Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Báo cáo "Bối cảnh đất nước và công việc gia đình của vợ và chồng tại 34 quốc gia" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.94 KB, 25 trang )


1

Bối cảnh đất nước và công việc gia đình
của vợ và chồng tại 34 quốc gia

Knud Knudsen và Kari Wearness

Bằng cách tập trung vào bối cảnh quốc gia và các nhân tố cá nhân ảnh hưởng đến sự đóng
góp tương đối và tuyệt đối của người vợ và người chồng trong gia đình, các nhà khoa học
đã có thể hiểu rõ hơn về sự bố trí và chia sẻ công việc nhà trong gia đình giữa các cặp vợ
chồng. Các nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra mối liên hệ giữa quyền hạn của người phụ
nữ và sự chia sẻ công việc nội trợ trong gia đình. Tuy nhiên, những tác động được ghi lại
thì lại chỉ ra điều hoàn toàn ngược lại. Các tác giả cho rằng mô hình xuyên quốc gia ít
được công bố về những ảnh hưởng mang tính chất tương đối phản ánh sự thật là bối cảnh
đất nước ảnh hưởng đến sự tham gia của cả vợ và chồng theo cùng một chiều hướng. Người
ta cũng nói đến giả thuyết “discount” liên quan đến tác động qua lại đối với những nỗ lực
mang tính tương đối và tác động không qua lại đến sự đóng góp của người vợ và người
chồng vào công việc nội trợ trong gia đình. Hơn nữa, việc mở rộng mô hình tác động trong
đó có cả tác động liên quan sự phát triển của nền kinh tế như là một biến số giải thích cho
cấp độ phát triển kinh tế ở tầm vĩ mô thừa nhận sắc thái các khía cạnh mang tính chất bối
cảnh của đất nước có ảnh hưởng như thế nào đến quyết định làm việc nhà của người vợ và
người chồng. Trong khuôn khổ mở rộng của việc trao quyền cho phụ nữ mà ban đầu nó còn
rất yếu này, thì mối quan hệ tương đối liên quan đến sự phân chia lại là mạnh mẽ hơn. Dựa
vào một phân tích đa cấp đối với các số liệu thu thập được gần đây tại 34 quốc gia trong
khuôn khổ chương trình điều tra xã hội quốc tế (ISSP), bài báo này, xét trên một phương
diện lớn hơn ở mức có thể tính cho đến thời điểm này, đã cùng lúc phân tích những đóng
góp mang tính tuyệt đối và tương đối của người vợ và người chồng, đồng thời nó cũng điều
tra những tác động qua lại giữa áp lực về nền kinh tế ở cấp độ vĩ mô và những yếu tố ở cấp
độ cá nhân trong ảnh hưởng đến lao động nội trợ trong gia đình của các cặp vợ chồng.


Nguồn: Knud Knudsen and Kari Waerness. "National Context and Spouses' Housework in
34 Countries". Europian Sociological Review. Volume 24. Number 1. 2008. Pp 97-113.

……………………………………………….

Giới thiệu

Các nghiên cứu xã hội học gần đây đã bỏ ra rất nhiều nỗ lực để giải thích cho sự phân chia
công việc gia đình trên phương diện giới theo khuôn khổ bối cảnh quốc gia (Batalova và
Cohen, 2002; Fuwa, 2004; Yodanis, 2005), thông thường thì mặc nhiên người ta thấy rằng
tác động của việc trao quyền cho phụ nữ trong xã hội chính là đặt lên vai họ một đống các
công việc ở nhà. Mặc dù ở một khía cạnh nào đó thì điều này là hoàn toàn ngược lại, tuy
nhiên thì những phát hiện đã chỉ ra rằng (Fuwa, 2004) (i) những người vợ sống ở các quốc
gia có chủ nghĩa quân bình về giới nhiều hơn thì được hưởng sự phân chia công việc nội trợ
trong gia đình với ít sự không công bằng hơn, (ii) những đặc điểm cụ thể ở cấp độ cá nhân
có ảnh hưởng một cách hệ thống đến sự đóng góp tương đối của người vợ, và (iii) ảnh
hưởng của tính cách người chồng đến sự chia sẻ của người vợ tăng lên cùng với sự trao
quyền cho phụ nữ - điều này chỉ ra một ảnh hưởng “discount” đối với phụ nữ ở những quốc
gia ít có chủ nghĩa quân bình hơn. Những hướng tiếp cận từ nhiều cấp độ như vậy đã mang

2
đến những hiểu biết quan trọng về mối quan hệ qua lại giữa áp lực của nền kinh tế ở cấp độ
vĩ mô và vi mô đến những công việc không hề được trả lương này của các cặp vợ chồng.

Tuy nhiên, những nghiên cứu mang tính so sánh trên diện rộng như vậy lại bị hạn chế ít
nhất là ở ba chiều hướng. Chiều hướng thứ nhất, chúng chỉ tập trung vào sự tham gia tương
đối. Bằng cách làm như vậy, các nhà nghiên cứu mạo hiểm là đã không để ý tới sự phù hợp
giữa ảnh hưởng của bối cảnh quốc gia đến sự đóng góp của nam giới và phụ nữ, và chính vì
vậy họ không thể nắm bắt được sự phân chia về giới trong lao động ở gia đình. Chiều hướng
thứ hai, xét trên phương diện cá nhân thì mối quan hệ giữa sự tham gia tuyệt đối và tương

đối của vợ và chồng vẫn chưa hề được khám phá. Cái nhìn ở góc độ rất hẹp này đã gây cản
trở cho việc tìm hiểu rõ hơn về ảnh hưởng qua lại của các nhân tố ở tầm vi mô và các đặc
điểm ở tầm vĩ mô đến những công việc được trả không được trả lương này của các cặp vợ
chồng. Thứ ba, các nhà nghiên cứu đã bị hạn chế bởi những số liệu hiện có và bởi tính chất
không chính xác của những tiêu chuẩn sẵn có mà có thể bóp méo đi những ảnh hưởng ở tầm
vĩ mô trong các nghiên cứu so sánh, và vì thế nó có thể đưa lại những phát hiện không xác
thực và mập mờ không rõ ràng.

Áp dụng những số liệu mới phát hiện từ 34 quốc gia (ISSP, 2002) cùng với những quy
chuẩn dựa vào cả thời gian và nhiệm vụ, bài báo này là một trong số những nghiên cứu có
phương pháp hệ thống nhằm vào phân tích bối cảnh quốc gia có ảnh hưởng như thế nào đến
toàn bộ và một phần công việc nội trợ của người vợ và người chồng trong gia đình. Người
ta tranh luận rằng sự trao quyền cho phụ nữ ở cấp độ cao như vậy sẽ có thể mang lại kết quả
là một mô hình xuyên quốc gia ít được công bố về sự tham gia trong tương đối. Chúng tôi
phân tích việc phân chia công việc gia đình trên tầm vi mô phản ánh những nỗ lực tuyệt đối
của cả người vợ và người chồng như thế nào trong những phạm trù khác nhau của sự bất
bình đẳng về giới trên tầm vĩ mô. Từ đó chúng tôi đưa ra gợi ý rằng điều tra sự đóng góp
tổng thể và tương đối cùng với nhau có thể sẽ mang lại những hiểu biết sâu sắc hơn về cơ
chế ẩn chứa đằng sau việc bố trí và chia sẻ công việc gia đình của các cặp vợ chồng. Xét
trên một khía cạnh rộng lớn hơn thì nghiên cứu này kiểm tra giả thuyết tác động qua lại
trong sự bất bình đẳng giới ở cấp độ cao trên tầm vĩ mô làm giảm tác động của các nhân tố
ở cấp độ cá nhân như thế nào. Ngược lại với đòi hỏi “discount”, chúng tôi thấy rất ít lý do
để có thể mong đợi bất kỳ một tác động qua lại nào trong việc biến những nguyên tắc cơ
bản của đặc điểm cá nhân sang sự đóng góp tuyệt đối của người vợ hay người chồng. Và
chúng tôi đề xuất một chuỗi lý luận làm thế nào để cho hai nguyên lý cơ bản có vẻ như đối
lập với nhau này có thể hòa hợp, tương thích với nhau.

Những thảo luận trong bài báo này đưa đến một tranh luận rộng rãi về việc trao quyền cho
phụ nữ, và dựa trên mô hình giả định rằng sự bất bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị và
kinh tế có ảnh hưởng đến công việc nội trợ của nam giới và phụ nữ ở trong gia đình (Hook,

2006). Tuy nhiên thì chuỗi lý luận về nguyên nhân được nhìn nhận một cách quá đơn giản
và người ta cho rằng nó nên được đánh giá theo những giải thích mang tính chất phức tạp
hơn. Bằng cách làm như vậy, chúng tôi đã có thể kiểm tra sự phù hợp trong sự phát triển
kinh tế đất nước đồng thời điều tra được các sức ép kinh tế có tác động như thế nào đến sự
bất bình đẳng giới trên tầm vĩ mô. Hướng tiếp cận toàn diện này đã đưa ra khung chương
trình cho những giả thiết thử nghiệm về ảnh hưởng có thể của bối cảnh đất nước đến sự
đóng góp tuyệt đối của người vợ và người chồng theo những hướng khác nhau. Chúng tôi sẽ
lập luận rằng những nỗ lực trong công việc nội trợ của người phụ nữ sẽ trở nên nhạy cảm
hơn đối với việc trao quyền cho phụ nữ và nỗ lực của nam giới đối với các hoạt động tạo
dựng kinh tế thì lại trùng lặp với quan điểm của Baker (1981). Những phân tích mở rộng
trên nhiều cấp độ như vậy khi được áp dụng một cách cẩn thận đã tạo ra nền tảng cho những

3
lập luận mang sắc thái mới trong mối quan hệ giữa trao quyền cho phụ nữ trên cấp độ vĩ mô
và sự phân chia công việc nội trợ dựa trên nền tảng giới ở cấp độ vi mô.

Xem xét về mặt lý thuyết

Những cơ chế ở tầm vi mô

Xét trên cấp độ cá nhân thì hầu hết các nghiên cứu về công việc nội trợ đều dựa trên 3 hình
thái: relative resources, hệ tư tưởng giới và thời gian sẵn có. Tranh luận về relative
resources (Blood and Wolfe, 1960) quy sự phân chia lao động trong gia đình gắn với sự
thương lượng giữa vợ và chồng trong đó cả hai bên đều tận dụng hết tất cả các nguồn lực có
giá trị mà họ có thể để bảo vệ cho lợi ích của chính bản thân họ (Brines, 1993:307). Điều
này hàm ý rằng khi vợ chồng càng có nhiều nguồn lực thì điều đó có nghĩa là họ sẽ càng
được thảnh thơi hơn với các công việc nội trợ trong gia đình. Quan điểm dựa trên hệ tư
tưởng giới thì cho rằng đàn ông và phụ nữ được xã hội hoá theo những vai trò khác nhau về
giới và việc chăm sóc gia đình được tập trung nhiều hơn vào vai trò của người phụ nữ.
Chính vì vậy, bên cạnh vấn đề về giới thì những giá trị truyền thống cũng được cho là làm

tăng thêm thời gian dành cho công việc nội trợ và đồng thời nó cũng tạo ra sự phân chia bất
bình đẳng nhiều hơn trong gia đình. Ý kiến vùa rồi chính là kết quả của việc người vợ và
người chồng phân công trách nhiệm với nhau như thế nào trong gia đình, đặc biệt là trong
việc người nào có những nhu cầu chiếm nhiều thời gian hơn từ những công việc làm ngoài
gia đình (Kalleberg và Rosenfeld, 1990) hay nó còn được coi là một thuận lợi mang tính
chất so sánh ở trong thị trường lao động (Becker, 1981).

Ba khái niệm trung tâm liên quan đến những tác động mang tính chất giả định trong việc sử
dụng toàn thời gian và sử dụng tương đối số thời gian (Bianchi et al., 2000; Hook, 2006).
Để minh hoạ cho sự sẵn sàng về mặt thời gian của người vợ, việc đảm nhiệm các nhiệm vụ
khác ngoài gia đình sẽ tạo điều kiện cho người vợ dành ít thời gian cho công việc gia đình
hơn và có vẻ như là sự đóng góp tương đối của họ cũng thấp hơn, còn đối với những việc
khác thì vẫn cân bằng nhau. Trên cơ sở như vậy, chúng tôi mong chờ có những yếu tố mang
tính chất cá nhân có thể làm ảnh hưởng đến những nỗ lực tương đối và tổng thể theo một
hướng song song với nhau, cụ thể là nếu có ít việc nhà dành cho phụ nữ hơn thì sẽ làm giảm
sự đóng góp cuả họ trong khi ít việc nhà cho nam giới lại có xu hướng làm tăng sự đóng
góp của người phụ nữ.

Những cơ chế trên tầm vĩ mô

Những giải thích trên tầm vĩ mô cho rằng những áp lực về mặt cấu trúc và văn hoá đã hình
thành nên những cách thức mà trong đó các cặp vợ chồng thực hiện nghĩa vụ của họ (Geist,
2005). Theo cách này thì trao quyền cho phụ nữ xét trên phương diện quốc gia có thể ảnh
hưởng đến sự nỗ lực của đối tác của họ cũng như mức độ đóng góp trung bình đối với các
công việc nội trợ trong gia đình của người phụ nữ. (Blumberg, 1984; Batalova và Cohen,
2002; Yadanis, 2005).

