Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Về HAI LOàI ONG Ký SINH QUAN TRọNG Trên SÂU NON SÂU KHOANG NHóM SÂU ĐO XANH Và SÂU XáM Hại TRÊN ĐậU Đỗ Và LạC pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.81 KB, 5 trang )

kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 4/2008

Về HAI LOàI ONG Ký SINH QUAN TRọNG Trên SÂU NON
SÂU KHOANG NHóM SÂU ĐO XANH Và SÂU XáM Hại TRÊN ĐậU Đỗ Và LạC
About two braconid parasitoids
Homolobus elabagalus
and
H.truncatoides


Khuất Đăng Long
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật

Abstract
Two braconid parasitoids Homolobus (Apatia) elabagalus (Nixon, 1938) and H. (Apatia)
truncatoides van Achterberg, 1997 newly recorded for the fauna of beneficial insects of Vietnam,
those parasitoids were reared from larvae of insect pests mainly infested on beans, groundnut crops,
namely Agrotis ypsilon Rottemberg, Plusia eriosoma Doubleday, P. intermixta Warren, P. ni Hubner
and Spodoptera litura (Fabricius). The two parasitoids are also described and illustrated.

I. Mở ĐầU
Các loài sâu xám Agrotis ypsilon Rottemberg,
nhóm sâu đo xanh Plusia eriosoma Doubleday
P. intermixta Warren, P. ni Hubner và sâu
khoang Spodoptera litura (Fabricius) thuộc họ
ngài Đêm (Noctuidae) là các loài sâu hại gặp trên
đậu đỗ và lạc. Nhóm sâu hại này gây hại cho đậu
đỗ và lạc nhưng khó xác định chính xác thời kỳ
phát sinh trên cây trồng, vì vậy việc phòng trừ
những đối tượng này cũng không dễ dàng.
Cho đến nay, các loài ong ký sinh từ nhóm


sâu hại trên gần như chưa được điều tra nghiên
cứu kỹ. Riêng đối với sâu khoang Spodoptera
litura, gần đây chúng tôi đã hệ thống 10 loài ong
ký sinh thuộc giống Microplitis Foerster (Khuất
Đăng Long, 2007). Tuy nhiên trên nhóm sâu xám
A. ypsilon và nhóm sâu đo xanh Plusia eriosoma,
Plusia ni, P. intermixta thì chưa thấy tài liệu nào
ở trong nước đề cập đến các loài ong ký sinh của
chúng.
Trong bài này, chúng tôi đưa ra kết quả điều
tra về hai loài ong ký sinh thuộc họ Braconidae
gặp ở sâu non các loài: sâu khoang, sâu xám và
sâu đo xanh hại trên đậu đỗ, lạc và rau ngót.
Đồng thời mô tả những đặc điểm hình thái để
nhận biết loài ong ký sinh quan trọng này.
II. PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU
Sử dụng vợt để điều tra trên đồng ruộng trồng
đậu đỗ và lạc ở những khu vực rất ít sử dụng
thuốc trừ sâu (Sóc Sơn, Hà Nội). Nuôi sinh học
các loài sâu hại thu được từ đậu đỗ, lạc và rau
ngót trong phòng thí nghiệm để kiểm tra vật chủ
của hai loài ong ký sinh. Phân loại các phân
giống và loài theo tài liệu của van Achterberg
(1997). Trong hình vẽ sử dụng mũi tên để chỉ ra
sự khác nhau rõ rệt giữa hai loài.
Công trình này là kết quả của đề tài NCCB mã
số 6 017 06.
III. KếT QUả NGHIÊN CứU
Ngoài 10 loài ong ký sinh thuộc giống
Microplitis Foerster gặp trên sâu khoang

Spodoptera litura đã được chúng tôi hệ thống
trước đây (Khuất Đăng Long, 2007), trong bài
báo này, chúng tôi bổ sung hai loài Homolobus
(Apatia) elabagalus (Nixon, 1938) và Homolobus
(Apatia) truncatoides van Achterberg, 1997
(Hymenoptera: Braconidae: Homolobinae). Như
vậy, ngoài danh sách 10 loài ký sinh thuộc giống
Microplitis gặp ở sâu khoang, hai loài này là ghi
nhận mới từ khu hệ ong ký sinh của Việt Nam.
Đây là nhóm ký sinh quan trọng đối với sâu
khoang Spodoptera litura, nhóm sâu đo Plusia
eriosoma, P. intermixta, Plusia ni và sâu xám
Agrotis ypsilon hại trên đậu đỗ, lạc và rau ngót.
1. Vị trí phân loại học
Hai loài Homolobus (Apatia) elabagalus
kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 4/2008
(Nixon) và Homolobus (Apatia) truncatoides van
Achterberg thuộc phân họ Homolobinae trong họ
ong ký sinh Braconidae. Phân họ Homolobinae
gồm những loài ong nội ký sinh có kén đơn gặp ở
sâu non nhiều loài côn trùng thuộc bộ cánh Vảy
(Lepidoptera). Homolobus Foerster là một giống
phổ biến thuộc phân họ này, giống Homolobus
gồm có 5 phân giống: Apatia Enderlein,
Chartolobus van Achterberg, Homolobus
Foerster, Oulophus van Achterberg và Phylacter
Reinhard. Các loài thuộc giống Homolobus
thường gặp ký sinh ở sâu non các loài thuộc họ
ngài Đêm (Noctuidae), còn gặp chúng ký sinh ở
các loài côn trùng thuộc họ ngài Sâu đo

