Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC MẬT ĐỘ NUÔI KẾT HỢP HÀU CỬA SÔNG (Crassostrea rivularis) VỚI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (Penaeus vannamei) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.85 KB, 13 trang )















ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC MẬT ĐỘ NUÔI
KẾT HỢP HÀU CỬA SÔNG (Crassostrea
rivularis) VỚI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG
(Penaeus vannamei)






Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 405-416 Trường Đại học Cần Thơ

405
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC MẬT ĐỘ NUÔI KẾT HỢP
HÀU CỬA SÔNG (Crassostrea rivularis)
VỚI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (Penaeus vannamei)
Trần Tuấn Phong


1
và Ngô Thị Thu Thảo
1

ABSTRACT
This study was conducted to investigate the effects of stocking densities of
oyster (Crassostrea rivularis) and white leg shrimp (Penaeus vannamei). The
experiment was designed with 1 stocking density of shrimp (74 shrimp/m
2
) and
4 densities of oyster: 150 oysters/m
2
(NT1), 100 oysters/m
2
(NT2), 50 oysters/m
2

(NT3) and no oysters (NT4). The average length and weight of oysters were
40.5mm and 11.08g, white shrimp were 4.09mm and 0.41g. The oysters were
stocked when shrimp were cultured for 1 month. After 120 days of culture,
survival rate of shrimp at NT4 (40%) was significantly (p<0.05) lower than
those at NT1 (54%), NT12 (54%) and NT3 (46%). There was no significant
difference in growth rate of white leg shrimp among the treatments but NT1
had significantly higher total weight (p<0.05) than NT4 (711g/m
2
compared to
511g/m
2
). Feeding rate of shrimps in integrated treatments were better than
those of shrimp in the controls. Digestive Gland Index showed that oysters

could consume feed better at density of 100 ind/m
2
. Survival rate of oyster at
density of 100 and 150 ind/m
2
were rather high (83.3% and 80.4%). Results
showed that oyster could be cultivated with white leg shrimp, and the density of
100 oysters/m
2
and 74 shrimp/m
2
was more suitable than others.
Keywords: White leg shrimp, Penaeus vannamei, oyster, Crassostrea
rivularis, integrated culture.
Title: Effects of different stocking densities of the oyster (Crassostrea
rivularis) integrated culture with the white leg shrimp (Penaeus vannamei)
TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành với 4 nghiệm thức: nuôi 150 con hàu/m
2
(NT1), 100
con hàu/m
2
(NT2), 50 con hàu/m
2
(NT3) và không có hàu nhằm đánh giá khả
năng nuôi kết hợp hàu cửa sông (Crassostrea rivularis) với tôm thẻ chân trắng
(Penaeus vannamei) 74 con/m
2
. Các cá thể hàu có chiều dài và khối lượng
trung bình là 40,5 mm và 11,08g được bố trí vào bể khi tôm đã nuôi khoảng 30

ngày. Tôm chân trắng có chiều dài và khối lượng trung bình là
4,09 cm và 0,41
g/con.
Sau 120 ngày nuôi, tỷ lệ sống của tôm ở NT4 (40%) thấp nhất và khác


1
Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 405-416 Trường Đại học Cần Thơ

406
biệt có ý nghĩa (p<0,05) so với NT1(54%), NT2 (54%) và NT3 (46%). Không
có sự khác biệt về tăng trọng giữa các nghiệm thức, tuy nhiên NT1 có năng
suất tôm cao nhất (711g/m
2
) và khác biệt có ý nghĩa so với NT4 (511 g/m
2
).
Tôm nuôi trong nghiệm thức kết hợp có hệ số thức ăn tốt hơn so với nghiệm
thức đối chứng. Phân tích chỉ số tuyến tiêu hóa cho thấy mức độ tiêu thụ thức
ăn của hàu tốt nhất ở nghiệm thức nuôi kết hợp 100 con hàu/m
2
. Đồng thời, tỷ
lệ sống của hàu đạt cao nhất ở nghiệm thức hàu 100 con/m
2
(83,3%) và 150
con/m
2
(80,4%). Kết quả nghiên cứu cho thấy hàu cửa sông có khả năng nuôi
kết hợp với tôm thẻ chân trắng, tốt nhất ở mật độ 100 con hàu/m