Cũng giống như Fuwa (2004), chúng tôi cho rằng mức độ bình đẳng giới của một quốc gia
có thể liên quan đến những khía cạnh rộng lớn hơn thế
1

, điều này được thể hiện trong mức
lương của người phụ nữ, vị trí của họ trong công việc, con đường sự nghiệp của họ và địa vị
chính trị của họ cũng như là được thể hiện ở trong các hệ tư tưởng nổi bật về giới. Hơn thế



4
nữa, Hook (2006) đã tranh luận rằng vị trí của người phụ nữ trong xã hội bị cột chặt bởi
những nỗ lực chính trị của quốc gia trong các điều lệ, chính sách gia đình và các sáng kiến
về bình đẳng giới. Từ đó, bình đẳng giới trên tầm vĩ mô kéo theo nó là những cơ chế về mặt
cấu trúc trên diện rộng (Grommo và Lingsom, 1986; Gerson 1993; Iversen và Rosenbluth,
2006). Phát triển dựa trên phân tích của Hook (2006) về những công việc không hề được trả
lương này của nam giới, chúng tôi hy vọng rằng khi có ít sự bất bình đẳng hơn ở trong xã
hội thì sẽ dẫn đến việc người ta phải dành ít thời gian cho những nhiệm vụ thuộc về nội trợ
trong gia đình. Đi sâu hơn vào tranh luận, chúng tôi cho rằng chính những ảnh hưởng này
đã tác động đến cả hai giới, chính vì vậy mà ở những quốc gia có sự bình đẳng về giới hơn
thì cả người vợ và chồng đều dành ít thời gian hơn cho các công việc trong gia đình.
2

Những cơ chế ảnh hưởng đến nỗ lực tuyệt đối của cả hai vợ chồng có thể làm biến đổi
những mô hình xuyên quốc gia về đóng góp tương đối và đồng thời nó có thể giải thích cho
những phát hiện mâu thuẫn nhau về trao quyền cho phụ nữ - trong đó có mối quan hệ giữa
phân chia công việc gia đình được ghi lại trong tài liệu (Baxter, 1977; Batalova và Cohen,
2002; Fuwa, 2004; Yodanis 2005).

Sự tương tác qua lại giữa cấp độ vĩ mô và vi mô

Sự bất bình đẳng về giới trên cấp độ vĩ mô có thể tác động qua lại với các yếu tố cá nhân
trong phạm trù phân chia công việc nội trợ trong gia đình (Blumberg, 1984). Fuwa (2004)
cho rằng trong các điều kiện bối cảnh của đất nước ít mà có được sự trao quyền cho phụ nữ

thì tài sản cá nhân của phụ nữ có thể cũng không có ảnh hưởng gì nhiều lắm đến sự đóng
góp của họ. Ở các quốc gia Bắc Âu nơi có chủ nghĩa quân bình nhiều hơn thì những người
vợ vẫn có thể thương lượng để làm ít các công việc nhà hơn một cách có hiệu quả dựa trên
những đặc điểm trong phạm trù cá nhân của họ. Hiểu theo một chiều hướng nữa thì những
người phụ nữ ở các quốc gia ít có chủ nghĩa quân bình hơn thường phải làm ít việc nhà hơn
dựa vào tác động của những tài sản cá nhân mà họ có được.

Mặc dù có thể có những lập luận có lý về tác động trên tầm vĩ mô đến ảnh hưởng vi mô của
sự phân chia dựa trên khía cạnh giới đối với các công việc nhà, dường như người ta thấy
còn thiếu chứng cứ để chứng minh rằng những điều này có thể tạo ra sự chuyển biến từ
những đặc điểm cá nhân sang toàn bộ khối lượng công việc nhà. Thông thường thì chúng tôi
hy vọng sự sẵn có về mặt thời gian và thời gian dành cho việc nội trợ trong gia đình nhiều
hay ít cũng sẽ ở một tỷ lệ tương đương nhau bất kể bối cảnh trong nước là như thế nào. Tuy
nhiên thì một điều không chắc chắn sẽ thành hiện thực đó là phụ nữ ở những quốc gia có
chủ nghĩa quân bình kém hơn thì nên dành ít thời gian hơn cho công việc nội trợ theo những
quan điểm hiện đại về giới hay những nguồn lực về mối quan hệ mạnh mẽ. Cứ theo cái nền
tảng này thì chúng tôi không mong chờ bất kỳ một sự tương tác qua lại nào trong khối
lượng công việc nội trợ mà người chồng và người vợ sẽ phải gánh vác ở trong gia đình mặc
dù không cần thiết phải tranh luận xung quanh cái giả thuyết về “discount” đối với sự đóng
góp tương đối như vậy. Những nghịch lý như thế này vẫn có thể hoà giải được. Điều này
được bắt đầu bởi đòi hỏi rằng ảnh hưởng liên tục đến sự đóng góp tuyệt đối có thể có giá trị
khác trong những khái niệm truyền thống về sự chia sẻ công việc gia đình của người vợ,
dựa trên mức độ tham gia toàn bộ của cả vợ và chồng trong bối cảnh sẵn có của một quốc
gia. Phân tích tác động trên tầm vĩ mô đến ảnh hưởng tuyệt đối và tương đối trên cấp độ vi
mô sẽ cung cấp cơ sở để thử nghiệm kết quả của những tranh luận đã nêu trên.

Quan điểm/ triển vọng




5
Những phát hiện không tương thích nhau và những mô hình tác động mang tính hệ thống
trong tài liệu nghiên cứu nhấn mạnh vào những thách thức được phát hiện ra trong nghiên
cứu xuyên quốc gia liên quan đến sự hà khắc về chuẩn mực, hạn chế sự không sát thực và
siết chặt trật tự nhân quả (Yodanis, 2005). Những vấn đề này dường như bị phóng đại lên
khi có nghiên cứu về những mô hình tại nhiều quốc gia khác nhau trong đó các mô hình đã
biến đổi rất lớn theo tính chất lịch sử của kinh nghiệm, văn hoá và ngôn ngữ (Lee và Haas,
1993; Kittel, 2006; Mills et al., 2006)
3
. Trong những so sánh giữa các quốc gia với nhau,
nhà nghiên cứu sẽ phải dựa trên những chuẩn mực mà trong một số trường hợp có thể sẽ ít
có cơ sở hơn những phân tích thông thường cụ thể đối với từng quốc gia, và thường phải
đưa ra nhiều giả định mang tính chất suy đoán về cấu trúc nhân quả hơn là trong những
nghiên cứu truyền thống. Tóm lại, điều này hàm chứa rằng một hướng tiếp cận ít chặt chẽ
hơn có thể vẫn sẽ có nghĩa hơn trong những nghiên cứu như vậy. Chính vì vậy, chúng tôi đã
quyết định áp dụng một chiến lược phân tích mở, bắt đầu bằng một mô hình đơn giản về
ảnh hưởng trên tầm vĩ mô và vi mô và một chuỗi phân tích HLM, tránh những chi tiết phức
tạp của các cấu trúc nhân quả hoặc các mô hình khuôn khổ. Trong giai đoạn thứ hai, mô
hình này sau đó được mở rộng đến sự phát triển kinh tế trên tầm vĩ mô và sự trao quyền cho
phụ nữ.

Tranh luận trên đây đưa ra hai giả thuyết, một là công việc nội trợ mang tính tương đối và
giả thuyết thứ hai là công việc nhà mang tính tuyệt đối. Giả thuyết thứ nhất công nhận ảnh
hưởng của sự bất bình đẳng giới trên tầm vĩ mô đến sự phân chia công việc gia đình dựa
trên phạm trù giới trên tầm vi mô (tương đối) nói lên những cơ chế trên phạm trù cá nhân
và gợi ra sự tác động qua lại giữa hai cấp độ. Những giả định này là phù hợp với những
tranh luận đã nêu trong nghiên cứu gần đây (Fuwa, 2004) mặc dù họ cũng có nêu lên một số
câu hỏi theo lối kinh nghiệm và lý thuyết như đã lưu ý từ ngay đầu bài viết. Tuy nhiên, giả
thuyết thứ hai cho rằng những ảnh hưởng tương tự đến sự đóng tuyệt đối của vợ và chồng
liên quan đến ảnh hưởng trên tầm vĩ mô và các cơ chế ở cấp độ cá nhân (Hook, 2006), điều

đó nói lên rằng không có sự ảnh hưởng qua lại nào giữa các cấp độ dành cho công việc nội
trợ một cách tuyệt đối. Những giả thuyết sau này không được kiểm tra trước theo lối kinh
nghiệm trong khuôn khổ bối cảnh xuyên quốc gia trên diện rộng tương tự như vậy bởi vì
nguồn số liệu chính cho các nghiên cứu phù hợp trước đây (ISSP, 1994) không bao gồm
những thông tin về sự tham gia tuyệt đối.

Số liệu và phương pháp
Đầu tiên, những số liệu trong bài này được lấy từ chương trình điều tra xã hội quốc tế
(ISSP). Chương trình điều tra xã hội quốc tế là một khảo sát được tiến hành hàng năm tại
các nước trên thế giới. Bắt đầu từ năm 1986, mỗi năm người ta chọn một chủ đề khác nhau
coi như là một module để tập trung điều tra cùng với những chủ đề tiêu chuẩn làm nền tảng.
Những module được chọn làm chủ đề nghiên cứu chẳng hạn như thái độ đối với bất bình
đẳng, đặc điểm dân tộc và vai trò giới thường được lặp đi lặp lại thông thường theo chu kỳ
khoảng 5 đến 10 năm. Chúng tôi sử dụng số liệu từ năm 2002 với chủ đề Gia đình và thay
đổi vai trò giới III. Trong phần chính, module của năm 2002 lặp lại chủ đề nghiên cứu của
cuộc điều tra Gia đình và vai trò giới trong chương trình nghiên cứu xã hội quốc tế năm
1994. Những số liệu này sẵn có tại nguồn Zentralarchiv fur Empirische Sozialforschung, đại
học Cologne.
4

Số liệu từ chương trình điều tra xã hội quốc tế được thu thập từ khoảng 15 đến 20 nghìn
bảng hỏi được tiến hành cùng với những điều tra quốc gia thường xuyên hoặc tiến hành như
là một điều tra riêng biệt. Ban đầu, bảng hỏi được viết bằng tiếng Anh chuẩn và sau đó được
dịch ra ngôn ngữ của từng nước tiến hành điều tra. Tất cả các mẫu đều là mẫu có thể xảy ra.

6
Module năm 2002 được tiến hành ở 34 quốc gia là Australia, Áo, Brazil, Bulgaria, Chile,
Cyprus, Cộng hoà Séc, Đan Mạch, Đức, Anh, Phần Lan, Flanders, Pháp, Ailen, Hungary,
Israel, Nhật Bản, Latvia, Mexico, Had Lan, New Zealand, Bắc Ailen, Na Uy, Philipines, Ba
Lan, Bồ đào Nha, Nga, Slovenia, cộng hoà Slovakia, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Thuỵ Sỹ,

Đài Loan và Mỹ. Nghiên cứu này bao gồm những thành viên mà ở thời điểm nghiên cứu đã
lập gia đình hoặc chung sống với nhau như vợ chồng trong độ tuổi từ 25 đến 64 và trong số
các cặp vợ chồng với nhau thì chỉ có một người trả lời. Sau khi đã loại bỏ những trường hợp
không có đầy đủ số liệu về các biến số chủ yếu, nghiên cứu này đã sử dụng 17.496 trường
hợp. Cỡ mẫu cuối cùng biến đổi từ 320 (Bungary) đến 990 (Đài Loan).
5
Mặc dù không phải
là không có điểm yếu nhưng chương trình nghiên cứu xã hội quốc tế là một trong những bộ
số liệu ít ỏi cung cấp thông tin về khối lượng và sự phân chia công việc nội trợ trên diện
rộng đối với các nước công nghiệp phát triển. Vì module 2002 của chương trình nghiên cứu
xã hội quốc tế bao gồm cả những biến số dựa trên trách nhiệm được áp dụng trước đó cùng
với các quy chuẩn về việc sử dụng thời gian, chính vì vậy nó đã làm nền cho việc so sánh
cùng với những phát hiện trước đó cũng như là cho các phân tích mở rộng.

Phân tích đa cấp được tiến hành, sử dụng phần mềm HLM 6.0. Hướng tiếp cận như vậy có
vẻ rất hữu ích khi phân tích số liệu mà trong đó các cá nhân được phân vào thành những
nhóm lớn hơn. Phân tích HLM giúp người ta có thể tận dụng những ưu điểm của cấu trúc
tầng của số liệu bằng cách đồng thời điều tra ảnh hưởng của các biến số ở tầm vi mô và vĩ
mô trên quan điểm cá nhân, cùng lúc đó điều chỉnh sự tương quan có thể giữa những sai sót
do số liệu tầng mang lại (Hox, 1995). Vì thế mà trong phân tích dưới đây người ta kết hợp
cả hai cấp độ: cấp quốc gia và cấp cá nhân. Để khám phá những ảnh hưởng trên tầm quốc
gia, chúng tôi kiểm tra xem liệu phần mặt phẳng bị chắn của phương trình ở cấp độ cá nhân
có biến đổi so với mức độ bình đẳng giới của quốc gia như đã đưa ra trong tiêu chuẩn tạo
quyền giới của chương trình phát triển liên hiệp quốc hay không.Tất cả các biến số ở cấp
quốc gia và cấp cá nhân đều được tập trung vào ý nghĩa quan trọng của chúng bởi vậy mà
phần mặt phẳng bị chắn có thể đựơc hiểu là kết quả được đoán trước đối với một cặp vợ
chồng có các đặc điểm trung bình tại một quốc gia có số điểm tiêu chuẩn tạo quyền giới ở
mức trung bình. Mô hình cho phép các hệ số hồi quy của ba biến số chính ở cấp độ cá nhân
(thu nhập tương đối, thời gian sẵn có, thái độ giới) có thể biến đổi theo từng quốc gia và từ
đó có thể phát hiện ra được những ảnh hưởng tác động qua lại cụ thể giữa các yếu tố ở tầm

vĩ mô và vi mô. Các biến số điều khiển về tuổi tác, thời gian liên quan đến công việc của
người chồng, số con và sự giáo dục con cái được xem là những ảnh hưởng cố định trên mỗi
quốc gia. Những tỷ lệ tương tự cũng được áp dụng cho tuổi tác, giới (phụ nữ) và sự tương
tác giữa giới và thái độ về giới cũng được cho là phù hợp trong các nghiên cứu so sánh đã
có trong tài liệu.

