vốn đầu tư vào một
nước trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lời
của vốn đầu tư tại nước đó.
Việc đầu tư của Chính Phủ vào việc nâng
cấp, cải thiện và xây dựng mới các
cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết
sức cần thiết nhằm làm cho
môi trường đầu tư hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư
cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng
rất lớn, trong nhiều trường hợp các nước đang phát
triển cần phải dựa vào nguồn
vốn ODA để bổ sung cho vốn đầu tư hạn hẹp từ
ngân sách nhà nước. Như vậy,
muốn thu hút được vốn đàu tư trực tiếp nước ngoài
thì cần phải có một môi trường
đầu tư thuận lợi và hấp dẫn.
1.2. Sự cần thiết của ODA đối với phát triển
Nông nghiệp nông thôn các tỉnh
Miền Trung

1.2.1 Sự cần thiết phải đầu tư
Ở nhiều nước trong đó có Việt Nam, thực tế
đã khẳng định rằng khi cơ sở hạ
tầng nông thôn được cải thiện sẽ thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp và mang lại
lợi ích
Ng
uy
Ôn
ThÞ

ng
Líp : Kinh tÕ
®Çu t− 48B -
QN
10
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
kinh tế cho nông dân,
việc cải thiện khả năng
tiếp cận các dịch vụ cơ
bản như y tế,
giáo dục, tăng cường
trao đổi mua bán, mang
lại thêm nhiều cơ hội tạo
thêm thu
nhập phi nông nghiệp và
giảm áp lực lên những
vùng nhạy cảm và sinh
thái. Ngoài
ra, mối liên hệ giữa

nghèo đói và cơ sờ hạ
tầng nông thôn yếu kém
cũng được minh
chứng rõ ràng qua thực
tế. Ở Việt Nam cũng như
nhiều nước đang phát
triển khác
có cùng tình trạng cơ sở
hạ tầng nông thôn yếu
kém, tỉ lệ nghèo rõ ràng
cao hơn hẳn
những nước có cơ sở hạ
tầng hoàn chỉnh gồm
mạng lưới đường giao
thông, hệ
thống thủy lợi, hay trạm
cấp nước sạch và các
chợ… được xây dựng để
thúc đẩy
giao lưu buôn bán. Sự
đóng góp của cơ sở hạ
tầng nông thôn trong xóa
đói giảm
nghèo đã được minh
chứng qua những thành
quả của dự án ngành cơ
sở hạ tầng
nông thôn (RISP) do ADB tài trợ trong những năm
1998-2004. Các báo cáo đánh
giá và kết thúc dự án cho thấy tỉ lệ nghèo trong

vùng có tiểu dự án giảm đáng kể và
một trong số những lợi ích khác đó chính là thu
nhập hộ gia đình tăng bình quân
trên 40%.
Kết quả khảo sát hệ thống cơ sở hạ tầng
nông thôn ở các tỉnh Miền Trung
khẳng định rằng:
-
-
-
Đầu tư thêm cho cơ sở hạ tầng nông thôn là một yêu
cầu bắt buộc.
Nhiều cơ sở hạ tầng hiện nay cần được cải tạo nâng cấp
Ở các tỉnh Miền Trung, tỉ lệ đường giao thông cấp
huyện đã được trải
nhựa hoặc thảm bê tông là tương đối thấp và hươn
1/3 dân số nông thôn chưa có
nước sạch để sử dụng.
Khi các cơ sở hạ tầng nông thôn được cải
thiện thì nó sẽ mang lại những lợi
ích tổng thể cho dân cư đó là:
-
-
Tăng khả năng đưa hàng hóa ra chợ và mở rộng sản
xuất nông nghiệp.
Tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội và các công
trình công ích như
trạm y tế và trường học.
-
thu

nhậ
p.
-
Tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp, đa dạng hóa sinh
kế và các nguồn
Tăng cường sự tham gia của người nghèo vào các hoạt
động kinh tế, giảm tỉ
lệ nhiễm bệnh do sử dụng nguồn nước không an
toàn và một số bệnh tật khác.
-
-
Thúc đẩy giao lưu buôn bán và trao đổi thông tin.
Góp phần trong công tác xóa đói giảm nghèo
Qua đó ta thấy rằng, xây dựng và tái thiết cơ
sở hạ tầng nông thôn là một
điều hết sức cần thiết. Nhưng để có thể thực hiện
được nhiệm vụ này quả là rất khó
NguyÔn ThÞ
H»ng
Líp : Kinh tÕ ®Çu t−
48B - QN
11
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
khăn và cần thềm sự
giúp đỡ của các nguồn
lực bên ngoài cụ thế ở
đây là nguồn vốn
hỗ trợ chính thức
(ODA).
Ng

uy
Ôn
ThÞ

ng
Líp : Kinh tÕ ®Çu t−
48B - QN
12
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Bản
g 1:

m
tắt
hiện
trạn
g cơ
sở
hạ
tần
g
nôn
g
thô
n ở
các
tỉnh
Miề
n
Tru

ng

m
200
9
N
gu
ồn
:
số
liệ
u
do

c
tỉn
h
cu
ng
cấ
p
NguyÔn ThÞ H»ng
Líp : Kinh tÕ ®Çu t− 48B - QN
Tỉnh
ĐVT
Thanh
Hóa
Nghệ
An


Tĩnh
Quảng
Bình
Quảng
Trị
TT.
Huế
Quảng
nam
Quảng
Ngãi
Kon
13
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Kế hoạch phát
triển kinh tế xã
hội của Chính
phủ cho giai
đoạn 2006-2010
đặt ra ba kết quả cho
mục tiêu năm năm đó là:
• Tăng trưởng-
thúc đẩy tỷ lệ
tăng trưởng kinh
tế, đưa đất nước
ra khỏi tình
trạng chậm phát triển
một cách nhanh chóng
nhưng bền vững ( đạt
mức thu nhập

bình quân theo đầu
người một năm từ 950
USD đến 1000 USD vào
năm 2010 )
• Phát triển xã hội
– cải thiện đáng
kể cuộc sống tinh
thần , văn hóa và
vật
chất của con người
• Quản lý nhà
nước tốt- tạo nền
móng cơ sở hạ
tầng và thể chế
nhằm thúc
đẩy quá trình hiện đại
hóa và công nghiệp hóa
từng bước chuyển sang
nền kinh tế
tri thức.
Để đạt được mục
tiêu tăng trưởng
kinh tế, Chính

×