(Geometridae) và ngài Cuốn lá héo
(Lasiocampidae).
2. Đặc điểm hình thái
Homolobus (Apatia) elabagalus (Nixon,1938)
(hình 1-11)
Ong cái (hình 1), thân dài 6.0-6,5 mm; cánh
trước dài 6,5-6,8 mm; râu đầu có 42-44 đốt; râu
môi có đốt thứ 4 dài hơn 1,1 lần đốt thứ 3; đốt
râu 3 và 4 dài tương ứng bằng 3,2 và 3,0 lần
chiều rộng của chúng, đốt râu đỉnh vuốt nhọn
hình kim ở cuối, đốt 4 râu môi dài bằng 3 lần đốt
3 (hình 6), râu hàm dài bằng 1,2 lần chiều dài của
đầu, rìa phía trong mắt kép có viền ít (hình 8).
Đầu nhìn phía sau có chiều dài mắt kép bằng 3,7
lần chiều dài thái dương, tỷ lệ khoảng cách giữa
hai mắt đơn sau (POL): đường kính mắt đơn
(OD): khoảng cách từ mắt đơn sau đến rìa mắt
kép (POL)=7:8:5. Trán gần như phẳng và nhẵn,
đỉnh đầu nhẵn, mặt khá phẳng, giữa có chấm lỗ
nhăn mịn hai bên nhẵn gần như da, mảnh gốc
môi trên nhẵn.
Chiều dài đốt ngực bằng 1,2 lần chiều cao
(nhìn bên sườn), sườn bên ngực trước nhẵn trừ
một số khía nổi ở phía trước và khía nhăn ở phía
sau (hình 1), rãnh lõm ở sườn ngực giữa có chỗ
lõm với chấm nhăn lưới, phần sườn ngực phía
trên rãnh lõm này nhẵn, rãnh lưng khá nông (hình
11). Thùy giữa và hai thùy bên mảnh ngực giữa
nhẵn trừ một số chấm lõm mịn, phần phía trước
đốt trung gian nhẵn, gốc đốt trung gian có gờ

ngắn dọc giữa, phần giữa và sau có gờ khía
ngang.
Cánh trước có tỷ lệ các gân r:3-SR:SR1=
10:13:60, gân SR1 hơi cong ở giữa, gân cu-a
cong ở gốc (hình 2), tỷ lệ các gân 1-CU1:2-
CU1=2:24, tỷ lệ các gân 2-SR:3-SR:r-
m=11:13:7, cánh trước có gân 2A phát triển rõ
(hình 2). Cánh sau có gân r phát triển, gân này
chia đôi ô rìa trên cánh sau làm 2 phần bằng nhau
(hình 3), gân 2-SC+R nằm hơi ngang (hình 3)
nhưng đôi khi nằm dọc (hình 9), gân SR cong ở
gốc (hình 3, 9).
Mặt trong các móng chân đầu có lông răng
lược (hình 4 và 5), cựa trong và ngoài ống chân
giữa tương ứng dài bằng 0,6 và 0,5 lần đốt bàn 1
chân giữa, cựa trong và ngoài ống chân sau tương
ứng bằng 0,5 và 0,4 lần đốt bàn 1 chân sau.
Tấm lưng bụng 1 dài bằng 2,7 lần chiều
rộng ở đỉnh đốt này (hình 10), trên mặt tấm
lưng bụng 1 nhẵn, bao máng đẻ trứng bằng
0,07 lần chiều dài cánh trước (hình 1).

kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 4/2008


Hình 1.11. Homolobus (Apatia) elabagalus (Nixon,1938) (theo van Achterberg, 1997)
1- Ong cái, 2- cánh trước, 3- cánh sau, 4- mặt ngoài móng chân trước
5- mặt ngoài móng chân giữa, 6- râu hàm và râu môi, 7- đầu nhìn phía sau,
8- đầu nhìn phía trước, 9- phần giữa cánh sau, 10- tấm lưng bụng 1, 11-mesonotum.


