Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.75 KB, 23 trang )

MỤC LỤC

GIỚI THIỆU…………………………………….…………………………3
PHẦN MỘT: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG KẸO CAO SU….…...6
1.1 Lịch sử ra đời kẹo cao su………………………………………………6
1.2 Thói nghiện kẹo cao su của người Mỹ………………………………...9
1.3 Tiêu thụ kẹo cao su ở một số nước ở Châu Âu……………………...10
1.4 Thị trường kẹo cao su Việt Nam……………………………………..10
PHẦN HAI: THÓI QUEN TIÊU DÙNG KẸO CAO SU CỦA NGƯỜI
TIÊU DÙNG VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG QUẢNG CÁO CÁC SẢN
PHẨM KẸO CAO SU Ở VIỆT NAM…………………………...………12
2.1 Thói quen của người tiêu dùng Việt Nam……………...……………12
2.2 Thực trạng Quảng cáo các sản phẩm kẹo cao su ở Việt Nam…...…14
PHẦN BA: NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA QUẢNG CÁO TỚI
THÓI QUEN TIÊU DÙNG KẸO CAO SU CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
VIỆT NAM……………………………………………………….……..…21
3.1 Các lý do dẫn đến hành vi mua của người tiêu dùng……….………21
3.2Tác động của Quảng cáo: .....................................................................22
PHẦN BỐN: KẾT LUẬN……………………………………..………….24


GIỚI THIỆU:

Mọi người đã thưởng thức kẹo cao su từ rất lâu trước khi Bubble Yum
xuất hiện. Tổ tiên chúng ta thời kỳ đồ đá mới đã nhai những chiếc kẹo làm
từ nhựa vỏ cây bulơ.
Các nền văn hóa khác, như Hy Lạp cổ đại và dân da đỏ châu Mỹ cũng
nhai những chất giống cao su làm từ nhựa thơng và chất bã từ cây, cỏ và các
lồi thực vật.
Chất paraffin cũng là một thành phần phổ biến của kẹo cao su, mặc dù
nó khơng thể nhai nếu chưa được làm nóng và làm ẩm trong miệng.


Các loại kẹo cao su hiện đại có từ những năm 1860, khi chất chicle
dùng làm kẹo cao su ra đời. Kẹo cao su chicle dần trở nên được ưa chuộng
hơn so với loại làm từ nhựa thơng, bởi nó mềm hơn, mịn hơn và giữ mùi vị
lâu hơn.
Qua sự phát triển của công nghệ chế biến nhằm phục vụ nhu cầu ngày
càng cao của con người khắp nơi trên thế giới, hiện nay hầu hết kẹo cao su
đều làm từ chất tổng hợp. Nguyên liệu rẻ, dễ dàng chế biến và luôn thay đổi
mùi vị, tạo ra cảm giác mới lạ thu hút người tiêu dùng để gây sức cạnh tranh.
Hàng ngày, trên thế giới lượng kẹo cao su được tiêu thụ lên tới con số khổng
lồ, và thị trường của nó cũng không ngừng mở rộng theo các hướng khác
nhau. Và với thị trường có sức tiêu thụ mạnh mẽ như vậy, các nhà sản xuất,
phân phối ln tìm mọi cách để mở rộng thị phần của mình, đưa các sản
phẩm của mình đi sâu vào tâm trí khách hàng nhằm tăng hiệu quả thu lợi.
Kẹo cao su du nhập vào Việt Nam, đã nhanh chóng được đa số người
tiêu dùng chấp nhận và yêu thích, đặc biệt là giới trẻ. Nó phổ biến đến mức
ngồi ở siêu thị, mà các quán hàng, trà đá ven đường … cho đến hàng ăn vặt
của học sinh tiểu học ln có thứ mặt hàng khơng thể thiếu này. Người ta có
thể đồng ý thay vì nhận tiền lẻ thừa bằng một vài chiếc kẹo cao su, tiện lợi
cho cả người mua và người bán. Tác dụng gây nghiện của kẹo cao su đã
được nhắc đến rất nhiều, người ta còn dựa vào tác dụng đó để phát mình sản
xuất ra các sản phẩm vệ sinh răng miệng, luyện tập cơ hàm … nhằm chăm
sóc sức khỏe.