2
và 74 con
tôm/m
2
.
Từ khóa: Nuôi kết hợp, tôm chân trắng, Penaeus vannamei, hàu cửa sông,
Crassostrea rivularis.
1 GIỚI THIỆU
Việt Nam là nước nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có vị trí địa lý thuận
lợi và tiềm năng lớn về thủy sản. Đặc biệt ở vùng nước lợ, mặn thì con tôm
đang được chú ý và nuôi nhiều nhất với các hình thức nuôi quảng canh, quảng
canh cải tiến, bán thâm canh đến thâm canh. Tuy nhiên bên cạnh đó nguồn chất
thải của tôm đã làm cho môi trường nước bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng
và lây lan dịch bệnh thường xuyên xảy ra. Vấn đề giảm thiểu nguồn chất thải
trong ao nuôi cũng như thải ra ngoài môi trường ngày càng cấp thiết.
Hàu là một trong những loài động vật thân mềm có giá trị kinh tế, là loài có
tính ăn lọc phiêu sinh thực vật chủ yếu tảo đơn bào và mùn bã hữu cơ (Nguyễn
Chính, 2007). Do đó, hàu có vai trò như “một lọc sinh học” xử lý môi trường
góp phần làm sạch các cặn bả hữu cơ, hạn chế ô nhiễm môi trường (Lê Minh
Viễn và Phạm Cao Vinh, 2007). Chính vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện
nhằm đánh giá khả năng nuôi kết hợp hàu và tôm thẻ chân trắng trong mô hình
thâm canh, cải thiện nước ao nuôi, giảm ô nhiễm môi trường và góp phần đa
dạng hóa đối tượng trong nghề nuôi thủy sản hiện nay.
2 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thí nghiệm đượ
c tiến hành trong 4 tháng. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần,
cách bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với độ mặn là 15‰ chọn ra từ nghiên cứu
trước. Các cá thể hàu thí nghiệm có chiều dài và khối lượng trung bình là
40,5mm và 11,08 g/con. Hàu được đánh số thứ tự và thả vào bể nuôi sau khi bố
trí tôm được 30 ngày. Tôm chân trắng có khối lượng từ 1-3g/con và chiều dài

trung bình 4,09cm.
Thí nghiệm gồm có 4 nghiệm thức: 1) Nuôi tôm với hàu ở mật độ 150 con/m
2

(NT1); Nuôi tôm với hàu ở mật độ 100 con/m
2
(NT2); Nuôi tôm với hàu ở mật
độ 50 con/m
2
(NT3); không có hàu (NT4). Mật độ tôm nuôi ở các nghiệm thức
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 405-416 Trường Đại học Cần Thơ

407
là 74con/m
2
. Các cá thể tôm và hàu được nuôi trong bể composite có thể tích
0,5m
3
/bể. Mỗi bể được bố trí 1 sàn ăn và giá thể dây nilon để kiểm soát thức ăn
và giảm khả năng ăn nhau của tôm.
Mỗi ngày cho tôm ăn với lượng 3-5% trọng lượng thân, chia đều cho 4 lần
(7:30, 11:30, 17:30, 21:30). Định kì 10 ngày thay nước 1 lần với lượng nước
thay khoảng 20-30%. Bổ sung vôi CaCO
3,
NaHCO
3
khi cần thiết nhằm ổn định
độ kiềm, pH trong nước.
Các yếu tố môi trường theo dõi:
Đo nhiệt độ 2 lần/ ngày bằng máy đo HANNA. Các yếu tố môi trường như:

NH
4
+
/NH
3
(mg/L), NO
2
-
(mg/L), pH: 10 ngày kiểm tra 1 lần bằng các bộ test
Germany.
Các yếu tố sinh trưởng và tỷ lệ sống: Hàu được thu định kỳ 15 ngày/lần để
kiểm tra tốc độ sinh trưởng và 30 ngày/lần để kiểm tra tỷ lệ sống. Các công
thức sau:



Hệ số tiêu tốn thức ăn của tôm nuôi (FR)

FR =

Chỉ số thể trạng của hàu được xác định lúc bắt đầu và kết thúc thí nghiệm
(5con/bể):

CI (mg/g) = x1000


Sau khi kết thúc thí nghiệm thu 5 con tôm/bể, đo chiều dài và cân khối lượng
tôm rồi sấy khô ở nhiệt độ 60ºC trong 48 giờ, cân khối lượng sau khi sấy. Tỷ lệ
khô được tính theo công thức:
Tỷ lệ thịt khô (%) = 100*

DWm
DWs

Trong đó: CI: chỉ số thể trạng (mg/g)
DWs là khối lượng thịt sau khi sấy (g)
DWm là khối lượng thịt trước khi sấy (g)
TLS (%) =
Số Hàu thả ban đầu
Hàu còn sống
*100
Tổng khối lượng thức ăn cho tôm (g)
Trọng lượng tôm gia tăng (g)
Khối lượng tổng cộng (g)
Khối lượng thịt tươi (g)
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 405-416 Trường Đại học Cần Thơ