Các biến số kết quả: Sự phân chia giới và khối lượng công việc nhà

Chiến lược nghiên cứu của chúng tôi cho phép sử dụng sự tham gia tổng thể và tương đối
của vợ và chồng như là những biến số độc lập trong chuỗi các phân tích đặc trưng HLM.
Bằng cách kiểm tra mô hình kết quả đối với tổng số thời gian sử dụng bên cạnh những tiêu
chuẩn dựa vào thời gian khi nói đến những đóng góp tương đối, chúng tôi hy vọng rằng sẽ
có một sự hiểu biết sâu sắc hơn về công việc nội trợ của các cặp vợ chồng trong những điều
kiện khác nhau của từng quốc gia khác nhau. Các nhà nghiên cứu trước đây bị giới hạn bởi
những số liệu sẵn có và tận dụng chương trình nghiên cứu xã hội quốc tế (ISSP). Bản chất
không đúng của phạm vi 5 điểm thứ tự được áp dụng đối với các chỉ số vốn có (luôn luôn là
phụ nữ, thường là phụ nữ, đồng đều, thường là nam giới, luôn luôn là nam giới) có thể rất
mơ hồ, khó hiểu trong nghiên cứu so sánh do vai trò khác nhau của từng quốc gia trong sự

7
khát khao về xã hội và sự tiêu chuẩn hoá liên quan đến các câu trả lời của người tham gia
(Hook, 2006:640). Bị giới hạn trong tiêu chuẩn tổng kết dựa trên nghĩa vụ về sự tham gia
làm các công việc nhà của phụ nữ, điều mà có thể làm méo mó những ảnh hưởng trên tầm
vĩ mô trong các nghiên cứu so sánh, điều này có thể xuất hiện khả năng đưa đến những phát
hiện không chính xác và mơ hồ, lưỡng nghĩa. Chính vì lý do này mà cần thiết phải có những
phân tích mở rộng đối với các số liệu quốc gia trên diện rộng cùng với những tiêu chuẩn bổ
sung cho sự tham gia tổng thể và tương đối vào các công việc nội trợ trong gia đình.

Những người tham gia vào chương trình điều tra xã hội quốc tế năm 2002 được hỏi câu hỏi
như sau: “trong gia đình của anh/chị thì ai là người làm những công việc sau đây…?” cùng

với các phạm trù câu trả lời như sau: luôn luôn là tôi (1), thường là tôi (2), trung bình thì cả
hai người cùng làm, thường là vợ/chồng tôi làm, luôn là vợ/chồng (5) của tôi làm, một
người khác.
6
Biến số này bao gồm các công việc nội trợ trong nhà và những công việc này
thường được nhắc tới như là “nhiệm vụ của phụ nữ”. Những công việc này có xu hướng trở
nên ngày càng tốn nhiều thời gian, không mấy dễ chịu, theo trình tự nhiều hơn và họ thường
không mấy thận trọng khi hoàn thành công việc (Baxter, 1997; Cotrane, 2000; Batalova và
Cohen, 2002). Biến số chia sẻ công việc gia đình được thiết kế từ đáp án cho những câu hỏi
liên quan đến 4 công việc như sau: giặt giũ, mua thực phẩm, chăm sóc người ốm trong gia
đình và nấu ăn.
7
Các câu trả lời có liên quan đến giới tính của người tham gia, được tính
tổng và chia cho số câu trả lời hoàn thiện và mức độ được tính từ 1 đến 5 với mức 5 là chỉ
số cho biết người vợ phải làm nhiều việc nhà hơn chồng. Chiến lược này đảm bảo chỉ số
công việc nội trợ gần nhất ở mức có thể đối với tiêu chuẩn được đưa ra bởi Batalova và
Cohen (2002) và khiến cho các phát hiện của chúng tôi có thể được so sánh với những phát
hiện trong nghiên cứu xuyên quốc gia gần đây trong tài liệu đã được đưa vào số liệu của
chương trình điều tra xã hội quốc tế năm 1994 (Fuwa, 2004; Yodanis, 2005).

Ngay sau đó, người tham gia được hỏi câu hỏi liên quan đến các công việc nhà cụ thể như
sau:

“Tính trung bình thì mỗi tuần, riêng bản thân anh/chị dành bao nhiêu giờ để làm việc nhà,
không kể việc chăm sóc con cái và thời gian dành cho các hoạt động nghỉ ngơi, giải trí?”

Tiếp theo đó là câu hỏi:

“Thế còn vợ/ chồng của anh/chị thì sao? Tính trung bình mỗi tuần, riêng bản thân chị ấy/anh
ấy dành bao nhiêu giờ để làm việc nhà không kể việc chăm sóc con cái và thời gian dành

cho các hoạt động nghỉ ngơi, giải trí?”

Thời gian dành cho công việc nội trợ của những người tham gia được ghi chép lại liên quan
đến giới tính của họ, cung cấp cơ sở cho những tiêu chuẩn về tổng số thời gian mà họ dành
cho các công việc gia đình. Như vậy, công việc nhà của người vợ và công việc nhà của
người chồng là biến số chỉ ra khối lượng thời gian mà mỗi người vợ hoặc chồng dành cho
những công việc đó theo từng tuần. Đưa ra chuỗi các câu hỏi như vậy, chúng tôi giả định
rằng công việc đưa ra sẽ cung cấp một cái khung cho các câu hỏi liên quan đến vấn đề thời
gian.

Bằng cách nhóm hai biến số sử dụng thời gian này với nhau, chúng tôi đã có thể cấu trúc
nên một tiêu chuẩn bổ sung về phân chia công việc nội trợ theo giới, trong trường hợp này
có thể gọi tên là sự đóng góp của người vợ - tức là chỉ ra tỷ lệ đóng góp của người vợ trong
tổng số thời gian mà cặp vợ chồng dành cho các công việc nội trợ trong gia đình. Chính vì

8
thế mà chương trình điều tra xã hội quốc tế 2002 áp dụng cả hai trường hợp công việc và
tiêu chuẩn dựa vào thời gian của sự tham gia một cách tương đối. Trong các nghiên cứu
trước đây, có thể người ta sẽ thích biến số dựa vào thời gian được sử dụng đã ghi chép lại
(Fuwa, 2004:755), tuy nhiên thì điều này lại không sẵn có ở trong module của chương trình
nghiên cứu xã hội quốc tế năm 1994. Tiếp cận của chúng tôi cung cấp cơ sở cho việc lặp lại
các phân tích cũng như là làm nổi bật các phân tích trước đó.
8

Đã có rất nhiều nghiên cứu và tranh luận về điều gì có thể đưa ra tiêu chuẩn tốt nhất về các
công việc nội trợ trong gia đình xét theo chiều hướng tổng thể và tương đối: những tiêu
chuẩn dựa trên nghiên cứu tự báo cáo hay nhật ký chi tiết về thời gian. Những ước tính cách
điệu hoá (dựa trên bảng hỏi) thường được xem là kém chính xác hơn so với những ước tính
dựa trên nhật ký thời gian (Bianchi et al., 2000; Kan, 2006; Hook, 2006); tuy nhiên thì
không có một sự nhất trí nào trong tài liệu cho rằng một tiêu chí này lại rõ ràng thuận lợi

hơn so với một tiêu chí khác (Kitterod và Lyngstad, 2005; Yadanis, 2005). Mặc dù cũng có
một số điểm yếu trong các tiêu chí của chúng tôi, nhưng các hướng tiếp cận tương tự vẫn
được sử dụng thường xuyên trong nghiên cứu xuyên quốc gia.

Bảng 1: Số liệu mô tả ở cấp độ cá nhân

Biến số
Mean
SD
Phân chia công việc nội trợ,
1-5 (5: người vợ làm tất cả)
3.90
0.69
Công việc nội trợ của người
vợ tính từng tuần tính theo
giờ
20.93
15.44
Công việc nội trợ của người
chồng tính từng tuần tính
theo giờ
7.66
9.19
Thu nhập tương đối 0-4
(4: vợ kiếm nhiều hơn rất
nhiều)
1.09
1.20
Thời gian sẵn có: Số giờ
làm việc theo từng tuần của

vợ
24.96
19.45
Tư tưởng giới 0-4
(4: tư tưởng chủ nghĩa quân
bình)
2.22
0.90
Giới tính: người tham gia là
phụ nữ =1, người tham gia
là nam giới = 0
0.55
0.50
Số giờ làm việc tính theo
từng tuần của chồng
41.43
16.48
Độ tuổi: trên 25 tuổi:0
(25)-39(64)
18.27
9.78
Giáo dục: không chính
thức=0, trình độ đại học=5
2.81
1.14
Con cái: con dưới 18 tuổi ở
nhà=1, khác=0
0.57
0.50



9
Số liệu thống kê mô tả cho các biến số kết quả được đặt ở đầu của bảng 1. Mean và SD cho
các chỉ số phân chia công việc nội trợ (dựa trên nhiệm vụ) gần như là giống với các phát
hiện dựa trên chương trình điều tra xã hội quốc tế năm 1994 (Batalova và Cohen, 2002:
747; Fuwa, 2004:756), có thể nó chỉ ra một tỷ lệ trung bình thấp hơn chút ít (sự bất bình
đẳng giới nhiều hơn) ở năm 2002. Những phân tích sâu hơn đã chỉ ra rằng bốn biến số kết
quả như mong đợi có liên quan với nhau ở cấp độ cá nhân: số giờ làm việc nhà của vợ theo
từng tuần có tương quan một cách tích cực đến sự chia sẻ công việc nội trợ (0.29) và sự
đóng góp của người vợ/ her share (0.38), trong khi đó sự tương quan giữa hai tiêu chí về
những tác động tương đối là 0.54. Số giờ làm việc nhà của người chồng tính theo tuần có
tương quan theo chiều hướng đối lập với các tiêu chí tương đối (-0.25,-0.61), trong khi đó
nó lại có tương quan một cách tích cực (0.23) với số giờ làm việc trong tuần của người vợ.

Các biến số độc lập ở cấp độ cá nhân

Có ba biến số độc lập ở cấp độ cá nhân. Do chương trình điều tra xã hội quốc tế không bao
gồm các thông tin phù hợp về thu nhập thực tế, cho nên người ta đã áp dụng biến số thu
nhập tương đối với câu hỏi: ‘Xem xét tất cả các nguồn thu nhập, thì giữa anh/chị và
vợ/chồng/đối tác của anh/chị ai là người có thu nhập cao hơn?” Phạm trù trả lời cho câu hỏi
này được xếp từ “vợ/chồng/đối tác của tôi không có thu nhập”(1), “tôi có thu nhập cao hơn
rất nhiều”(2)- cho đến “vợ/chồng/đối tác của tôi có thu nhập cao hơn rất nhiều”(6) và “tôi
không có thu nhập”(7). Câu trả lời là “không biết” được cho là có cùng giá trị với câu trả lời
‘chúng tôi có thu nhập bằng nhau”(4). Câu trả lời có liên quan đến giới tính của người trả
lời và được thay đổi tỷ lệ từ 0 đến 4 trong đó tỷ lệ ở mức 4 nói lên rằng người vợ có thu
nhập cao hơn rất nhiều so với chồng. Những cặp mà chỉ có 1 người có thu nhập thì được
cho điểm là 0 nếu như chỉ có người chồng làm việc và điểm 4 nếu như chỉ có người vợ làm
việc.

Biến số Thời gian sắn có dựa trên thông tin của người tham gia và vợ/chồng/đối tác của họ

dành cho các công việc trên thị trường lao động ở bên ngoài gia đình. Sau khi liên kết các
câu trả lời với giới tính của người trả lời, chúng tôi thấy xuất hiện hai biến song song thời
gian sẵn có (số giờ làm việc trong tuần mà người vợ thường làm trên thị trường lao động)
và số thời gian làm việc trong tuần của người chồng (thông thường người chồng dành bao
nhiêu thời gian để làm việc trên thị trường lao động ngoài gia đình). Biến đầu tiên là một
trong ba biến số giải thích tập trung ở cấp độ cá nhân, biến số sau đó được sử dụng như là
một biến điều khiển (xem dưới đây).