Cách thức để các sản phẩm kẹo cao su ở Việt Nam tiếp cận với người
tiêu dùng chủ yếu là qua Quảng Cáo trên truyền hình. Ngồi ra cũng có
những chiến lược khác nhưng hầu hết chưa thực sự có những chiến lược rầm
rộ, và mạnh mẽ như ở nước ngoài, hoặc như các sản phẩm ở lĩnh vực khác
trong nước (mạng viễn thơng, nước giải khát). Đã có những sản phẩm đã đi
sâu vào khác hàng từ lâu và gặt hái được thành cơng, cũng có những loại

nhanh chóng bị quên lãng, mặc dù chất lượng rất tốt.
Quan tâm đến các vấn đề trên, và để nhằm có những cái nhìn mới
trong viêc Quảng Cáo, xúc tiến các sản phẩm kẹo cao su cũng như tiềm năng
phát triển của thị trường kẹo cao su từ hiệu quả của Quảng Cáo, tôi đã quyết
định thực hiện đề tài này
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Trong đề tài này, chúng ta sẽ hướng tới các điểm chính sau:
Ảnh hưởng của các chương trình Quảng Cáo tới hành vi mua các sản phẩm
kẹo cao su của khách hàng trên thị trường Việt Nam.
Thị trường kẹo cao su, thói quen mua và sử dụng kẹo cao su của người tiêu
dùng Việt Nam.
Mức độ quan tâm, chú ý của khách hàng đến những chương trình Quảng
Cáo các sản phẩm kẹo cao su trên báo, đài và tác động của Quảng Cáo tới
thói quen tiêu dùng chúng của người tiêu dùng Việt Nam.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là thanh thiếu niên, các khách hàng thường xuyên sử
dụng kẹo cao su.
Phạm vi nghiên cứu là khách hàng trong phạm vi thành phố Hà Nội. Chủ
yếu là ở các khu khu trung tâm, tập trung đông dân cư.
Nội dung nghiên cứu:
Quan sát những hướng đi của các chương trình Quảng Cáo sản phẩm kẹo
cao su đã có trên thị trường Việt Nam, xem tác động của nó tới người tiêu
dùng như thế nào.
Nghiên cứu mức độ quan tâm và thói quen, thị hiếu của người tiêu dùng Việt
trước sự ảnh hưởng của những chương trình Quảng Cáo kẹo cao su.


Phương pháp nghiên cứu:
- Thu thập các dữ liệu có sẵn về tình hình thị trường tiêu thụ các sản phẩm
kẹo cao su trên thế giới và Việt Nam (sách báo, tạp chí, Internet …)

- Thu thập các dữ liệu có sẵn về thống kê tình hình kinh doanh kẹo cao su
trên thị trường Việt Nam (nguồn thu thập thứ cấp hoặc sơ cấp)
- Điều tra phỏng vấn trực tiếp, gián tiếp những đối tượng trẻ về tác động của
Quảng Cáo và thói quen sử dụng các sản phẩm kẹo cao su hàng ngày của họ.
Thống kê bằng số liệu, biểu đồ.


PHẦN MỘT: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG KẸO CAO SU
1.1 Lịch sử ra đời kẹo cao su.
Đầu tiên, xin trích dẫn một vài câu chuyện vui về lịch sử phát triển
của kẹo cao su, đầu tiên là thành công của William Wrigley – người đã lập
ra công ty Wriley lớn mạnh hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh kẹo cao su,
và cũng là một người tài ba trong việc tiếp thị kẹo cao su.
Mùa xuân năm 1891 William Wrigley Jr dời Philadelphia tới Chicago.
Khi đó ơng mới 29 tuổi, trong túi chỉ có vẻn vẹn 32$ và một mong muốn bắt
đầu với cơng việc kinh doanh bằng chính thực lực của mình. Bên cạnh long
nhiệt tình và sức trẻ, Wrigley còn là một người bán hàng tài năng. Là con
trai của một nhà sản xuất xà bông, Wrigley đã mở rộng được mối quan hệ
kinh doanh của cửa hàng Xà bơng Scouring vượt qua ngồi khn khổ một
khu phố của Philadelphia. Khi còn là một cậu thiếu niên, Wrigley đã chính
thức làm nhân viên bán hàng tại cửa hàng của cha đồng thời đánh xe trở
hàng đi hết thị trấn này đến thị trấn khác để tìm những đại lý bán lẻ.
Vào tháng 4 năm 1891 ông đã bắt đầu công việc kinh doanh tại
Chicago với tư cách ông chủ của cửa hàng Xà bơng Wrigley. Để khích lệ
những người thương nhân, ông đã đưa ra những quà tăng, một trong những
quà tặng đó là bột nở. Sau đó bột nở lại trở nên phổ biến hơn xà bông do đó
ơng chuyển từ kinh doanh xà bơng sang kin doanh bột nở. Vào năm 1892,
ông đưa ra ý tưởng tặng hai gói kẹo cao su cho khách hàng khi mua mỗi gói
bột nở. Ý tưởng này đã mang lại thành công lớn, một lần nữa quà tặng – kẹo
cao su – dường như lại có triển vọng hơn cả sản phẩm chính và nó lại được

