Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

NHẬN ĐINH VỀ HỆ THỐNG SX HÀNG LOẠT (CỦA HENRY FORD) VÀ HỆ THÔNG SX TINH GỌN (CỦA TOYODASAKICHI) potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.79 KB, 4 trang )

NHẬN ĐINH VỀ HỆ THỐNG SX HÀNG LOẠT (CỦA HENRY FORD)
VÀ HỆ THÔNG SX TINH GỌN (CỦA TOYODA SAKICHI)
Trong nền kinh tế thị trường hội nhập như ngày nay, sự cạnh tranh luôn diễn ra gay
gắt trên toàn bộ thị trường: từ chất lượng, giá cả sả phẩm đến cách thức phục vụ, thậm chí
là các dịch vụ hậu mãi; khách hàng được hầu hết các doanh nghiệp đề cao và chú ý hơn,
không những là “thượng đế”, đối với các Công ty lớn khách hàng được xem như là đối
tác cùng chia sẽ lợi ích chiến lược. Cũng chính vì lý do đó các doanh nghiệp đã đặt vấn
đề “giá trị sản phẩm theo góc độ của khách hàng” làm mục tiêu trong sản xuất.
Trước thời đại công nghiệp, sản phẩm hàng hóa thường được sản xuất theo phương
thức thủ công và đơn chiếc. Trong thời đại công nghiệp, cùng với sự ra đời của dây
chuyền sản xuất công nghiệp, đồng thời xuất hiện một phương pháp tổ chức sản xuất mới
là phương thức sản xuất hàng loạt . Thay vì sản xuất từng sản phẩm hàng hóa đơn chiếc
qua các công đoạn sản xuất truyền thống, thì người ta tổ chức thực hiện một công đoạn
sản xuất nhất định trong quy trình công nghệ để làm ra các chi tiết, bộ phận giống nhau
trên hàng loạt sản phẩm cùng loại (mỗi chi tiết, bộ phận có thể xem như 1 sản phẩm).
Henry Ford – người sáng lập hãng xe ô tô Ford – cha đẻ của cách thức sản xuất
hàng loạt, được xem đã có công xã hội hóa ô tô tại Mỹ. Đầu những năm 1900, xe ngựa
được sử dụng là phương tiện giao thông chủ yếu. Ô tô đã được biết đến, nhưng còn quá
đắt, phức tạp và hầu như bị người ta hoài nghi về khả năng của nó. Nhưng rồi có một
người đã làm thay đổi những nhận thức đó về ô tô. Đó là Henry Ford, người đã nhìn ra cơ
hội để rồi tạo ra 1 chiếc xe dành cho đại chúng. Nước Mỹ nhanh chóng tràn ngập ô tô
trên đường phố khi những chiếc ô tô được Henry Ford sản xuất đại trà gia nhập thị trường
với giá rẻ. Bản chất của cách thức này là sản xuất số lượng lớn sản phẩm với hiệu quả chi
phí thấp. So với việc lắp ráp thủ công, dây chuyền này đã tiết kiệm thời
gian sản xuất từ 12 tiếng 30 phút xuống còn 2 tiếng 40 phút. Ford đã
đưa ra các phương pháp sản xuất xe với số lượng lớn và quản lý công
1
nghiệp trên quy mô lớn đặc biệt là các dây chuyền lắp ráp di động, đó
chính là nguyên nhân Ford luôn dẫn đầu thị trường ô tô trong nhiều
thập niên liền với mẫu hàng ô tô “Model – T siêu rẻ”. Phương pháp sản
xuất hàng loạt được xem như là cách mạng của cách thức sản xuất,