Hệ tư tưởng giới nghĩa là để phản ánh sự hỗ trợ của những người tham gia đối với một hệ tư
tưởng giới theo chủ nghĩa quân bình. Chỉ số thái độ này được dựa trên phản ứng đối với
những tuyên bố sau: “có công việc là tốt nhưng những cái mà hầu hết phụ nữ thật sự mong
muốn là có một gia đình và có con cái”, “làm nội trợ thì cũng chiếm nhiều thời gian chẳng
khác nào làm việc để kiếm sống”, “trách nhiệm của nam giới là làm việc và kiếm tiền còn
trách nhiệm của phụ nữ là chăm sóc gia đình”, “tóm lại là đời sống gia đình sẽ trở nên tồi tệ
hơn khi người phụ nữ có một công việc làm toàn thời gian”, và “một đứa trẻ chưa đến độ
tuổi đi học sẽ bị thiệt thòi nhiều hơn nếu mẹ của nó đi làm”. Phạm trù câu trả lời được sắp
xếp từ “rất đồng ý”(1) đến “rất phản đối”(5). Sau khi tính tổng và thay đổi tỷ lệ, chỉ số được
xếp hàng từ 0 đến 4, với điểm số càng cao thì sẽ hàm chứa thái độ càng tích cực đối với sự
bình đẳng giới.
9
Nghiên cứu trước đây đưa ra những ảnh hưởng khác nhau của định hướng
hệ tư tưởng đối với nam giới và phụ nữ và vì vậy chúng tôi tính đến cả một thuật ngữ về sự
tương tác qua lại (phụ nữ x hệ tư tưởng giới)


10
Cùng với ba biến số giải thích tập trung ở cấp độ vi mô này, những biến số khác cũng được
kể đến như là những biến điều khiển. Chúng tôi cũng đề cập đến số giờ làm việc trong từng
tuần trên thị trường lao động ngoài gia đình của người chồng. Những biến số khác như Tuổi
tác, Age squared như là ảnh hưởng không trực tiếp cũng có thể sẽ được xem xét (Batalova

và Cohen, 2002). Giới được đo đối với phụ nữ là 1 và đối với nam giới là 0 và chính vì vậy
nó bao gồm thêm một biến nữa gọi là biến Nữ giới. Lý do chính giải thích cho việc đưa yếu
tố giới vào phân tích này như là một biến số điều khiển là vì nghiên cứu trước đây đã tìm
thấy sự không thống nhất trong báo cáo của các cặp vợ chồng, đặc biệt là đối với sự phân
chia tương đối các công việc nội trợ trong gia đình (Kamo, 2000).

Trình độ giáo dục của những người tham gia được đo theo trình tự sắp xếp thứ tự từ “không
được giáo dục chính thức”(0) đến “học xong đại học”(5). Biến số Con cái chỉ ra xem những
người tham gia có con cái ở độ tuổi dưới 18 trong gia đình (1) hay là không có (0) dựa trên
những câu hỏi về thành phần gia đình. Một lần nữa, những nghiên cứu trước đây cho rằng
số con ảnh hưởng đến công việc nội trợ của cả vợ và chồng (Bianchi et al., 2000). Cùng với
những biến số điều khiển này, một chỉ số về sự chung sống chung thuỷ của đối tác cũng có
được ưu tiên xem xét (Batalova và Cohen, 2002). Tuy nhiên thì có một tiêu chí tin cậy
không sẵn có ở trong số liệu của chương trình điều tra xã hội quốc tế năm 2002. Các số liệu
thống kê mô tả cho các biến số giải thích ở cấp độ cá nhân được đưa ra ở trong bảng 1.

Biến số ở cấp độ quốc gia

Chúng tôi muốn đo mức độ trao quyền cho phụ nữ trên một phạm trù rộng lớn hơn, cũng
khái niệm hoá giống như là mức độ bình đẳng giới của một quốc gia (Fuwa, 2004). Về vấn
đề này, chúng tôi sử dụng tiêu chí bình đẳng giới từ báo cáo phát triển con người (2004) của
chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP). Tiêu chí bình đẳng giới nói tới mức độ
tham gia của phụ nữ vào các lĩnh vực chính trị, cơ hội chuyên môn, và sức mạnh kinh tế của
họ (UNDP, 2004). Cụ thể hơn, chỉ số tiêu chí bình đẳng giới được xây dựng từ sự kết hợp tỷ
lệ phần trăm số ghế trong quốc hội do phụ nữ chiếm giữ, tỷ lệ nữ tham gia vào các vị trí
điều hành, lãnh đạo, tỷ lệ cán bộ có trình độ và công nhân kỹ thuật là nữ và mức độ thu
nhập của nữ giới so với nam giới. Những nghiên cứu xuyên quốc gia gần đây đã giới thiệu
tiêu chí bình đẳng giới như là một chỉ số phù hợp nhất cho bình đẳng giới trên cấp độ vĩ mô
(Fuwa, 2004:756). Vì những lý do như vậy và cũng vì tính có thể so sánh được mà đầu tiên
chúng tôi tập trung vào biến số ở tầm quốc gia này trong các phân tích sau đây.

10
Tiêu chí
áp dụng dựa trên điểm số tiêu chí bình đẳng giới của UNDP trong vòng ba năm kể từ năm
2002 trở về trước. Với mục đích đơn giản hoá sự diễn giải trong phân tích đa cấp, chúng tôi
đã thay đổi tỷ lệ biến số này, giờ đây biến sẽ được sắp xếp bắt đầu từ 0 đối với những quốc
gia có điểm số chỉ tiêu bình đẳng giới thấp nhất (chẳng hạn như Nga hay Chile) đến biến số
1 cho những quốc gia có điểm số chỉ tiêu bình đẳng giới cao nhất (chẳng hạn như Na Uy và
Thuỵ Điển).
11
Số liệu mô tả ở cấp độ quốc gia được trình bày ở bảng 2 cùng với giá trị trung
bình cho bốn biến số kết quả Phân chia công việc nội trợ gia đình, công việc nội trợ của
phụ nữ, công việc nội trợ của nam giới, và chia sẻ công việc nhà của người vợ trong gia
đình.

Bảng 2: Số liệu thống kê mô tả ở cấp độ quốc gia

Quốc gia
Tiêu chí tạo
quyền về
giới của
UNDP, 0-1
Phân chia
trung bình
công việc
nhà
Số giờ trung
bình làm
việc nhà của
phụ nữ mỗi
Số giờ trung

bình làm
việc nhà của
nam giới
Sự đóng góp
trung bình
của phụ nữ
trong công

11
(1:MAX)
Cao: phụ nữ
làm nhiều
hơn
tuần
mỗi tuần
việc nhà của
cả hai vợ
chồng
Australia
0.77
3.88
21.30
8.45
0.67
Áo
0.78
4.07
22.13
6.27
0.77

Brazil
0.17
3.87
33.47
10.23
0.78
Bulgaria
0.10
3.93
21.44
10.15
0.69
Chile
0.06
4.00
38.32
9.35
0.80
Cyprus
0.26
4.07
18.71
4.66
0.81
Cộng hòa
Séc
0.32
4.06
23.32
10.43

0.71
Đan Mạch
0.83
3.73
12.90
7.03
0.66
Phần Lan
0.88
3.62
12.08
5.78
0.67
Flanders
0.63
4.03
22.25
7.82
0.75
Pháp
0.63
3.94
12.21
3.71
0.77
Đức
0.82
3.93
21.30
8.45

0.76
Anh
0.59
3.77
13.89
5.64
0.71
Hungary
0.17
4.06
24.59
9.32
0.74
Israel
0.38
3.81
17.43
5.77
0.74
Irealand
0.56
4.04
31.68
8.51
0.76
Nhật Bản
0.20
4.35
26.88
2.52

0.91
Latvia
0.28
3.79
18.50
11.05
0.64
Mexico
0.20
3.85
29.31
13.82
0.69
Had Lan
0.84
3.91
17.74
5.71
0.74
New
Zealand
0.79
3.83
14.53
5.68
0.71
Bắc Ailen
0.59
3.91
16.71

4.95
0.77
Na Uy
1.00
3.70
11.67
4.34
0.73
Ba Lan
0.21
3.91
20.23
12.06
0.64
Thổ Nhĩ Kỳ
0.51
4.05
24.05
5.72
0.80
Philipine
0.17
3.82
24.00
13.30
0.64
Nga
0.00
3.83
25.32

13.12
0.67
Cộng hoà
Slovakia
0.35
3.93
20.68
10.53
0.68
Slovenia
0.35
3.87
20.17
7.33
0.73
Tây Ban
Nha
0.65
4.00
29.38
7.21
0.78
Thuỵ Điển
0.98
3.63
14.63
7.59
0.66
Thuỵ Sỹ
0.68

3.90
22.12
6.12
0.77
Đài Loan
0.28
3.90
17.43
5.29
0.76
Mỹ
0.78
3.66
13.57
6.36
0.67
Tổng số
0.49
3.90
21.00
7.77
0.73

Những yếu tố khác ở tầm vĩ mô

Nghiên cứu này tập trung vào ảnh hưởng của sự bất bình đẳng giới về chính trị và kinh tế.
Tuy nhiên thì cũng có những yếu tố khác ở tầm vĩ mô như sự phát triển kinh tế, chế độ bảo
trợ xã hội, văn hoá và tiêu chuẩn giới có thể ảnh hưởng đến lao động nội trợ tương đối cũng
như là tổng thể. Trên thực tế thì những tác động về cấu trúc này có xu hướng xen lẫn nhau


12
khiến cho khó mà có thể chia tách các cơ chế hoặc các nguồn cụ thể theo khái niệm cũng
như theo cách truyền thống kinh nghiệm. Trong những nghiên cứu xuyên quốc gia về công
việc nội trợ trong gia đình, người ta đã đưa ra rất nhiều giải pháp cho thách thức này. Fuwa
(2004) những phân tích bổ sung của các biến số cạnh tranh trên tầm vĩ mô (tại một thời
điểm) có thể phân biệt được những phát hiện chính, tuy nhiên vẫn nhấn mạnh vào tác động
của bình đẳng giới trên cấp độ vĩ mô.
12
Trong nghiên cứu của mình về công việc không
được trả công này của nam giới, Hook (2006) khái niệm hoá bối cảnh quốc gia liên quan
đến các công việc và chính sách của phụ nữ như là một cơ chế chính nhưng không xem xét
sâu hơn về những giải thích cơ bản trên tầm vĩ mô.
13

Khi xem xét các mô hình xuyên quốc gia về lao động nội trợ trong gia đình trên diện rộng
(cả nỗ lực tương đối và tổng thể) thì người ta có thể tranh luận rằng mức độ kinh tế của một
quốc gia có thể được xem xét ít nhất như là một động lực bổ sung trên tầm vĩ mô cho việc
trao quyền cho phụ nữ. Bánh lái chính của công cuộc hiện đại hoá chính là sự phát triển của
nền kinh tế tiên tiến và các thể chế về chính trị, cái được cho là đã phân bổ nguồn lực và
quyền lực một cách có lý trí thay cho sự phân bổ chỉ dựa trên cơ sở quy đổ (Jackson, 1998).
Các thể chế hiện đại có thể không mấy quan tâm đến bình đẳng giới đến như vậy và do đó
nó có thể ảnh hưởng đến sự bất bình đẳng giới trên nhiều khía cạnh. Tuy nhiên sự phát triển
về kinh tế cũng hàm chứa theo nó là những công nghệ tiên tiến hơn, người ta có thể áp
dụng những thiết bị gia đình sao cho có thể tiết kiệm thời gian nhiều hơn bên cạnh nền kinh
tế dịch vụ hiện đại. Do vậy người ta hoàn toàn có thể tranh luận rằng một nền kinh tế phát
triển sẽ có ảnh hưởng đến khối lượng công việc nhà của các cặp vợ chồng.

Mặc dù theo truyền thống thì khó mà có thể gỡ rối được trật tự nguyên nhân của hiện tượng
tương quan ở cấp độ cao như vậy nhưng một mô hình kết hợp cả việc trao quyền cho phụ
nữ và phát triển kinh tế giống như là những yếu tố giải thích ở cấp độ vĩ mô có thể được

xem như là một hướng tiếp cận thực tế và mang lại kết quả nhiều hơn. Mong đợi thăm dò về
một phân tích mang tính chất phát hiện đó là bối cảnh quốc gia có thể ảnh hưởng đến công
việc không được trả lương của cả hai giới trong những chiều hướng khác nhau. Giả thiết
trong bối cảnh ý nghĩa của vai trò giới truyền thống (phụ nữ gắn liền với phạm vi gia đình
còn nam giới thì gắn liền với phạm vi kinh tế) trong xã hội công nghiệp hoá thì người ta có
thể tranh luận rằng những nỗ lực của người vợ ở trong gia đình có thể bị ảnh hưởng nhiều
hơn bởi sự trao quyền cho phụ nữ trên tầm vĩ mô trong khi những nỗ lực của người chồng
thì lại được tạo điều kiện nhiều hơn trong mức độ phát triển của nền kinh tế quốc gia.
Những mong đợi như vậy là tương thích với ý kiến của Baker về sự phân chia thời gian phù
hợp cho nam giới và phụ nữ. Những phân tích mở rộng vì thế mà có thể làm tăng hiểu biết
của chúng ta về mối quan hệ giữa công việc nội trợ tổng thể và tương đối trong phạm vi
khuôn khổ xuyên quốc gia. Mức độ phát triển kinh tế được đo bằng tổng sản lượng nội địa
của quốc gia trên đầu người. Để có được tính so sánh cho chỉ tiêu bình đẳng giới trong phân
tích đa cấp, tổng sản lượng nội địa đã được thay đổi tỷ lệ với mức từ 0 (thấp nhất) đến 1
(cao nhất). Điều này được tiến hành trên cả 34 quốc gia từ năm 1999 đến năm 2004, và lại
sử dụng báo cáo phát triển con người của chương trình phát triển liên hiệp quốc. Do vậy,
mức độ cuối cùng là mức trung bình cho khoảng thời gian tương đối là 2 năm.
14


Phân tích theo lối kinh nghiệm

Cột 1 ở bảng 2 chỉ ra rằng tính trung bình thì Phần Lan và Thuỵ Điển là hai quốc gia có chỉ
số phân chia công việc nhà (dựa trên trách nhiệm) theo chủ nghĩa quân bình nhiều nhất
(3,62 và 3,63) và Nhật Bản có chỉ số ít nhất (4,35). Điểm số ở mức 3 điểm chỉ ra mức độ
phân chia công việc đồng đều, như vậy có thể thấy là thậm chí ở các quốc gia có chủ nghĩa

13
quân bình cao nhất thì người vợ hiển nhiên là vẫn làm nhiều việc nhà hơn chồng. Ngoài ra,
những người vợ ở Chile có số điểm cao nhất trong việc dành thời gian cho các công việc gia

đình (38.2 giờ/ tuần) trong khi những người phụ nữ người Na Uy lại dành ít thời gian nhất
(11,7 giờ/ tuần). Những người chồng ở Mexico làm công việc nhà nhiều nhất (13.8 giờ/
tuần) trong khi các ông chồng người Nhật Bản lại dành ít thời gian nhất cho các công việc
này (2.5 giờ/ tuần). Chỉ cần nhìn thoáng qua thì người ta cũng nhận ra rằng có sự biến đổi
rất lớn trong nỗ lực toàn bộ của người vợ theo từng quốc gia khác nhau hơn là đối với người
chồng; con số trung bình của biến số dựa vào thời gian Đóng góp của người vợ (số giờ
trong tuần của người vợ được chia theo tổng số giờ của cả vợ và chồng) là 0.73, điều đó nói
lên rằng tính trung bình thì phụ nữ làm khoảng ba phần tư trong tổng số công việc nội trợ
trong gia đình, một con số trùng hợp với mức độ trung bình của chỉ số cho sự phân chia
công việc nội trợ dựa trên trách nhiệm đã được ghi lại. Điểm số cao nhất một lần nữa lại
thấy ở Nhật Bản và điểm số thấp nhất là ở Philipine, Đan Mạch và Thuỵ Điển.