Cơ thể màu vàng hơi nâu, râu đầu (trừ phần
gốc nhạt màu hơn) và phần giữa 3 mắt đơn
(stemmaticum) màu nâu tối, mắt cánh có màu hơi
vàng.
Trong nước, loài này có phân bố ở Hà Nội,
Hòa Bình, Thái Nguyên. Trên thế giới loài này có
phân bố ở ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan,
Philipin. ở những nước này, vật chủ của ong ký
sinh được xác định là sâu cuốn lá Selepa celtis.
2. Homolobus (Apatia) truncatoides van
Achterberg (hình 12-25)
Ong cái (hình 12), thân dài 5,0-6,5 mm; cánh
trước dài 3,5-7,0 mm, râu đầu có 40-44 đốt, râu
môi có đốt thứ 4 dài hơn 1,6-2,5 lần đốt thứ 3,
râu hàm dài bằng chiều dài đầu, nhìn phía trước
mắt kép có đường viền mờ (hình 22); nhìn từ
phía sau mắt kép dài bằng 2,1 lần thái dương
(hình 21), ba mắt đơn lớn, tỷ lệ khoảng cách giữa
hai mắt đơn sau (POL): đường kính mắt đơn sau
(OD): khoảng cách từ mắt đơn sau đến rìa mắt
kép (OOL)=12:10:13 (hình 21).
Mặt khá phẳng và có chấm lõm nhăn ngang rõ
từ phía dưới hốc gốc râu (hình 22), mảnh gốc
môi trên khá lồi có chấm lõm; chiều dài má
(khoảng cách từ gốc hàm đến mắt kép) dài bằng
0,9 lần chiều rộng của gốc hàm, góc trên gốc hàm
thấp hơn rìa dưới của mắt kép (hình 22).
Chiều dài đốt ngực bằng 1,4 lần chiều cao,
sườn bên của ngực trước (pronotum) nhẵn, ở giữa
có khía và phía sau nhăn lưới (hình 12), nhìn từ

phía trên hai rãnh lưng sâu có khía (hình 24), các
thùy của meoscutum có chấm lõm nhỏ; rãnh lõm
ngang sườn ngực giữa và phía dưới rãnh này có
hình nhăn lưới dày, phần còn lại phía trên nhẵn trừ
một số chấm lõm ở sát khớp nối sườn ngực giữa
và sườn ngực sau; sườn ngực sau nhẵn có nếp
nhăn ở nửa dưới; mặt đốt trung gian có hình nhăn
lưới mịn khá dày trừ dải hẹp phía trước nhẵn với
một gờ dọc ngắn. Cánh trước (hình 14) có tỷ lệ
các gân r:3-SR:SR1=6:10:47, gân SR1 hơi lồi
cong; gân cu-a lệch về phía sau gân 1-M, tỷ lệ các
gân 2-SR:3-SR:r-m=10:10:6, có đoạn gân 2A phát
triển phía gốc cánh trước với lông măng dày (hình
16). Cánh sau không có gân r, gân SR hơi cong,
kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 4/2008
gân 2-SC+R nằm ngang, gân SC+R khá ngắn và hơi cong (hình 15 và 17).



Hình 12-25. Homolobus (Apatia) truncatoides van Achterberg
(theo van Achterberg, 1997)
12-Ong cái, 13-các đốt râu đỉnh, 14- cánh trước, 15- cánh sau, 16- gốc cánh trước
17- gân 2-SC+R cánh sau, 18- cựa ống chân sau (ong đực), 19- mặt trong móng chân sau, 20- mặt
ngoài móng chân sau, 21- đầu nhìn từ phía sau
22- đầu nhìn từ phía trước, 23- đỉnh bao máng đẻ trứng
24- đốt ngực (mesoscutum), 25- tấm lưng bụng 1+2

Đốt háng sau có chấm lỗ rõ, mặt trên đốt
háng sau nhăn, mặt trong móng chân không có
lông hình răng lược chỉ ở mặt ngoài móng chân