408
Phương pháp phân tích mô học: Hàu tách bỏ vỏ lấy phần thịt và cố định
formol 10%, sau 24-48 giờ lấy mẫu bảo quản trong dung dịch cồn 70% đến khi
xử lý. Thực hiện tiêu bản mô theo các bước sau: khử nước bằng cách ngâm
mẫu mô với nồng độ cồn tăng dần, khử cồn bằng xylen, đúc khối bằng paraffin
và cắt lát với độ dày 2-4 µm. Lát cắt được nhuộm với Haematoxylin – Eosin Y
và kiểm tra dưới kính hiển vi nhằm xác đị
nh tuyến tiêu hóa.
Chỉ số tuyến tiêu hóa (Digestive Gland Index, DGI): Chỉ số tuyến tiêu hóa
được căn cứ trên hình thái và mức độ dày mỏng của vách tế bào tuyến tiêu hóa.
DGI biến động từ 0-3 trong đó 0 = rất đói; 1 = đói; 2 = no; 3 = rất no. Giá trị
trung bình của DGI được tính khi bắt đầu và kết thúc thí nghiệm để theo dõi
mức độ hấp thu thức ăn của hàu (Walker và Heferman, 1994).
3 KẾT QUẢ

3.1 Biến động của các yếu tố môi trường
Nhìn chung nhiệt độ và pH không có sự khác biệt lớn giữa các nghiệm thức,
trung bình nhiệt độ buổi sáng là 27,4°C và nhiệt độ chiều là 28,8°C. Khoảng
biến động giữa nhiệt độ sáng và chiều không quá 1°C và nằm trong khoảng
thích hợp cho sự sinh trưởng của tôm và hàu. Theo (Whetstone et al., 2002)
nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển của tôm là 23-34°C, nhiệt độ tối ưu 26-
29°C, nhưng không được thay đổi quá 5°C trong ngày (Boyd et al., 2002). Đối
với hàu Crassostrea gigas có thể sinh sản
ở nhiệt độ từ 22-25
o
C (Thao et al.,
2002). Tuy nhiên đối với các loài hàu nhiệt đới, nhiệt độ thích hợp cho sinh
trưởng và phát triển có thể trên 25
o
C. Nhìn chung, các yếu tố môi trường pH,
nhiệt độ đều nằm trong khoảng thích hợp so với kết quả nghiên cứu trên tôm
Penaeus indicus của Vijayan và Diwan (1995).
Bảng 1: Giá trị trung bình các yếu tố môi trường của thí nghiệm
Yếu tố NT1 NT2 NT3 NT4
Sáng
27,4±0,4 27,4±0,4 27,4±0,4

27,4±0,4
Nhiệt độ (
o
C)
Chiều
28,8±0,6 28,8±0,6 28,8±0,6

28,8±0,6

pH
7,3±0,2 7,0±0,3 6,8±0,3

6,5±0,5
Độ kiềm
56,8±13,7 54,0±14,3 53,3±15,8 48,9±18,4
Mật độ tảo (tb/mL)
6.150±5.623
a
10.310±11.474
a
10.880±10.186
a
36.570±10.689
b
Các giá trị cùng một hàng có kí tự khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Nồng độ NO
2
-
và NH
4
+
ở các nghiệm thức có nuôi kết hợp hàu thì thấp hơn so
với nghiệm thức không nuôi kết hợp hàu. Mặt khác, hàm lượng các loại đạm
này cũng tỷ lệ nghịch với mật độ hàu thí nghiệm. Trong đó, nồng độ NO
2
-

trung bình ở hai nghiệm thức có mật độ hàu 100 và 150 con/m
2

thì thấp nhất
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 405-416 Trường Đại học Cần Thơ

409
(2,9 và 3,1 mg/L) và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với NT 4 (3,7±0,5 mg/l)
(p<0,05). Theo kết quả nghiên cứu của Luis & Marcel (2006) khi nuôi kết hợp
giữa tôm thẻ Litopenaeus vannamei, hàu Crassostrea gigas, nghêu Chione
fluctifraga thì ammonium tổng cộng trong những ao nuôi kết hợp với mật độ
động vật thân mềm sẽ thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với những ao còn lại.
Theo Chen và Chin (1998) nồng độ an toàn của NO
2
-
đối với hậu ấu trùng tôm
sú tôm là 4,5mg/l. Ngoại trừ nghiệm thức 4 có hàm lượng NO
2
-
cao vào ngày
thứ 50 của quá trình thí nghiệm, các nghiệm thức khác đều có hàm lượng NO
2
-

nằm trong khoảng an toàn cho sinh trưởng của tôm.