Hai tiêu chí của sự tham gia tương đối trung bình của người vợ tương quan ở con số 0.74
(P<0.001), điều này chỉ ra rằng chúng trùng lặp với nhau về hiện tượng ở cấp độ vĩ mô.
15

Cùng lúc đó thì mức độ tương quan của việc phân chia dựa trên giới tính ở mức trung bình
và tiêu chí bình đẳng giới là -0.41 (P<0.05) và tương quan giữa Sự chia đóng góp của người
vợ và tiêu chí bình đẳng giới là -0.08, con số sau này không nổi bật về mặt thống kê ở bất
kỳ một mức độ quy ước nào. Mặc dù các dấu hiệu đều ở cùng một hướng nhưng đã có
những dấu hiệu từ nguồn dữ liệu cho thấy mối liên kết tổng thể giữa sự bất bình đẳng giới
trên cấp độ vĩ mô và sự đóng góp tương đối của người vợ có thể sẽ kém hệ thống hơn.
16

Cuối cùng, có một sự tương quan quan trọng giữa mức độ tiêu chí bình đẳng giới và số thời
gian trung bình trong tuần của người phụ nữ dành cho công việc nội trợ (-0.59, P<0.01)
cũng như là số thời gian trong tuần của nam giới dành cho việc nội trợ (-0.54, P<0.01), điều
này cho thấy rằng công việc nội trợ dành cho cả hai giới có chiều hướng đi cùng với sự bình
đẳng giới của quốc gia ở cấp độ cao. Sự tương quan giữa hai tiêu chí sau này là 0.47
(P<0.025).


Hình 1 phác hoạ thời gian dành cho công việc nội trợ đối với phụ nữ theo cấp độ tiêu chí
bình đẳng giới qua từng quốc gia. Sự trao quyền giới ở mức độ cao của quốc gia đi cùng với
việc người ta phải dành ít thời gian cho các công việc nội trợ hơn, và các quốc gia Bắc Âu
là điển hình ở vị trí thấp trong hình phác hoạ đó. Hình 2 giải thích thêm rằng việc sử dụng
thời gian trung bình dành cho công việc nhà của nam giới cùng biến đổi với việc sử dụng
thời gian của phụ nữ, hiện tại thì điều này xuất hiện ở các quốc gia Bắc Âu, bắc Ailen, Pháp
và các quốc gia khác ở góc trái thấp hơn của biểu đồ. Những người chồng ở Nhật Bản hiếm
khi làm bất kỳ một công việc nhà nào so với vợ của mình trong khi nam giới ở các nước
Philipine, Nga và Mexico thì lại làm tương đối nhiều việc nhà hơn.

Hình 1

Hình 2

Bảng 3: HLM cho cá nhân và các yếu tố quyết định ở cấp quốc gia đối với công việc nội trợ
của vợ và chồng


Phân chia công
việc nội trợ
Công việc nội trợ
hàng tuần của
người vợ
Công việc nội
trợ hàng tuần
của chồng
Đóng góp của
người vợ


hệ số
t-ratio
hệ số
t-ratio
hệ số
t-ratio
hệ số
t-ratio

14
Intercept
3.904
190.73
20.764
29.94
7.710
19.50
0.730
85.64
GEM

-0.131
-1.80
-11.544
-6.30
-5.555
-4.27
0.001
0.04
Thu nhập tương

đối








Intercept
-0.055
-7.49
-0.610
-6.44
0.556
7.51
-0.021
-10.61
GEM
-0.057
-2.31
0.290
0.90
-0.298
-1.08
-0.018
-2.78
Thời gian sẵn










Intercept
-0.005
-11.40
-0.166
-9.86
0.016
3.56
-0.002
-11.93
GEM
-0.003
-1.73
0.019
0.35
-0.022
-1.16
0.000
-0.79
Hệ tư tưởng
giới









Intercept
-0.066
-5.64
-1.859
-7.27
0.168
1.29
-0.022
-6.70
GEM
-0.073
-3.41
-0.121
-0.15
0.533
1.54
-0.019
-2.38
Phụ nữ
0.415
6.91
0.776
1.19
-1.378
-3.86

0.056
5.61
Phụ nữ và hệ tư
tưởng giới
-0.030
-1.61
0.116
0.53
-0.071
-0.51
0.004
1.22
Thời gian làm
việc của chồng
0.004
5.73
0.040
3.87
-0.048
-5.74
0.001
7.50
Độ tuổi
0.013
5.47
0.256
7.74
0.045
1.45
0.002

3.62
Agesq
0.000
-2.31
-0.003
-3.28
-0.001
-0.95
0.000
-1.02
Con cái
0.070
4.52
2.243
8.08
0.391
2.12
0.020
6.66
Giáo dục
-0.055
-6.38
-1.112
-5.20
-0.180
-1.63
-0.010
-3.18

Ghi chú: tiêu chí bình đẳng giới, chỉ số tạo quyền giới của UNDP: critical t-value (P<0.05,

one sided) đối với những ảnh hưởng ở tầm quốc gia và những ảnh hưởng qua lại xấp xỉ
1.70. Final estimation with robust SEs.

Trong bảng 3, người ta báo cáo một chuỗi HLM cùng với ước tính cuối cùng và những thiếu
sót về chất lượng. Trong mỗi một mô hình này, biến số ở trên tầm vĩ mô (tiêu chí bình đẳng
giới) và các biến số giải thích ở tầm vi mô (thu nhập tương đối, thời gian sẵn có, hệ tư
tưởng giới, plus controls) vẫn như vậy trong khi sự chia sẻ công việc nội trợ dựa trên trách
nhiệm, công việc nội trợ của vợ theo tuần, công việc nội trợ của chồng theo tuần, và cuối
cùng là sự đóng góp của người vợ vào tổng số công việc nội trợ là các biến phụ thuộc trong
phân tích tiếp theo. Để thảo luận tập trung, những thành tố biến đổi không được báo cáo ở
đây.
17
Chúng tôi cũng giới hạn trình bày để hoàn thiện mẫu (nghĩa là không báo cáo kết quả
từ những phân tích bậc thang)

Mô hình bao gồm những ảnh hưởng chỉ tiêu bình đẳng giới trên phần mặt phẳng bị chắn và
trên phần dốc của ba biến số trung tâm ở cấp độ cá nhân. Bắt đầu từ cột thứ nhất, hệ số tiêu
cực đối với chỉ tiêu bình đẳng giới (-0.131) trên phần mặt phẳng bị chắn đối với sự phân
chia về giới là (vừa đủ) đáng kể ở mức 0.05.
18
Điều này cho thấy rằng những cặp vợ chồng
ở các quốc gia có chủ nghĩa quân bình về giới cao nhất có xu hướng phân chia các công
việc nội trợ trong gia đình theo chủ nghĩa quân bình nhiều hơn ở mức 0.131 (trong phụ lục
dựa trên trách nhiệm), vẫn giữ nguyên những đặc trưng cá nhân của chúng. Hệ số phần mặt
phẳng bị chắn đối với ba biến số chính ở cấp độ cá nhân là Thu nhập tương đối, thời gian
sẵn có và hệ tư tưởng giới đều mang tính tiêu cực và rõ ràng là mang ý nghĩa thống kê quan
trọng, điều này nói lên rằng đối với những người vợ có thu nhập cao hơn chồng hay có ít

15
thời gian do làm các công việc làm ngoài xã hội thì đóng góp của họ cho công việc nội trợ ở

một mức độ kém cân bằng hơn so với chồng của họ. Một hệ tư tưởng giới theo chủ nghĩa
quân bình cũng liên quan đến việc người phụ nữ làm tương đối ít các công việc ở nhà hơn.
Hơn nữa, tác động tiêu cực của tiêu chí bình đẳng giới đến những ảnh hưởng biến đổi cá
nhân, tất cả ba tác động qua lại đều có ý nghĩa thống kê quan trọng mặc dầu hệ số dành cho
thời gian sẵn có là tương đối gần với điểm giới hạn theo lối cổ truyền. Vì thế mà ba yếu tố
trung tâm ở cấp độ cá nhân là có hiệu quả hơn trong việc đạt được sự phân chia công việc
nhà theo chủ nghĩa quân bình cao hơn tại các quốc gia có sự bình đẳng giới cao hơn.

Ban đầu, chúng tôi xem những kết quả này là rất quan trọng vì chúng phù hợp với những
phát hiện trong các nghiên cứu trước đây. Đặc biệt nhất là điều này ảnh hưởng đến phân
tích của Fuwa (2004) dựa trên các số liệu đã có từ chương trình điều tra xã hội quốc tế trước
đây vào năm 1994 với các biến số so sánh và mô hình phân tích tương tự. Tuy nhiên thì
người ta cũng chú thích rằng ảnh hưởng của tiêu chí bình đẳng giới là khá nhỏ trong bối
cảnh biến đổi giữa các quốc gia về biến số phân chia công việc gia đình, và ảnh hưởng của
nó là không rõ ràng xét trong phạm vi thống kê.

Cột tiếp theo báo cáo kết quả mô hình tương đương với mô hình trước nhưng trong cột này
thì việc sử dụng thời gian theo tuần của người vợ là một biến số phụ thuộc. Đầu tiên, ảnh
hưởng trên tầm vĩ mô của chỉ tiêu bình đẳng giới đến số thời gian làm việc nhà của phụ nữ
là rất rõ ràng, điều này cho thấy ảnh hưởng mạnh mẽ và mang tính chất hệ thống đối với sự
tham gia toàn bộ của người vợ. Trong khi số liệu thống kê về thời gian trung bình mà các bà
vợ dành cho việc nội trợ trên cả 34 quốc gia tiến hành điều tra là 20.8 giờ thì sự khác biệt
ước tính giữa các quốc gia có tiêu chí giới cao và thấp lại ở mức khoảng 11.5 giờ, điều đó
nói lên sự khác biệt đặc trưng trong đặc điểm cá nhân của từng nước. Đối với các biến số
quan trọng tập trung vào ý nghĩa, điều này nói lên rằng phụ nữ ở các nước có sự bất bình
đẳng nhất về giới phải dành trung bình khoảng 26.5 giờ (20.8 + 11.5/2) giờ trong tuần để
làm các công việc nhà trong khi phụ nữ ở các quốc gia có ít bất bình đẳng về giới hơn thì
dành khoảng 15 giờ (20.8 – 11.5/2). Thêm vào đó, ba biến số giải thích chính ở cấp độ cá
nhân ảnh hưởng một cách có hệ thống đến việc sử dụng thời gian của những người phụ nữ
trong khuôn khổ một quốc gia. Những yếu tố như thu nhập tương đối cao hơn, ít thời gian

sẵn có hơn, ít các giá trị giới truyền thống hơn đều làm giảm thời gian dành cho các công
việc nội trợ trong gia đình. Hơn thế nữa, những ảnh hưởng của các biến số điều khiển mô tả
mô hình tương tự giống như sự phân chia công việc nội trợ dựa trên trách nhiệm mà đã
được thảo luận trước đó. Như thế, những kết quả này chỉ ra sự ảnh hưởng đến việc phân
chia lao động nội trợ trong gia đình và sự tham gia toàn bộ của người vợ như là những cơ
chế song song ở cấp độ cá nhân.

Tuy nhiên, có một sự khác biệt đáng kể giữa mô hình kết qủa đối với cả hai: nhìn vào t-
value rất thấp của tác động tiêu chí bình đẳng giới đến ba ảnh hưởng tập trung ở cấp độ cá
nhân thì không có một ảnh hưởng qua lại nào có thể nhận thấy do các nhân tố ở tầm vĩ mô
và vi mô mang lại đối với thời gian của người phụ nữ dành cho công việc nội trợ. Do đó,
đối với những người vợ xét trên cấp độ cá nhân thì thu nhập tương đối, thời gian sẵn có và
thái độ giới được chuyển sang số giờ trung bình họ dành cho công việc nội trợ cũng theo
cách như vậy, không kể họ sống ở quốc gia có sự bình đẳng giới nhiều hay ít. Tác động
quan trọng của việc trao quyền giới ở cấp độ vĩ mô đối với những ảnh hưởng của các yếu tố
cá nhân đến sự phân chia công việc nội trợ như vậy là không hề song song với nhau khi nói
đến sự đóng góp tuyệt đối của người phụ nữ. Phát hiện này sẽ được bình luận chi tiết hơn ở
phần dưới đây.