sau có lông măng nhọn (hình 19, 20), đốt đùi,
ống chân sau và đốt bàn 1 chân sau tương ứng
dài bằng 7, 10 và 9 lần chiều rộng của chúng;
cựa ngoài và cựa trong ống chân sau tương ứng
dài bằng 0,6 và 0,5 lần chiều dài đốt bàn 1 chân
sau, ở ong đực, cựa ống chân sau cắt cụt rõ ở
đỉnh (hình 18).
Tấm lưng bụng 1 dài bằng 3,2 lần chiều rộng
ở đỉnh đốt này (hình 25), mặt tấm lưng bụng 1
có khía nhăn lưới dày, gốc tấm lưng bụng 2 có
hình tam giác ngược nhỏ và nhẵn bóng, tấm
lưng bụng 2 và 3 nhẵn. Bao máng đẻ trứng
ngắn, bằng 0,05-0,08 lần chiều dài cánh trước
và bị cắt cụt ở đỉnh (hình 23).
Cơ thể có màu nâu vàng; râu đầu (trừ mặt
trong đốt gốc râu và đốt quay), toàn bộ các đốt
bàn chân, thùy giữa mesoscutum, một phần tấm
ngực sau (metanotum), tấm lưng bụng 1+2 lẫn
màu hơi nâu, màng cánh trong; mắt cánh màu
nâu sáng.
Trong nước, loài này có phân bố ở Hà Nội,
Nghệ An. Trên thế giới loài này có phân bố ở Ai
Cập, ả Rập Saudi, Etiopia, Madagaxca, Nam
Phi, Nigiêria, Italia, Tây ban Nha, Sri Lanka,
Trung Quốc, Malaixia. ở những nước này, vật
chủ của ong ký sinh được xác định là sâu
khoang Spodoptera litoralis.
kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 4/2008
3. Sinh cảnh/cây trồng
Cả hai loài ong ký sinh này đều xuất hiện và

hoạt động trên sinh quần trồng cây đậu đỗ, lạc
và rau ngót. Trong đó, loài Homolobus (Apatia)
elabagalus thu được trên rau ngót trong vườn,
còn loài Homolobus (Apatia) truncatoides thu
được trên ruộng đậu đỗ và lạc. Đặc biệt, chúng
chỉ còn gặp ở những ruộng không hoặc rất ít
phun thuốc trừ sâu. Rõ ràng chúng là những loài
rất nhạy cảm với tác động của thuốc trừ sâu hóa
học.
Đặc điểm kén của hai loài này tương đối
giống nhau, kén đơn, khá mỏng, kén có màu nâu
sáng hoặc nâu vàng nằm bám trên lá. Thường
quan sát thấy ấu trùng thành thục của ong ký
sinh chui ra ở tuổi 3, 4 và 5 rất ít thấy ấu trùng
ký sinh xuất hiện ở sâu non tuổi 6 (sâu khoang).
Như vậy, có khả năng ong cái ký sinh đẻ trứng
vào sâu non tuổi 1, 2 và tuổi 3.
IV. KếT LUậN
Homolobus (Apatia) elabagalus (Nixon) và
Homolobus (Apatia) truncatoides van Achterberg là
hai loài ong ký sinh ở pha sâu non nhóm sâu hại
thuộc họ ngài Đêm (Noctuidae) là sâu xám Agrotis
ypsilon Rottemberg, nhóm sâu đo xanh Plusia
eriosoma Doubleday, P. intermixta Warren, P. ni
Hubner và sâu khoang Spodoptera litura (Fabricius)
gây hại chủ yếu trên đậu đỗ, lạc và rau ngót. Hai loài
ong ký sinh này xuất hiện không thường xuyên ở
những sinh quần cây trồng ít hoặc không sử dụng
thuốc trừ sâu hóa học. Vì vậy, việc nhận biết được sự
tồn tại của chúng trên đồng ruộng rất có ý nghĩa

trong việc duy trì và phát triển tại chỗ, góp phần
phòng trừ nhóm sâu hại khá quan trọng trên đậu đỗ
và lạc.

TàI LIệU THAM KHảO
1. Achterberg van C., 1979. Tijdschrift voor
Entomologie, 122:241-479.
2. Achterberg van C., 1995. Zoologische
Mededelingen, 69(24):307-328.
3. He J.H., Chen X.X., Ma Y., 2000.
Hymenoptera Braconidae, Fauna Sinica. Insecta
Vol. 18. Science Press, Beijing, China. 757 pp.
4. Chen Xuexin; He Junhua; Ma Yun, 1991.
Acta Agriculturae Universitatis Zhejiangensis,
17(2):192-196.
5. Chou L.Y., Hsu T.C., 1995. Journal of
Agricultural Research of China, 44(3): 357-378.
6. Khuất Đăng Long, 2007. Báo cáo khoa học
về Sinh thái và tài nguyên sinh vật. Hội thảo
quốc gia lần thứ hai, Nxb NN, H.10/2007:140-
152.
7. Nixon G.E.J., 1938. Bulletin of
Entomological Research, 29(4):415-424.
Yu D. S., Achterberg K. van & Horstmann K.,
2005: Ichneumonoidea 2004 (Biological and
taxonomical information), Taxapad Interactive
Catalogue, Vancouver.

×