0
2
0.4
0.6
0.8
1
g

NH
4
+
(mg/L)

Hình 1. Biến động hàm lượng NH
4
+
(mg/L) Hình 2. Biến động hàm lượng NO
2
-
(mg/l)
Kết quả phân tích cho thấy mật độ tế bào tảo cao nhất ở nghiệm thức đối chứng
(NT4) (36.570 tb/mL), mật độ tảo thấp ở NT 1, 2, 3 (6.150-10.880 tb/mL) khác
biệt nhau có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Trong các nghiệm thức nuôi kết hợp
tôm với hàu, mật độ tảo ổn định và duy trì ở mức thấp. Nghiệm thức 3 ở thời
điểm cuối thí nghiệm có xu hướng tăng có thể do tỷ lệ hàu chế
t tăng nên số các
thể còn lại có khả năng lọc không hiệu quả. Nhìn chung mật độ tảo trong các
nghiệm thức không cao vì thí nghiệm được bố trí trong nhà có mái che kết hợp
với việc che lưới các bể tôm nên ánh sáng không đủ cho tảo phát triển và do
tập tính ăn lọc của hàu.
3.2 Sự phát triển của tôm thẻ chân trắng
3.2.1 Tăng trưởng về chiều dài
Tốc độ tăng trưởng chiều dài tuyệt đối (cm/ngày) và tương đối (%/ngày) của
tôm tương đối ổn định và có xu hướng giảm dần trong suốt thời gian thí
nghiệm ở các nghiệm thức. Chiều dài tôm chân trắng lúc bố trí thí nghiệm
tương đương nhau (4,09 cm). Sau 120 ngày nuôi chiều dài tôm ở các nghiệm
thức nuôi kết hợp với hàu ở mật độ cao là 14,4cm/con (NT1) và 14,38 cm/con
(NT2) khác biệt có ý nghĩa với 13,80 cm/con ở nghi

ệm thức không có hàu
(p<0,05).
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 110 120
Hàm lượng NH
4
+
(mg/L)
Thời gian TN (ngày)
NT1 NT2
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 405-416 Trường Đại học Cần Thơ

410
Bảng 2. Trung bình tốc độ tăng trưởng chiều dài tương đối và tuyệt đối của tôm
Nghiệm thức
Trung bình
NT1 NT 2 NT 3 NT4
Tăng trưởng tuyệt đối (cm/ngày) 0,09±0,00
a
0,09±0,00
a
0,08±0,00
a
0,08±0,00
a

Tăng trưởng tương đối (%/ngày) 1,05±0,03
a
1,05±0,01
a
1,01±0,02
a
1,01±0,02
a
Chiều dài lúc thu hoạch (cm)
14,42±0,46
bc
14,38±0,24
bc
13,68±0,27
a
13,80±0,32
ab
Các giá trị của mỗi chỉ số trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05)
3.2.2 Tăng trưởng về khối lượng
Bảng 3. Tốc độ tăng trưởng khối lượng tuyệt đối (g/ngày) và khối lượng tương
đối (%/ngày) của tôm nuôi
Tăng trưởng tuyệt đối (g/ngày) Tăng trưởng tương đối (%/ngày)
Ngày nuôi

NT1 NT 2 NT 3 NT4 NT1 NT 2 NT 3 NT4
0-30 0,07±0,01 0,07±0,01 0,07±0,00 0,07±0,00 6,18±0,23 6,08±0,26 5,74±0,18 5,98±0,18
30-60 0,18±0,01 0,20±0,01 0,21±0,01 0,21±0,03 3,77±0,08 4,08±0,21 4,36±0,18 4,17±0,41
60-90 0,22±0,04 0,21±0,04 0,16±0,03 0,15±0,01 1,96±0,27 1,81±0,31 1,51±0,22 1,39±0,18
90-120 0,22±0,04 0,20±0,03 0,16±0,02 0,18±0,02 1,25±0,20 1,13±0,18 1,00±0,12 1,13±0,07

Trung bình
0,17±0,02 0,17±0,01 0,15±0,01 0,15±0,01 3,39±0,09 3,27±0,06 3,15±0,04 3,17±0,06
Các giá trị khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)

0
5
10
15
20
25
15 30 45 60 75 90 105 120
Thời gian TN (ngày)
Khối lượng (gam
)
NT1 NT2 NT3 NT4
Hình 3. Tăng trưởng về chiều dài tôm Hình 4. Tăng trưởng về khối lượng của tôm
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của tôm trong các nghiệm thức có xu hướng giảm
dần theo thời gian nuôi ở cả 4 nghiệm thức. Tương tự như tốc độ tăng trưởng
0
3
6
9
12
15
18
15 30 45 60 75 90 105 120
Chiều dài (cm)
Thời gia n TN (ngà y)
NT1 NT2


Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 405-416 Trường Đại học Cần Thơ

411
về chiều dài, tốc độ tăng trưởng khối lượng trung bình ở NT1 và NT2 cao hơn
2 nghiệm thức còn lại tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Khối lượng tôm thẻ chân trắng bố trí ban đầu ở các nghiệm thức không có khác
biệt và trung bình khoảng 0,41 g/con. Sau 120 ngày nuôi, kích cỡ tôm khi thu
hoạch dao động trong khoảng 18,48-21,33 g/con. Kích cỡ tôm ở nghiệm thức
nuôi kết hợp với mật độ hàu 150con/m
2
là cao nhất (21,33 g/con) nhưng không
khác biệt ý nghĩa so với các nghiệm thức còn lại (p>0,05).
3.2.3
Tỷ lệ sống, năng suất tôm và chất lượng tôm sau thu hoạch
Tỷ lệ sống có khuynh hướng giảm dần theo thời gian thí nghiệm và giảm đều ở
tất cả các nhiệm thức. Tỷ lệ sống của tôm giảm nhiều vào các thời điểm 60
ngày và 105 ngày. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống của tôm khi kết thúc thí nghiệm
dao động từ 40-54%, trong đó nghiệm thức đối chứng không k
ết hợp với hàu
có tỷ lệ sống thấp nhất là 40% và khác biệt có ý nghĩa thống kê với nghiệm
thức nuôi kết hợp với hàu ở mật độ 100con/m
2
và 150con/m
2
(p<0,05).
10
20
30
40
50

60
70
80
90
100
Tỷ lệ sống(%)
NT1 NT2

Hình 5. Tỷ lệ sống (%) của tôm theo thời gian thí nghiệm
Năng suất tôm và các chỉ tiêu chất lượng sau thu hoạch được trình bày ở Bảng
4. Kết quả cho thấy năng suất tôm tỷ lệ thuận với mật độ hàu nuôi kết hợp.
Năng suất cao nhất ghi nhận được là NT1 (711,1g/m
2
) không khác biệt so với
NT2 (670g/m
2
) nhưng khác biệt có ý nghĩa so với 2 nghiệm thức còn lại.
Nguyên nhân tôm ở hai nghiệm thức này có tỷ lệ sống cao và khối lượng trung
bình cũng lớn hơn so với NT3, NT4. Do môi trường ở hai nghiệm thức này tốt
hơn nên tỷ lệ sống của tôm cao hơn so với 2 nghiệm thức còn lại. Kết quả này
cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thức Tuấn và Phạm Mỹ
Dung (2008) là nuôi ghép tôm sú Penaeus monodon và hàu cửa sông
bc
bc
ab
a
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 405-416 Trường Đại học Cần Thơ

412
Crassostrea rivularis giúp tăng năng suất tôm nuôi và giảm chi phí quản lý môi

trường ao nuôi. Hệ số FR của tôm trong các nghiệm thức nuôi ghép với hàu
(NT1 và NT2) thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức không có hàu
(p<0,05). Tuy nhiên hệ số tiêu tốn thức ăn FR ở NT3 và NT4 khác biệt nhau
không có ý nghĩa (P>0,05), hệ số tiêu tốn thức ăn của tôm trong các nghiệm
thức thí nghiệm dao động từ 1,9-2,6. Charatchakool et al., (1995) khuyến cáo
hệ số tiêu tốn tôm nuôi không nên vượt quá 2,0. Tuy nhiên theo Thái Bá Hồ et
al., (2004) hệ số tiêu tốn thức ăn của tôm dao động từ 1,3-3,5.
Bảng 4. Năng suất tôm và các chỉ tiêu chất lượng sau thu hoạch
Các chỉ tiêu theo dõi NT1 NT 2 NT 3 NT4
Khối lượng thu hoạch (g/m
2
) 711,1±72
c
670±28
bc
579,9±7
ab
511,4±42
a
Hệ số tiêu tốn thức ăn (FR) 1,9±0,19
a
2,0±0,08
ab
2,3±0,03
bc