16
Chuyển sang cột 3 (công việc nội trợ theo tuần của người chồng), người ta lại thấy xuất hiện
một mô hình gây ấn tượng. Hiển nhiên, tất cả đàn ông trên thế giới đều làm ít việc nhà hơn
phụ nữ: trung bình họ chỉ làm 7.7 giờ trong một tuần. Tuy nhiên thì vẫn có sự khác biệt
khoảng 5.6 giờ (P<0.0001) giữa những nỗ lực của nam giới ở các quốc gia có tiêu chí bình
đẳng giới cao (4.9) so với nam giới sống ở các quốc gia có tiêu chí bình đẳng giới thấp
(10.5). Đối với nam giới thì thu nhập tương đối và thời gian sẵn có là những tác động rõ
ràng nổi bật. Tuy nhiên, nhìn theo chiều hướng ngược lại thì nó lại phản ánh mô hình dành
cho phụ nữ; thu nhập tương đối cao hơn và ít thời gian sẵn có hơn đối với phụ nữ khiến cho
chồng của họ phải làm nhiều việc nhà hơn mặc dù cho đến nay thì dường như vẫn chưa có

một ảnh hưởng nào đáng kể mang ý nghĩa thống kê về thái độ giới. Chúng tôi lưu ý rằng đối
với nam giới không có tác động qua lại nào đáng kể giữa mức độ tiêu chí bình đẳng giới ở
cấp vĩ mô và những yếu tố giải thích chính ở cấp độ cá nhân do ảnh hưởng của thời gian
dành cho lao động nội trợ.
19
Kết hợp lại với nhau thì có thể thấy rằng những ảnh hưởng ở
cấp độ vĩ mô và cá nhân đối với người chồng và người vợ đã chứng minh rằng công việc
nội trợ tuyệt đối và tương đối của các cặp vợ chồng được hình thành nên trên những quy
trình rất phức tạp.

Cột cuối cùng (đóng góp của người vợ) chỉ ra kết quả của mô hình HLM tương tự như trước
đây, và trong cột này thì tiêu chí về nỗ lực tương đối của người vợ dựa trên thời gian được
coi là một biến phụ thuộc. Một lần nữa, người ta lại nhắc lại rằng tính trung bình thì người
phụ nữ phải làm gần như là ba phần tư trong tổng số công việc nội trợ do ước tính trên phần
mặt phẳng bị chắn có giá trị là 0.73. Hơn nữa thì người ta không tìm ra tác động ở tầm vĩ
mô của chỉ tiêu bình đẳng giới đối với sự đóng góp tương đối của phụ nữ hay có thể thấy từ
t-value gần bằng 0 trong hàng mặt phẳng bị chắn đầu tiên. Kết quả này biến đổi từ xu hướng
phân chia công việc nội trợ dựa trên trách nhiệm được báo cáo ngày từ đầu của bài viết này,
mặc dù xem xét cùng với nhau nhưng những kết quả này vẫn đưa lại những kết quả yếu và
không phù hợp trong các tài liệu. Hơn thế nữa, những ảnh hưởng chính của ba biến số giải
thích tập trung trên cấp độ cá nhân về Thu nhập tương đối, thời gian sẵn có và hẹ tư tưởng
giới đều chỉ ra những ảnh hưởng rõ ràng mang tính thống kê theo cùng một chiều hướng
như đã quan sát từ những cột đầu tiên cho sự phân chia dựa trên quyền đã được báo cáo. Do
đó những ảnh hưởng chính ở cấp độ cá nhân trùng hợp với hai tiêu chí về sự đóng góp
tương đối của phụ nữ, một mô hình mà đã được nhấn mạnh hơn bằng những kết quả xấp xỉ
tương tự đối với các biến số điều khiển. Chúng tôi đánh giá việc này giống như một thử
nghiệm mạnh mẽ đến ảnh hưởng của những yếu tố tập trung ở cấp độ cá nhân đến sự phân
chia công việc nội trợ trong gia đình. Cuối cùng, chúng tôi phát hiện có những ảnh hưởng
qua lại quan trọng ở cấp độ vi mô và vĩ mô đối với hai biến số chính ở cấp độ cá nhân (thu
nhập tương đối, hệ tư tưởng giới), trong khi biến số không nổi bật khác (thời gian sẵn có)

thì vẫn có những biểu hiện tương tự và song song với ảnh hưởng mang tính thống kê không
rõ ràng nhất ở ngay từ đầu (sự phân chia công việc gia đình). Trong chừng mực này, chúng
tôi thấy rằng kết quả đối với những nỗ lực tương đối đã hỗ trợ cho giả thiết tác động qua lại
và ý tưởng “discount” effect đối với phụ nữ trong môi trường không có chủ nghĩa quân bình
nhiều hơn.

Những cơ chế bổ sung ở cấp vĩ mô: phát triển kinh tế

Như đã tranh luận từ đầu, việc thêm vào yếu tố phát triển kinh tế của các quốc gia có thể
giải thích cho sự khác biệt giữa các nước trong ảnh hưởng của các đặc điểm cá nhân, và vì
thế nó cung cấp một mô hình hoàn chỉnh hơn và cũng có thể là thực tế hơn. Bảng 4 chỉ ra
kết quả HLM đối với một mô hình mà có cả tiêu chuẩn GDP (tiêu chuẩn) và tiêu chí bình
đẳng giới như là các biến số ở cấp độ vĩ mô. Bảng 4 cũng có cấu trúc giống bảng 3 và kết

17
quả cũng được dựa trên mô hình song song. Tuy nhiên thì chỉ có các ảnh hưởng ở trên tầm
vĩ mô là được báo cáo trong bảng này. Hai biến số quốc gia tương quan với nhau ở mức độ
khá cao bởi vì chúng có đến hai phần ba biến tương đồng. Phân tích HLM trong bảng 4 này
do đó có thể được xem như là những thăm dò và phát hiện thận trọng. Nghĩ như vậy, mô
hình kết quả dường như là vẫn phù hợp khi chúng cung cấp cơ sở cho sự diễn giải mang
nhiều sắc thái hơn cho những kết quả được phác hoạ trong bảng 3.

Bảng 4: HLM mở rộng với sự trao quyền giới và sự phát triển kinh tế là các biến số ở tầm vĩ



Phân chia công
việc nội trợ
Công việc nội trợ
hàng tuần của

người vợ
Công việc nội trợ
hàng tuần của
chồng
Đóng góp của
người vợ

Hệ số
t-ratio
Hệ số
t-ratio
Hệ số
t-ratio
Hệ số
t-ratio
Intercept
3.903
214.46
20.769
29.73
7.728
24.88
0.730
112.52
GEM
-0.360
-2.96
-8.990
-3.23
0.615

0.34
-0.153
-3.34
GDP
0.294
2.17
-3.277
-1.17
-7.917
-3.89
0.196
3.82
Ghi chú: GEM, tiêu chí trao quyền giới của UNDP, GDP tổng sản lượng nội địa, tổng sản
lượng nội địa trên đầu người, các biến số khác cũng giống như trong bảng 3, ảnh hưởng
không được chỉ ra. Critical value đối với ảnh hưởng ở cấp độ quốc gia và ảnh hưởng tương
tác: xấp xỉ: 1.70. Final estimation with SEs.

Nhìn vào khối lượng công việc nhà như là những biến số kết quả, người ta quan sát thấy
rằng sự tham gia tổng thể của các cặp vợ chồng bị ảnh hưởng lần lượt bởi tiêu chí bình đẳng
giới GEM và tổng sản lượng nội địa GDP một cách khác nhau. Một mặt, người ta xét thấy
có ảnh hưởng nổi bật mang tính thống kê của tiêu chí bình đẳng giới đến thời gian dành cho
công việc nội trợ của phụ nữ, tuy nhiên thì ảnh hưởng đối với thời gian làm việc nhà của
người chồng lại không mấy nổi bật. Mặt khác thì GDP lại ảnh hưởng lớn đến thời gian làm
việc nhà của người chồng mà lại không ảnh hưởng đến thời gian của người vợ. Những phát
hiện này là phù hợp với những tranh luận mà nhấn mạnh vào tính quan trọng của vai trò
giới truyền thống trong việc phân bổ thời gian một cách hợp lý, thậm chí ngay cả ở trong
những xã hội hiện đại: ở những quốc gia ít có sự bất bình đẳng về giới hơn thì phụ nữ cũng
làm ít việc nội trợ hơn (GDP controlled for), trong khi ở những quốc gia có mức độ phát
triển kinh tế cao hơn thì nam giới lại làm ít công việc nhà hơn (for constant GEM levels).
Sau đó nhìn vào hai tiêu chí tương đối (phân chia công việc nội trợ, sự đóng góp của người

vợ) như là những biến số kết quả, người ta có thể phát hiện ra những mô hình ảnh hưởng
tương tự trong cả hai trường hợp. Cả tiêu chí bình đẳng giới GEM và tổng sản lượng quốc
nội GDP đều chỉ ra những ảnh hưởng quan trọng đối với khối lượng công việc nội trợ tương
đối, tuy nhiên những ảnh hưởng này lại ở chiều hướng đối lập. Trong khi sự trao quyền giới
ở mức độ cao như vậy có xu hướng làm giảm đi sự đóng góp tương đối của người vợ thì sự
phát triển kinh tế ở mức độ cao lại có chiều hướng làm tăng sự đóng góp này.

Mô hình lớn hơn này được diễn giải theo hai chiều hướng bổ sung. Đầu tiên, xem xét nỗ lực
toàn bộ và tương đối cùng với nhau thì có thể thấy là ảnh hưởng tiêu cực của tiêu chí bình
đẳng giới GEM đến công việc nội trợ tương đối chủ yếu nói lên rằng phụ nữ làm ít hơn khi
mà sự có ít sự bất bình đẳng giới lớn hơn. Trong khi đó thì ảnh hưởng tích cực của tổng sản
lượng quốc nội GDP phần lớn lại phản ánh việc nam giới làm ít hơn khi nền kinh tế đã phát
triển ở mức cao hơn. Thứ hai, khi so sánh các phát hiện trong bảng 3 và 4 thì kết quả cho
thấy được mức độ ảnh hưởng là yếu trên tầm vĩ mô và vi mô đối với sự phân chia công việc
nội trợ theo giới. Bảng 4 cho thấy có một ảnh hưởng nổi bật và mang tính hệ thống của tiêu

18
chí bình đẳng giới GEM khi mà tổng sản lượng quốc nội GDP điều khiển; tuy nhiên nếu
không có sự điều khiển của tổng sản lượng quốc nội thì ảnh hưởng này dường như trở nên
kém rõ ràng (bảng 3). Hiển nhiên là những cơ chế phản ánh suppressor effect vẫn còn ở
đằng sau mô hình yếu hơn trong phân tích đơn giản hơn ở bảng 3: tiêu chí bình đẳng giới
GEM có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phân chia tương đối các công việc nhà theo giới; tuy
nhiên thông qua sự tương tác (lớn) với tổng sản phẩm quốc nội và những ảnh hưởng ngược
lại của nó, ảnh hưởng thực tế sẽ giảm xuống mô hình đơn giản hơn. Mặc dầu có thể là mang
tính chất phỏng đoán, nói trong khuôn khổ đặc điểm số liệu của chúng ta, thì những phát
hiện này ít nhất đã gợi ý một số cách diễn giải mới và đáng tin cậy về mối liên kết có vẻ như
yếu và một phần nào đó không phù hợp giữa sự trao quyền cho phụ nữ trên cấp độ vĩ mô và
sự phân công việc nội trợ theo giới trên cấp độ vi mô đã được ghi lại trong tài liệu.

Kết luận và thảo luận


Trong khuôn khổ khung phân tích được so sánh với những khung phân tích trong những
nghiên cứu phù hợp trước đây (Batalo và Cohen, 2002:751; Fuwa, 2004; Yodanis,
2005:654), hy vọng về một mối liên hệ giữa bình đẳng giới trên cấp độ vĩ mô và sự phân
chia công việc nội trợ ở cấp độ vi mô đã bước đầu được khẳng định: (i) trao quyền cho phụ
nữ đã mang lại tác động, mặc dù tác động của nó là yếu và không phù hợp, (ii) các yếu tố vi
mô đóng một vai trò quan trọng trong bối cảnh quốc gia, và (iii) sự tương tác giữa cấp độ vĩ
mô và vi mô đã xuất hiện – trong việc hỗ trợ cho giả thiết “discount”.

Thứ hai, có những tác động mang tính hệ thống của việc trao quyền cho phụ nữ đến thời
gian dành cho công việc nội trợ của các cặp vợ chồng theo từng quốc gia. Như vậy, bối
cảnh quốc gia cần thiết - mối liên hệ công việc nội trợ đầu tiên là sự đóng góp tuyệt đối của
người vợ và người chồng, một mối liên kết có thể một phần nằm ở sau mô hình xuyên quốc
gia ít phù hợp hơn đối với sự phân chia tương đối. Hơn thế nữa, có những ảnh hưởng nổi
bật của biến số trung tâm ở cấp độ cá nhân là Thu nhập tương đối, thời gian sẵn có, và hệ tư
tưởng giới tác động lên các cặp vợ chồng, cùng với mô hình tác động đối với vợ và chồng
phản chiếu lẫn nhau.