đưa con người tiến gần hơn đến việc tối ưu hóa trong sản xuất, nó
mang lại giá trị hết sức to lớn cho loài người, thậm chí đến ngày hôm
nay, giá trị ấy vẫn tồn tại và được áp dụng.
Phương pháp sản xuất hàng loạt có chi phí cho công nhân lớn,
nghĩa là chi phí cho việc đào tạo và thuê công nhân có tay nghề cao.
Bên cạnh đó các bộ phận sản xuất khá phức tạp gắn liền với qui trình
sản xuất và yêu cầu kỹ thuật cao, kéo theo việc tổ chức sản xuất
thường phức tạp, sản phẩm tồn kho trong quá trình sản xuất lớn. Vấn
đề đồng bộ hóa giữa các bộ phận, phân xưởng được xem là thách thức
lớn gây dán đoạn trong quá trình sản xuất. Cách thức này thường phù
hợp với các ngành cơ khí, điện dân dụng, dệt may, …với tính chuyên
môn hóa cao, quá trình sản xuất sản phẩm tương đối ổn định, lặp đi lặp
lại nên năng suất thường cao, làm giảm giá thành của sản phẩm.
Tuy nhiên, phương pháp sản xuất hàng loạt không thật sự giải quyết triệt để “giá
trị sản phẩm theo góc độ của khách hàng”, khi chỉ chú trọng nâng cao giá trị sản phẩm
thông qua việc sản xuất số lượng lớn sản phẩm.
Cuối thế chiến II, Toyoda Sakichi, người sáng lập ra công ty kéo sợi và dệt vải
Toyota cũng mơ ước có thể cung cấp xe ô tô cho công chúng như giấc mơ của Henry
Ford 30 năm trước đó. Cùng với cộng sự Taiichi Ohno, Ông đã đưa ra một hệ thống sản
xuất hiệu quả để sản xuất ô tô có chất lượng cao – hệ thống sản xuất tinh gọn Toyota, cơ
bản là loại bỏ hoàn toàn các phần dư thừa trong sản xuất.
Theo như phương pháp này, mục tiêu không chỉ là hạ giá thành thông qua việc sản
xuất số lượng nhiều hay ít mà vấn đề cốt lõi được xét đến là sự lãng phí. Toàn bộ chu
trình sản xuất sản phẩm được đặt trên góc độ lãng phí để xem xét, tìm hiểu, phân tích, và
2
được loại bỏ. Sự dư thừa được hạn chế tối đa, bắt đầu ngay từ trước công đoạn sản
xuất: vấn đề vận chuyển nguyên vật liệu tối ưu, thời gian chờ các yếu tố đầu vào làm
đình trệ sản xuất, …; đến trong quá trình sản xuất: gia công, chế tạo bán thành phẩm,
thành phẩm quá mức cần thiết, sản xuất sản phẩm bị lỗi, …; và vẫn hiện diện trong gian
đoạn hậu sản xuất: vận chuyển sản phẩm không cần thiết, tồn kho quá mức cần thiết,

các động tác thừa làm hao tốn năng lượng.
Sự tinh gọn, hạn chế dư thừa rất thực tiễn, không chỉ ở những nơi sản xuất mà còn
ngay cả khối văn phòng. Tại phân xưởng, tận dụng các công cụ và kỹ thuật để giảm chi
phí và thời gian sản xuất đi từ nguyên liệu thô thành các sản phẩm hoàn thiện có thể sử
dụng được là điều dễ nhận thấy. Tại các phòng ban chức năng, quá trình sử dụng thông
tin rút ngắn, khoảng thời gian từ khi nhận được đơn hàng của khách hàng cho đến khi
giao các sản phẩm hoặc chi tiết được loại bỏ mọi dạng lãng phí. Sản xuất tiết kiệm giúp
giảm được các chi phí, chu trình sản xuất và các hoạt động phụ không cần thiết, không có
giá trị, khiến cho công ty trở nên cạnh tranh, mau lẹ hơn và đáp ứng được nhu cầu của thị
trường. Phương pháp tinh gọn không chỉ loại bỏ dư thừa trong quá trình tạo sản phẩm,
trong toàn đơn vị, quan trọng hơn là tạo nên được văn hóa tinh gọn, con người tinh gọn
trong toàn hệ thống. Điều đó đồng thời tạo động lực cho sự phát triển nhân sự tại công ty,
sự tinh gọn kích thích tư duy, sáng tạo của người lao động về các sáng kiến, cải tiến trong
sản xuất, thậm chí cả trong phương pháp quản lý nhằm hạn chế lãng phí, thúc đẩy lao
động. Đó là hiệu quả mang tính chất xã hội to lớn.
Để tạo cơ hội triệt để cho việc phát hiện và loại bỏ những lãng phí này, cần thiết
phải tuyên truyền và thực hiện rộng khắp nhà máy, đặc biệt là chú trọng việc học bằng
thực tiễn hơn là việc học trên lý thuyết.
Sau 30 năm, rõ ràng Toyoda Sakichi đã được thừa hưởng rất nhiều từ tư tưởng
Henry Ford trong kinh nghiệm sản xuất với cùng ước mơ về ô tô, xã hội lại được nâng
thêm một bước về phương thức sản xuất không chỉ trong công nghiệp mà trên mọi lĩnh
vực. Phương thức sản xuất tinh gọn thật sự mang lại sự thành công cho Toyoda nói riêng
và lợi ích cho xã hội nói chung khi nhấn mạnh triết lý về “giá trị sản phẩm theo góc độ
của khách hàng”, cũng bỏi vì lý do đó, Toyota trong các thập niên vừa qua luôn dẫn đầu
3
trong thị trường Ô tô trên toàn thế giới, đó là minh chứng rõ ràng nhất để các nhà lãnh
đạo thành công trong tương lai để bắt đầu xây dựng cho chính mình, cho công ty và
người lao động một nền Văn hóa tinh gọn.
4

×