2,6±0,20
c
Tỷ lệ thịt (%) 56,91±1,95
a

59,05±2,85
ab
59,16±6,26
ab
61,11±3,89
bc
Tỷ lệ khô/tươi (%) 30,82±1,05
a
31,00±1,45
a
31,61±0,52
a
30,14±3,79
a
Tỷ lệ đầu/thân (%)
70,86±1,54
a
72,52±2,89
a
72,60±7,92
a
74,04±4,10
a
Màu sắc (%)
Vàng cam 66,7 66,7 60 20
Vàng nhạt 33,3 33,3 40 80
Các giá tri của mỗi chỉ số trong cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05)
Tỷ lệ thịt trong tôm cao nhất ở NT4 (61,11%) khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) so với NT1 (56,91%). Nhìn chung, khi nuôi kết hợp với hàu mật độ

càng cao thì tỷ lệ thịt tôm giảm dần. Tỷ lệ khô/tươi của tôm tương đối đồng
đều qua các nghiệm thức và không có sự khác biệt thống kê (p>0,05). Đối với
màu sắc bên ngoài của tôm thẻ chân trắng khi nuôi kết hợp với hàu thì màu sắc
đẹp hơn và có màu cam đậm hơn sau khi luộ
c.
Để đánh giá, màu sắc của tôm được chia làm hai mức độ là tôm có màu vàng
cam và tôm có màu vàng nhạt. Qua kết quả thí nghiệm cho thấy rằng tôm nuôi
trong môi trường có kết hợp với hàu thì tỷ lệ tôm sau khi luộc ở 100
o
C (trong 1
phút) có màu cam đậm sẽ cao hơn so với tôm nuôi đơn. Nguyên nhân ở các
nghiệm thức này có độ kiềm cao hơn và các rổ nuôi hàu đã hạn chế ánh sáng
chiếu vào bể nên tôm có màu sức tốt hơn. Màu sắc tôm phản ảnh khả năng
tổng hợp sắc tố và đây là chỉ tiêu này góp phần làm cho sản phẩm tôm thương
phẩm được đánh giá cao trong chế biến thủy sản.
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 405-416 Trường Đại học Cần Thơ

413
3.3 Sự phát triển của hàu
3.3.1 Tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng của hàu
Sau 90 ngày nuôi, chiều dài của hàu đạt cao nhất ở NT3 (41,5 mm) và thấp
nhất là NT1 (40,3 mm). Chiều dài và khối lượng trung bình của hàu ở các
nghiệm thức không tăng mà giảm nhẹ so với chiều dài và khối lượng ban đầu
do hàu đã thành thục và một số cá thể kích thước lớn đã chết. Khác với chiều
dài, trọng lượng của hàu khi kết thúc thí nghiệm đạt cao nhất ở
NT2 (11,06
g/con) và thấp nhất vẫn là NT1 (10,75 g/con). Tuy nhiên, cả hai chỉ số trên
không có sự khác biệt thống kê (p>0,05) giữa các nghiệm thức thí nghiệm.

Bảng 5. Trung bình chiều dài và khối lượng hàu theo thời gian thí nghiệm.

Chiều dài (mm) Khối lượng (g) Ngày
NT1 NT2 NT3 NT1 NT2 NT3
1
40,7
±1,1 42,0±0,5 41,6±1,0 11,07±0,5 11,78±0,4 11,63±0,3
30
40,8
±0,8 42,0±0,5 41,8±1,3 11,07±0,4 11,76±0,3 11,60±0,2
60
40,9
±0,6 41,8±0,5 41,7±1,0 10,84±0,4 11,58±0,6 10,99±0,3
90
40,3
±1,0 41,1±0,1 41,5±1,0 10,75±0,4 11,06±0,5 10,76±0,3
Các giá tri trong cùng một hàng có chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05)
Các loài động vật thân mềm giúp làm giảm bớt vật chất lơ lửng trong cột nước
và nền đáy. Những vật chất này chủ yếu từ thức ăn dư thừa, vật chất hữu cơ lơ
lửng. Yokohama et al., (2002) đã tìm ra rằng trong hệ thống nuôi gồm tôm thẻ
Fenneropenaeus merguiensis và những loài động vật thân mềm như Perna
viridis, Nerrididae sp. và Cerithideopsilla cingulata, hầu hết các chất dinh
dưỡng cho nhóm thân mềm
được cung cấp từ thức ăn dư thừa của tôm. Trong
nghiên cứu này, thức ăn của hàu chủ yếu là vật chất hữu cơ từ phân tôm và
thức ăn tôm dư thừa thêm vào đó hàu được nuôi trong bể nước tĩnh làm cho
quá trình tăng trưởng không cao như trong tự nhiên. Theo Nguyễn Thức Tuấn
và Phạm Mỹ Dung (2008) môi trường sống tại các đầm phá và cửa sông vẫn
thuận lợi cho sự phát triển của hàu h
ơn trong môi trường nước tĩnh.
3.3.2
Tỷ lệ sống