Thứ ba, bất bình đẳng giới và những yếu tố cá nhân không chỉ ra sự tương tác nào nổi bật
mang tính thống kê trong ảnh hưởng phối hợp của nó đến tổng khối lượng tuyệt đối công
việc không được trả lương của nam giới và phụ nữ. Những biến số tập trung giải thích ở cấp
độ cá nhân vì thế mà có xu hướng được chuyển thành thời gian dành cho công việc nội trợ
của vợ và chồng ở một tỷ lệ gần như là giống nhau và không dựa vào mức độ tiêu chí bình
đẳng giới của các quốc gia. Ngay từ đầu thì phát hiện này đã có vẻ như là mâu thuẫn với giả
thuyết “discount”. Tuy nhiên, chúng tôi đưa ra một giải thích thăm dò để làm thế nào cho cả
hai mô hình cùng hợp lý. Điều này dựa trên quan sát rằng tỷ lệ tương đối giống nhau, chẳng
hạn khoảng 0.75, tính trung bình sẽ tạo nên sự khác nhau trong khối lượng thời gian mà
người chồng và người vợ dành cho công việc nội trợ trong gia đình. Tóm lại, đối với các
quốc gia Bắc Âu có tiêu chí bình đẳng giới cao thì thời gian tham gia công việc nhà của cả
nam và nữ là thấp trong khi đối với các quốc gia có tiêu chí bình đẳng giới thấp như Nga thì

sự tham gia lại là cao. Chẳng hạn đối với thu nhập tương đối của phụ nữ, một ảnh hưởng
không thay đổi sẽ có sức nặng khác trong tỷ lệ này trong hai trường hợp. Đối với những thứ
khác cân bằng nhau thì thì sự khác biệt về mặt thời gian tương tự như vậy giữa những người
có thu nhập thấp và người có thu nhập cao ít nhiều cũng sẽ ảnh hưởng đến sự đóng góp
tương đối ở những quốc gia nơi mà sự không có chủ nghĩa quân bình là ít hơn. Mặc dù với
những giải thích sơ bộ ban đầu như vậy, lập luận này ít nhất cũng gián tiếp gợi ý đến sự liên
kết giữa những ảnh hưởng không tương tác trên tầm vĩ mô đối với sự tham gia toàn bộ của

19
người phụ nữ ở một mặt nào đó, và ảnh hưởng tương tác quan sát được đến sự đóng góp
tương đối đến công việc nội trợ đối với người khác.
20


Thứ tư, phát triển kinh tế được coi như là một yếu tố giải thích bổ sung ở trên tầm vĩ mô
cung cấp một mô hình nhân quả toàn diện hơn, tuy nhiên cùng lúc đó thì nó cũng mang lại
những thách thức về mặt khái niệm và thống kê. Bản thân một mô hình phức tạp không thể
nào giải quyết được câu hỏi vốn có về quan hệ nhân quả. Tuy nhiên phân tích HLM mở
rộng có thể lập luận bổ sung vào do nó cho phép ước tính tác động của tiêu chí bình đẳng
giới đối với mức độ không thay đổi của tổng sản lượng quốc nội. Một tác động rõ rệt của
việc trao quyền cho phụ nữ đến sự phân chia công việc nội trợ theo giới xuất hiện khi sự
phát triển của nền kinh tế được điều khiển, phản ánh một phần tác động của tiêu chí bình
đẳng giới và tổng sản lượng quốc nội theo các chiều hướng trái ngược nhau. Trong quan
điểm của chúng tôi những phân tích mở rộng có thể mô tả một bức tranh cụ thể hơn về ảnh
hưởng thực tế của tiêu chí bình đẳng giới hơn là những hướng tiếp cận đơn giản hơn. Hơn
thế nữa, sự đóng góp của người vợ đầu tiên bị ảnh hưởng bởi tiêu chí bình đẳng giới trong
khi những đóng góp của chồng thì có vẻ như là nhạy cảm hơn đối với các chỉ số về tổng sản
lượng quốc nội. Một giải thích mang nhiều sắc thái cho thấy những khía cạnh khác nhau về
bối cảnh quốc gia có thể diễn giải như thế nào sang kết quả ở cấp độ cá nhân. Cuối cùng,
các phân tích mở rộng (không được báo cáo ở đây) trong đó bao gồm cả tổng sản lượng

quốc nội cho phép người ta mong đợi có một ảnh hưởng “discount” dành cho những nỗ lực
tương đối và không có sự tác động qua lại nào của những đóng góp tuyệt đối. Chúng tôi đã
thấy mô hình như vậy trong hỗ trợ để tìm ra giải pháp thăm dò cho vấn đề khó giải quyết
này như đã trình bày từ đầu bài viết này.

Nghiên cứu này nằm trong hệ thống những điều tra đầu tiên về ảnh hưởng của sự bất bình
đẳng giới trên diện rộng đến sự đóng góp tương đối và toàn bộ cùng nhau vào công việc gia
đình của các cặp vợ chồng. Những phát hiện này cho thấy các phân tích về tiêu chí bổ sung
về sự đóng góp của người vợ và sự tham gia tuyệt đối của các cặp vợ chồng có thể giúp cho
các nhà xã hội học hiểu sâu hơn về việc những cơ chế ở cấp độ quốc gia có ảnh hưởng như
thế nào đến quyết định trong công việc nội trợ của các cặp vợ chồng. Hơn thế nữa, việc đưa
mức độ kinh tế vào như là một yếu tố giải thích ở cấp độ vĩ mô mang lại mô tả thực tế hơn
về những khía cạnh khác nhau của bối cảnh đất nước sẽ hình thành nên quyết định làm công
việc nhà của các cặp vợ chồng như thế nào theo những cách thức khác nhau.

Đối với nghiên cứu trong tương lai, chúng tôi gợi ý có ba sự phát triển về lý thuyết và
phương pháp. Quan tâm đầu tiên là tạo ra thêm các lý thuyết về cơ chế trao quyền cho phụ
nữ trên phạm vi rộng cùng với đánh giá các tiêu chí khác. Cần đánh giá các khái niệm khác
(Hook, 2006) để xem những điều này có thể mang lại những chỉ số theo lối kinh nghiệm tốt
hơn và có thể là cho sự sử dụng những tiêu chí đa dạng bao gồm những chỉ số về tiêu chí
khoảng cách giới gần đây được diễn đàn kinh tế thế giới đề xuất chẳng hạn. Thứ hai, Vấn đề
khó giải quyết của sự tương tác ở trên cấp độ vi mô và vĩ mô đối với những đóng góp tương
đối cùng với việc không có những tương tác được phát hiện ra dành cho những nỗ lực tuyệt
đối nên được khám phá nhiều hơn nữa. Những phân tích như vậy có thể liên quan đến sự
mô phỏng về kết quả của tiêu chí tương đối trong bối cảnh đất nước biến đổi và cấp độ ảnh
hưởng đối với những đóng góp tuyệt đối. Cuối cùng, phát hiện của chúng tôi về những ảnh
hưởng khác nhau của tiêu chí bình đẳng giới và tổng sản lượng quốc nội đến thời gian dành
cho công việc nội trợ của người vợ và người chồng nên được kiểm tra trên dữ liệu khác
nhau và trên các chiến lược phương pháp luận. Mô hình được chỉ ra bởi kết quả từ HLM mở
rộng của chúng tôi đã nói lên những cơ chế phức tạp dẫn đến việc bối cảnh đất nước ảnh

hưởng như thế nào đến công việc nội trợ của các cặp vợ chồng. Tuy nhiên thì những phân

20
tích thêm vào có thể cũng sẽ nói lên nhiều điều hơn nữa về tính tổng quát và sự thiết thực
của những phát hiện này.

Ghi chú

1. Ở đây chúng tôi sử dụng khái niệm bình đẳng giới trên cấp độ vĩ mô và khái niệm
trao quyền cho phụ nữ một cách linh hoạt, có thể hoán đổi được cho nhau.
2. Những tranh luận về các mô hình xuyên quốc gia như vậy không mâu thuẫn nhau
cùng với sự thay đổi được ghi lại về sự tham gia của nam giới và phụ nữ vào các
công việc không được trả lương này (Gronmo và Lingsom, 1986; Bianchi et al.,
2000; Hook, 2006). Đối với một số đóng góp khác, xem Szalai (1975), Szalai và
Converse (1972) và Wearness (1978)
3. Có thể lưu ý rằng mặc dù chương trình điều tra xã hội quốc tế 2002 cung cấp nền
tảng theo lối kinh nghiệm rông rãi hơn cho các phân tích so sánh hơn trước đây, các
quốc gia mới tham gia không cần thiết phải khác biệt hơn so với các quốc gia trong
nghiên cứu sử dụng chương trình điều tra xã hội quốc tế năm 1994. Thông thường
thì hiện tại có nhiều quốc gia Bắc Âu và Đông Âu hơn trước. Do đó, có thể tranh
luận rằng chương trình điều tra xã hội quốc tế năm 2002 mang lại những thông tin
tốt hơn và những phân tích có nhiều sắc thái hơn là những bộ số liệu trước đó.
4. Để biết thêm thông tin về chương trình điều tra xã hội quốc tế ISSP cũng như là
những thông tin chi tiết về module Gia đình và thay đổi vai trò giới III năm 2002,
xem trang chủ: Chúng tôi cũng xin cảm ơn Dịch vụ dữ liệu
khoa học xã hội Na Uy (NSD) đã cung cấp cho chúng tôi những dữ liệu này.
5. Trong rất nhiều câu hỏi, người tham gia được hỏi về những đặc điểm của chính bản
thân họ cũng như là của vợ/chồng họ để xây dựng những biến số liên quan đến cả
hai người trong mỗi cặp vợ chồng. Trong số 46.638 người tham gia ngay từ đầu, có
đến 24.355 người đưa ra câu trả lời về nhiệm vụ của họ và của vợ/ chồng họ cũng

như là số giờ họ dành cho công việc nội trợ hàng tuần. Đối với những biến số độc
lập nhất định, đặc biệt là những biến số về công việc của người vợ hoặc chồng trên
thị trường lao động ở ngoài gia đình, những câu hỏi không được bao gồm trong bảng
hỏi được phát ở các quốc gia là Australia, Bắc Ailen, Ailen, Cộng hoà Séc, và cộng
hoà Slovak. Đối với những quốc gia này, những dữ liệu bị thiếu sẽ được thay thế
bằng ước tính từ phân tích hồi quy của những người tham gia khi tính đến độ tuổi,
giới tính, và tình trạng thị trường lao động của họ. Những phân tích cuối cùng chỉ ra
rằng việc cho những trường hợp này vào hay loại bỏ ra thì đều không làm biến đổi
kết luận chính. Sau khi lựa chọn độ tuổi (25-65) và loại bỏ những cá nhân không có
dữ liệu để phục vụ cho biến số chính, kết quả cho tổng số mẫu đối với cả 34 quốc
gia là 17.496 cá nhân/cặp. Trong mẫu được áp dụng, có 64 phần trăm là những cặp
mà cả hai vợ chồng đều có thu nhập, gần 29 phần trăm là những cặp vợ chồng mà
trong đó người chồng có công việc có được thu nhập còn vợ thì không có thu nhập
trong khi tỷ lệ đối với tình huống ngược lại là người vợ có thu nhập và chồng không
có thu nhập chỉ chiếm 7 phần trăm. Những phân tích hồi quy bổ sung nói lên rằng
việc bỏ một hoặc hai phạm trù sau này ra ngoài có thể sẽ làm cho kết quả trở nên ảm
đạm hơn (giải thích cho sự biến đổi đi xuống ở một khía cạnh nào đó và những ảnh
hưởng theo ước tính sẽ giảm nhẹ đi), tuy nhiên thì những kết luận chính không hề bị
biến đổi. Thêm vào đó thì trong số có đến 15 phần trăm số cặp vợ chồng mà người
vợ kiếm được nhiều tiền hơn chồng (kiếm nhiều hơn một chút hoặc hơn rất nhiều).
Những phân tích hồi quy lặp đi lặp lại đối với nhóm này được đưa ra không làm thay
đổi những kết luận chính. Thậm chí có thể chỉ ra rằng nếu đem nhóm phụ nữ kiếm

21
được nhiều tiền hơn chồng này ra phân tích riêng lẻ thì mô hình kết quả tác động
cũng không vẫn tương thích với những phát hiện tổng thể trong bài báo này.
6. Trùng với gợi ý của Fuwa (2004:755), những người tham gia cho biết những nhiệm
vụ được thực hiện bởi người khác được cho điểm số là 3 điểm
7. Cronbanch’s alpha cho chỉ số này là 0.73. Phân tích yếu tố chỉ ra rằng chỉ số công
việc thứ năm (sữa chữa nhỏ trong nhà) không thuộc vào phạm trù lựa chọn. Trùng

với nhiều nghiên cứu trước đây áp dụng những nhiệm vụ tương tự (hay gần tương
tự) dựa trên chỉ số thì hướng tiếp cận chính trong bài bày cho rằng tiêu chí này làm
việc theo một phong cách đường thẳng. Xét trong điều kiện sử dụng cùng với một
mô hình đo lường có thể chấp nhận được thì những giả định như vậy là không hợp
lý. Tuy nhiên thì trong gợi ý của một trong những nhà phê bình ESR, chúng tôi đã
tiến hành một số các phân tích bổ sung để kiểm tra những phỏng đoán này, chủ yếu
là trong khuôn khổ hồi quy nơi mà bối cảnh quốc gia được thu hút bởi rất nhiều các
biến số giả. Những phân tích này, bao gồm cả những hồi quy OLS được lặp đi lặp
lại cùng với sự chuyển đổi của biến độc lập, phân tích hồi quy thứ tự và hồi quy
cùng với phân tích kiểm duyệt độc lập và biệt thức đối với các phạm trù không thực
(chẳng hạn như chủ yếu được làm bởi phụ nữ, chủ yếu bởi nam giới, hầu hết là như
nhau) được coi như là nhóm biến số cũng như là các hồi quy nhiều tên khác nhau
cùng với những phạm trù trên danh nghĩa như là biến phụ thuộc. Về cơ bản thì kết
quả là tương thích với ý kiến của tiêu chí điều khiển theo lối đường thẳng, bất chấp
bản chất không chính xác luôn phải ngờ vực của biến số này được chú thích ở bất kỳ
chỗ nào trong bài. Những mô hình tồn tại trên danh nghĩa cụ thể không được phát
hiện ra.
8. Kết quả được ghi lại trong bài này dựa vào biến số Sự chia sẻ của người vợ được mô
tả như là một tỷ lệ. Những phân tích thêm vào sử dụng sự chuyển biến đa dạng đối
với biến số này đã không để lại kết quả gì trong bất kỳ một kết luận khác nhau nào.
9. Cronbach’s Alpha cho chỉ số thái độ này là 0.73. Do điều tra này trên thực tế được
tiến hành ở cấp độ cá nhân cho nên thông tin về thái độ theo chủ nghĩa quân bình
giới của cả hai người vợ và chồng là không sẵn sàng.
10. Cần thêm vào là sự phù hợp của rất nhiều đặc điểm bổ sung và cạnh tranh ở cấp độ
quốc gia chẳng hạn như hệ tư tưởng giới ở cấp độ vĩ mô, trình độ giáo dục của quốc
gia, văn hoá hôn nhân, và giá trị gia đình đã được khám phá ở trong những giai đoạn
trước. Những mô hình phức tạp hơn liên quan đến những tiêu chí ở tầm vĩ mô dễ trở
thành khó giải quyết theo lý thuyết cũng như theo kinh nghiệm truyền thống một
phần là bởi vì những khó khăn về khái niệm trong việc giữ những cơ chế cấu trúc
song song tách biệt khỏi cấp độ lý thuyết, phần khác cũng bởi vì sự trùng lặp về mặt