Tỷ lệ sống của hàu trong 30 ngày đầu tương đối đồng đều nhau, sau đó giảm
dần trong suốt quá trình thí nghiệm. Đặc biệt tỷ lệ sống giảm mạnh từ giai đoạn
75 ngày trở về sau. Tỷ lệ sống của hàu được chia thành hai nhóm, nhóm có tỷ
lệ sống cao ở NT2 (83,3%), kế đến là NT1 (80,4%) và thấp nhất là NT3
(50,7%). Kết quả cho thấy mật độ hàu nuôi ghép từ
100-150/m
2
con có tỷ lệ
sống cao hơn khi nuôi ở mật độ 50con/m
2
. Khi nuôi kết hợp tôm với hàu ở mật
độ cao (100 và 150 con/m
2
) thì khả năng cải thiện môi trường của hàu tốt hơn
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 405-416 Trường Đại học Cần Thơ

414
nên hàm lượng NH
4
+
và NO
2
-

đều thấp hơn so với 2 nghiệm thức còn lại. Vì thế
đã góp phần nâng cao tỷ lệ sống của hàu.














Hìn
h 6. Tỷ lệ sống (%) của hàu theo thời gian
3.3.3 Tỷ lệ thịt khô, chỉ số thể trạng (CI) và chỉ số tuyến tiêu hóa (DGI)
Tỷ lệ khô của hàu khi kết thúc thí nghiệm dao động từ 18,2 đến 19,7%, không
có sự khác biệt thống kê giữa các nghiệm thức và thấp hơn so với tỷ lệ khô ban
đầu. Chỉ số thể trạng ban đầu của hàu (110,7±21,9

mg/g) cao hơn so với kết
quả ở các nghiệm thức khi kết thúc thí nghiệm. Nguyên nhân có thể hàu thí
nghiệm đã thành thục nên tỷ lệ tăng trưởng không đáng kể. Chỉ số CI ở NT3
(86,3 mg/g) cao hơn 2 nghiệm thức còn lại tuy nhiên khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p>0,05).
Bảng 6. Các chỉ tiêu tỷ lệ khô, CI, DGI và tỷ lệ đực cái của hàu trong từng
nghiệm thức
Chỉ số tuyến tiêu hóa khi bố trí thí nghiệm trung bình đạt 1,7±0,7. Sau 90 ngày
nuôi, DGI cao nhất ở nghiệm thức 2 (1,5) và thấp nhất là nghiệm thức 1 (0,6).
Các chỉ tiêu theo dõi Ban đầu NT1 NT 2 NT 3
Tỷ lệ khô (%) 24,4±3,5

18,2±2,3
a

19,9±2,7
a
19,7±2,2
a
Chỉ số thể trạng (CI) 110,7±21,9 85,56±20,7
a
86,3±12,8
a
80,5±23,7
a
Chỉ số tuyến tiêu hóa (DGI) 1,7±0,7 0,6±0,7
a
1,5±0,7
b
0,9±0,7
a
Giới tính (%)
Đực 36,8 41,7 60 57
Cái 63,2 58,3 40 43
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
10 0

1 153045607590
Thời gian T N (ngày )
Tỷ lệ sống (%)
NT1 NT2 NT3

b
b
a
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 405-416 Trường Đại học Cần Thơ

415
Nhìn chung, DGI ở các nghiệm thức sau khi kết thúc thí nghiệm đều thấp hơn
so với ban đầu. Nguyên nhân có thể là khả năng lọc của hàu lớn nên nguồn vật
chất hữu cơ từ phân tôm và thức ăn tôm thừa không đủ so với nhu cầu của hàu.
Thực tế cho thấy trong quá trình thí nghiệm độ trong của cột nước trong bể
nuôi luôn cao. DGI của các cá thể trong các nghiệm thức không đồng đều do
đó độ biến động khá l
ớn. Ở nghiệm thức 2 và 3 số cá thể có vách tuyến tiêu
hóa dày với cấu trúc đầy đủ nhiều hơn so với NT1.

4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1 Kết luận
-
Tỷ lệ sống của tôm thẻ đạt cao nhất khi nuôi kết hợp với hàu ở mật độ 100
và 150 con/m
2
.
-
Tăng trưởng khối lượng, năng suất tôm cao nhất ở nghiệm thức nuôi kết
hợp với hàu ở mật độ 100 và 150 con/m

2
, khác biệt có ý nghĩa với nghiệm
thức đối chứng (p<0,05).

-
Hệ số FR và các chỉ tiêu màu sắc tôm ở nghiệm thức 150 và 100 hàu/m
2
tốt
hơn mật độ 50con/m
2
và không nuôi kết hợp.

- Tỷ lệ sống của hàu đạt cao nhất ở nghiệm thức 100con/m
2
(83,3%) và
150con/m
2
(80,4%). Ở mật độ kết hợp 100con/m
2
, hàu có chỉ số DGI cao
nhất (1,5). Tuy nhiên trong điều kiện thí nghiệm này, hàu tăng trưởng kém.
- Nuôi kết hợp tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) (74con/m
2
) với hàu
cửa sông (Crassostrea rivularis) (100con/m
2
) có tính khả thi.
4.2 Đề xuất
- Bố trí thí nghiệm với mật độ tôm cao hơn và diện tích bể lớn hơn.
- Nghiên cứu khả năng nuôi kết hợp của hàu với các đối tượng thủy sản có

giá trị kinh tế khác nhằm cải thiện môi trường. Đưa mô hình ra thực tế sản
xuất nâng cao hiệu quả kinh tế.
LỜI CẢM TẠ
Tác giả gởi lời cảm ơn đến Bộ môn Kỹ thuật nuôi hải sản, Bộ môn Sinh
học & Bệnh thủy sản, Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ đã giúp đỡ
trang thiết bị mô học. Chân thành cảm ơn trường Đại học Cần Thơ đã
hỗ trợ kinh phí. Cảm ơn ThS Huỳnh Hàn Châu, bạn Phạm Thị Hồng
Diễm, Phan Thanh Toàn, Bùi Quốc Chiến đã giúp
đỡ trong quá trình
thực hiện nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 405-416 Trường Đại học Cần Thơ

416
Boyd, C. E and Green, B. W, 2002. Coastal water quality mornitering in shrimp
Areas: An example from hondurras. Resport of the World Bank, NACA,
WWF and FAO consortium program in shrimp farming and the environment.
World progess for public discussion: 29p.
Chanratchkoll, P., J. R. Turbull, J. S. Funge-Smith and C. Limsuwan, 1995.
Health managent in shrimp ponds, 2nd edition. Aquatic Aninal Health
Research Institute, Department of Fisherries, Kasetsart University Campus,
Bangkok, Thailand, pp: 111.
Cheng , J.C and T.S Chin, 1998. Accute oxicity of Nitrite to shrimp tiger praw,
Penaeus monodon. Aquaculture 69(1998): 253-262.
Lê Minh Viễn và Phạm Cao Vinh, 2007. Nghề nuôi hàu ở miền Nam hiện nay và
những định hướng phát triển bền vững trong tương lai. Tuyển tập báo cáo
khoa học Hội thảo động vật thân mềm toàn quốc lần IV - Nha Trang, 5 –
6/09/2005. NXB Nông Nghiệp: 304 – 314.
Martinez-Cordova, L. R. and M. Martinez-Porchas, 2006. Polyculture of Pacific
white shrimp, Litopenaeus vannamei, giant oyster, Crassostrea gigas and

black clam, Chione fluctifraga in ponds in Sonora, Mexico. Aquaculture 256
(2006): 321-326.
Nguyễn Chính, 2007. Vai trò làm sạch môi trường của động vật thân mềm
(Mollusca) hai vỏ (
Bivalvia). Hội thảo động vật thân mềm toàn quốc lần V-
Nha Trang, 17 – 18/09/2007. Nhà xuất bản Nông Nghiệp: 35 – 39.

Nguyễn Thức Tuấn và Phạm Mỹ Dung, 2008. Một số kết quả nuôi ghép hàu cửa
sông Crassostrea rivularis trong ao nuôi tôm sú công nghiệp. Tuyển tập báo
cáo khoa học Hội thảo động vật thân mềm toàn quốc lần thứ V – Nha Trang,
17-18/09/2007. Nhà xuất bản Nông nghiệp: 366 – 374.
Thao T.T. Ngo, S.G. Kang and K.S. Choi, 2002. Seasonal change in repoductive
condition of Pacific oyster, Crassostrea gigas (Thunberg) from suspended
culture in Gosung Bay, Korea. Korea journal of Enviromental Biology 20 (3):
268-275.
Thái Bá Hồ và Ngô Trọng Lư, 2004. Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng. Nhà xuất
bản Nông nghiệp (2004): 108 trang.
Vijayan, K.K. and Diwan, A.D. 1995. Influence of temperature, sanlinity, pH and
light on molting and growth in the Indian White prawn Penaeus indicus under
Laboratory conditions. Asian Fisheries science 8(1995):63-72.
Whetstone, J.M., G. D. Treece, C.L.B and Stokes, A.D. 2002. Opporrunities and
Constrains in Marine Shrimp Farming. Southern Regional Aquaculture Center
(SRAC) publication No. 2600, USDA.
Yokoyama, H., Higano, J., Adachi, K., Ishihi, Y., Yamada, Y., Pitchicul, P., 2002.
Evaluation of shrimp polyculture system in Thailand based on stable carbon
and nitrogen isotope ratios. Fish, Sci. 68: 745-750.

×