số liệu giữa những yếu tố giải thích cùng với nhau với ít mức độ tự do hơn. Vì
những lý do đó mà phân tích của chúng tôi đầu tiên tập trung vào một biến số ở tầm
vĩ mô (tiêu chí bình đẳng giới) được tập trung hầu hết trong các nghiên cứu so sánh
trước đây mặc dù vẫn biết rằng đó có thể là những hạn chế của tiêu chí này (Cueva,
2006). Mặc dù vậy thì có thể tranh luận rằng, và có thể chúng tôi cũng sẽ thực hiện
điều này, trong những mô hình thực tế hơn nên bao gồm cả sự phát triển về kinh tế
của các quốc gia bên cạnh sự trao quyền cho phụ nữ ở cấp độ vĩ mô. Do đó chúng
tôi cũng sẽ tiếp tục theo những phân tích chính cùng với đánh giá về một mô hình
HLM phức tạp hơn ở trong giai đoạn 2.
11. Điều tra thêm vào đó chỉ ra rằng vị trí tương đối của mỗi quốc gia đối với chỉ số tiêu
chí bình đẳng giới của UNDP là khá ổn định với mức độ tương quan trong khoảng
0.95 từ một năm này sang năm kế tiếp. Trong một số ít trường hợp thì giá trị tiêu chí
bình đẳng giới được suy luận ra từ nguồn khác do không có số liệu. Thứ hạng của
nước Pháp được dựa trên số liệu bổ sung của UNDP (chẳng hạn như chỉ số GDI) và

22
chỉ số khoảng cách giới từ diễn đàn kinh tế thế giới. Vị trí của Đài Loan được gợi ý
một cách thăm dò từ nguồn số liệu sẵn có và tài liệu bổ sung. Biến đổi ước tính tiêu
chí bình đẳng giới của Đài Loan trong khuôn khổ giới hạn hợp lý ngoài các phân
tích HLM không làm thay đổi những kết luận chính của bài viết.
12. Những biến số cạnh tranh trên tầm vĩ mô được đánh giá trong một chuỗi những mô
hình đa cấp, mỗi một mô hình chỉ có một biến số độc lập ở cấp vĩ mô, có thể do
nhiều đường thẳng cộng tuyến ở những mô hình phức tạp hơn.
13. Trong số 6 chỉ số được đề xuất về công việc và chính sách việc làm của phụ nữ thì
chí có chỉ số thời gian làm việc được trả lương của phụ nữ là chỉ ra tác động nổi bật
đến thời gian làm việc không được trả lương của nam giới (Hook, 2006:652)
14. Hệ số tương tác cho 2 năm là 0.98
15. Ở cấp độ cá nhân hệ số tương tác giữa Sự phân chia công việc nội trợ theo giới và
Sự đóng góp của người vợ là 0.55
16. Kết luận này không biến đổi nếu các quốc gia xa trung tâm như Philipine hay Nhật

Bản được đưa ra khỏi phân tích
17. Kết quả đã được hoàn thiện bởi tác giả và có thể yêu cầu nếu cần
18. The critical t-value đối với giả định trực tiếp (một mặt) đối với những ảnh hưởng ở
tầm vĩ mô và hệ số tương tác là 1.70 đối với số đơn vị ở cấp độ vĩ mô và mức độ tự
do. Đối với phân tích ở cấp độ cá nhân thì chỉ số t-value phản biện tương ứng là
1.65. Trong những phân tích đa cấp gần đây khác (Batalova và Cohen, 2002; Fuwa,
2004; Yodanis, 2005; Hook, 2006) chúng tôi áp dụng số liệu kiểm tra đơn giản (t-
ratio hoặc P-value) trong khi vẫn nhận ra sự mạo hiểm của mô hình tác động toàn bộ
khi đưa ra một con số thử nghiệm lớn hơn.
19. Để tiến hành một điều tra hoàn thiện về cơ chế phản chiếu hình thành nên sự đóng
góp của người vợ và người chồng thì phân tích HLM này đã lặp đi lặp lại những yếu
tố như Thời gian sẵn có (của vợ) như là một biến điều khiển (tác động cố định) và
Thời gian dành cho công việc gia đình của người chồng theo tuần như là một biến
giải thích và cho phép có thể biến đổi. Kết quả từ những phân tích trên không làm
biến đổi những kết luận cơ bản.
20. Một kết luận bổ sung có thể được suy ra từ những phân tích đã kể trên, cho rằng
không có bất kỳ một sự tương tác nào giữa mức độ tiêu chí bình đẳng giới và ảnh
hưởng của các yếu tố cá nhân đến việc sử dụng toàn bộ thời gian của các cặp vợ
chồng. Từ đó đưa ra một cảnh báo trong việc tận dụng những phát hiện cho rằng sự
tác động lẫn nhau trong việc tham gia tương đối để ước tính ảnh hưởng đến việc sử
dụng thời gian toàn bộ dành cho vợ và cho chồng như là đã đưa ra trong nghiên cứu
trước đây (Fuwa, 2004:762).

Lời cảm ơn

Bài viết này được thực hiện trong khuôn khổ chương trình nghiên cứu “cân bằng công việc
và cuộc sống: nghiên cứu kết hợp sự khá giả của gia đình và đời sống công việc” tại học
viện nghiên cứu quốc tế Stavanger (IRIS), với nguồn tài trợ từ hội đồng nghiên cứu Na Uy
(NFR). Công trình cũng được hoàn thiện như là một phần trong chương trình nghiên cứu
gia đình và phúc lợi của trường đại học Stavanger (UiS) và trường đại học Bergen (UiB).

Một phiên bản trước đó đã được trình bày tại hội thảo ISA tại Durban, Nam Phi vào mùa hè
năm 2006. Chúng tôi cảm ơn sự tham gia của phòng Gia đình ISA, Liv Syltevik và hai nhà
phê bình giấu tên của ESR cho những nhận xét và gợi rất có ích trong từng giai đoạn khác
nhau của quá trình.

Tài liệu tham khảo

23

Batalova, J.A và Cohen, P.N (2002). Chung sống trước hôn nhân và công việc nội trợ : các
cặp vợ chồng trong viễn cảnh xuyên quốc gia. Tạp chí hôn nhân và gia đình, 64, 743-
755.
Baxter, J (1997). Bình đẳng giới và sự tham gia vào công việc nội trợ : một viễn cảnh xuyên
quốc gia, tạp chí nghiên cứu so sánh về gia đình, 28, 220-247.
Becker, G. (1981), chuyên luận về gia đình, Cambridge, MA : tạp chí của đại học Havard.
Bianchi, S.M., Milkie, M. A., Sayer, L. C. và Robinson, J.P. (2000). Có ai làm việc nhà
không ? Xu hướng phân chia công việc nội trợ trong gia đình. Động lực xã hội, 79, 191-
228.
Blood, R. O. và Wolfe, D. M. (1960). Chồng và vợ: động lực học của cuộc sống hôn nhân.
Glencoe, IL: free press
Blumberg, R. L (1984). Lý thuyết chung về sự phân tầng giới. Lý thuyết xã hội học, 2, 23-
101
Brines, J. (1993). Trao đổi giá trị công việc nhà, sự hợp lý và xã hội, 5, 302-340
Coltrane, S. (2000). Nghiên cứu về lao động gia đình : làm mẫu và đo lường sự gắn kết xã
hội của các công việc hàng ngày trong gia đình, tạp chí hôn nhân và gia đình, 62, 1208-
1233.
Cueva, B. H. (2006). Trong tiêu chí về trao quyền của phụ nữ còn thiếu cái gì? Tạp chí Phát
triển con người, 17 (2), 221-241.
Fuwa, M. (2004). Sự bất bình đẳng giới trên cấp độ vĩ mô và sự phân chia lao động nội trợ
ở 22 quốc gia. Tạp chí xã hội Mỹ, 69, 751-767.

Geist, C. (2005). Phúc lợi xã hội nhà nước và gia đình, sự khác biệt về chế độ trong việc
phân chia công việc nội trợ. Tạp chí xã hội học châu âu, 21, 23-41.
Gershuny, J. và Sullivan, O. (2003). Sử dụng thời gian, giới và chế độ chính sách nhà nước.
Chính trị xã hội, 10, 205-228.
Gerson, K. (1993). Mảnh đất không thuộc về ai: thay đổi cam kết của nam giới đối với gia
đình và công việc. New York: những cuốn sách cơ bản.
Gronmo, S. và Lingsom, S. (1986). Bình đẳng tăng lên trong phạm vi công việc nội trợ: mô
hình sử dụng thời gian thay đổi ở Na Uy. Tạp chí xã hội học Châu Âu, 2, 176-190
Hook, J. L. (2006). Sự quan tâm trong bối cảnh: công việc không được trả lương của nam
giới ở 20 quốc gia, 1965-2003. Tạp chí xã hội học Mỹ, 71, 639-660.
Hox, J. J. (1995). Phân tích đa cấp được áp dụng. Amsterdam: TT-Publicaties.
ISSP (1994). Chương trình điều tra xã hội quốc tế, sẵn có tại nguồn
Iversen, T và Rosenbluth, F. (2006). Nền kinh tế chính trị giới : giải thích sự biến đổi xuyên
quốc gia về sự phân chia công việc theo giới và khoảng cách đề cử giới. Tạp chí khoa
học chính trị Mỹ, 50, 1-19.

24
Jackson, R. M. (1998). Đi đến bình đẳng : sự lớn lên không thể tránh được của vị thế người
phụ nữ. Cambrigde, MA : Ấn bản đại học Havard.
Kalleberg, A. L và Rosenfeld, R. (1990). Việc làm trong gia đình và trong thị trường lao
động: một phân tích thuận nghịch xuyên quốc gia. Tạp chí hôn nhân và gia đình, 52,
331-346.
Kamo, Y. (2000). Anh ấy nói, cô ấy nói: đánh giá sự không thống nhất trong báo cáo của
người vợ và người chồng về sự phân chia công việc nội trợ. Nghiên cứu xã hội học, 29,
459-476.
Kan, M. Y. (2006) Đo sự tham gia vào công việc gia đình: khoảng cách giữa ước tính bảng
hỏi “cách điệu hoá” và ước tính dựa trên nhật ký. ISER Working Paper 2006-11.
Colchester: Đại học Essex.
Knittel, B. (2006). Phương pháp điên rồ? Xã hội học quốc tế, 21, 647-678.
Kittel, R. H và Lyngstad, T. H. (2005). Thông tin nhật ký và thông tin bảng hỏi về thời gian

dành cho công việc nhà. Trường hợp ở Na Uy. Tạp chí điện tử quốc tế về việc sử dụng
thài gian, 2, 13-32
Lee, G. R và Haas, L. (1993). Phương pháp so sánh trong nghiên cứu gia đình. In Boss, P.
G., Doherty, R., LaRossa, W. R., Schumm, W. R. và Steinmetz, S. K (Eds), nguồn Lý
thuyết và phương pháp gia đình: hướng tiếp cận theo bối cảnh. New York: Plenum.
Mills, M., van de Bunt, G. G và de Brunjin, J. (2006). Nghiên cứu so sánh : vấn đề dai dẳng
và giải pháp hứa hẹn, xã hội học quốc tế, 21, 619-632.
Szalai, A. (1975). Thời gian của phụ nữ trong nghiên cứu ngân sách thời gian hiện tại.
FUTURES, Tháng mười.
Szalai, A. và Converse, P. E. (1972). Việc sử dụng thời gian : hoạt động hàng ngày của dân
số sống ở nội và ngoại thành tại 12 quốc gia. The Hague : Mouton.
Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) (2004). Báo cáo phát triển con người. New
York : Ấn bản đại học Oxford.
Waeness, K. (1978) : phúc lợi quốc gia: công việc của phụ nữ tại gia đình. Acta
Sociologica, 21, 193-208.
Yodanis, C. (2005). Văn hoá ly hôn và bình đẳng giới trong hôn nhân. Giới và xã hội, 19
(5), 644-659.

Địa chỉ của tác giả
Knud Knudsen, IKMS, khoa khoa học xã hội, Đại học Stavanger, N-4036 Stavanger, Na
Uy, Email:

25
Kari Waerness, Viện xã hội học, Rosenbergsgaten 39, N-5015 Bergen, Na Uy.
Email:



×