đầu tư để tung ra thị trường thay thế cho sản phẩm chính.
Vào thời gian đó ở Mỹ có ít nhất trên 12 cơng ty kẹo cao su nhưng
nền công nghiệp này dường như không phát triển lắm. Tuy nhiên Wrigley
cho rằng đây là một sản phẩm rất có tiềm năng và đáng để đầu tư do đó ơng
đã quyết định quảng bá cho sản phẩm này. Hai chi nhánh đầu tiên đã được
mở ra tại Lotta và Vassar.
Tới năm 1893 kẹo cao su Juicy Fruit đã được tung ra thị trường sau đó
là kẹo Spearmint của Wrigley. Có được chỗ đứng trên thị trường kẹo cao su
không phải chuyện đơn giản bởi những công ty trước đây trong ngành kẹo
cao su đã rất quen thuộc với khách hàng. Vào năm 1899 sáu công ty kẹo lớn
nhất đã liên kết với nhau tạo thành tập đồn kẹo cao su lớn (liên hiệp các
cơng ty kẹo cao su) và sự kết nối này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt
động kinh doanh của Wrigley – một công ty non trẻ đã gặp phải rất nhiều


khó khăn khi đứng ngồi tập thể đó. Ln là người đi sau nhưng cuối cùng
công ty ông đã chống lại sức mạnh của tập đoàn.
Wrigley tiếp tục dùng những phần thưởng để khích lệ các thương
nhân nhập hàng của mình. Ơng biết rằng khách hàng sẽ sử dụng kẹo cao su
Wrigley nếu họ nhận được “một chút gì đó thay vì khơng có gì”. Wrigley đã
mở rộng danh mục quà tặng từ những chiếc đèn đến dao cạo và những chiếc
cân. Những quà tặng đi kèm này trở nên thành công tới mức ông phải phát ra
một catalog mẫu quà tặng cho khách hàng lựa chọn.
Wrigley cũng có nhiều kinh nghiệm trong việc dùng các chiến dịch
quảng cáo để thu hút khách mua hàng. Ông là một trong những người tiên
phong trong việc sử dụng các quảng cáo để tăng doanh thu và quảng cáo cho
thương hiệu. Ông nhận ra rằng lượng khách hàng chấp nhận sản phẩm của
ông sẽ tăng nhanh nếu ơng nói với họ về lợi ích của sản phẩm trên báo, tạp
chí quảng cáo, biển hiệu hay những dạng truyền thơng khác. Sau đó ngày
càng nhiều khách sẽ tới các cửa hiệu để tìm hiểu và mua kẹo của ông. Như

vậy tự nhiên các cửa hàng sẽ phải nhập kẹo Wrigley để đảm bảo số lượng
khách hàng của mình.
Ý tưởng này đã được thực hiện khi Wrigley quyết đinhk tập trung vào
việc tung ra thị trường kẹo cao su hương vị bạc hà – sản phẩm được ông xếp
vào loại cao cấp – ngày nay đã trở nên nổi tiếng dưới nhãn hiệu Wrigley’s
Spearley. Ban đầu sản phẩm này bán rất chậm do đó Wrigley đã tiến hành
quảng cáo có quy mơ trên 3 thành phố thuộc miền Đông là Buffalo,
Rochester và Syracuse. Cuối cùng Wrigley đã có được kết quả khả quan.
Thơng qua việc xuất khẩu hàng hóa sang nhiều nước, Uwrigley đã trở
nên nổi tiếng khắp thế giới. Một cách nhanh chóng, cơng ty đã trở thành một
cơ sở kinh doanh có tầm vóc quốc tế. Cơng xưởng đầu tiên được mở ra ở
nước ngoài là tại Canada vào năm 1910, năm 1915 – công xưởng thứ hai tại
Australia, năm 1927 tại Anh, 1939 tại New Zealand. Những môi trường kinh
doanh khách nhau trên thị trường quốc tế đòi hỏi nhiều mẫu mã, chủng loại
cũng như hương vị mới. Trong số đó có lẽ sản phẩm thành cơng nhất ở nước
ngồi là kẹo cao su dạng viên tròn – loại kẹo được bán rất phổ biến dưới
nhãn hiệu “P.K”.
Trong suốt chiến tranh thế giới 2 Phillip Wrigley – con trai và sau này
là chủ tịch công ty – đã dẫn dắt công ty với những bước đi mới lạ nhằm bảo
vệ danh tiếng của nhãn hiệu. Vì chiến tranh, việc cung cấp những ngun
liệu bị chững lại, trong khi đó thì nhu cầu kẹo cao su lại tăng cao. Một lượng
lớn kẹo cao su được cung cấp cho quân đội Hoa Kỳ, từ đó kẹo cao su đã
giúp xóa tan lo âu, nâng cao cảnh giác và cải thiện tinh thần của các chiên
sỹ.


Công ty sản xuất kẹo chất lượng cao với lượng khá lớn tuy nhiên vẫn
không đủ để cung cấp cho khách hàng. Do đó tốt hơn là nên thay đổi loại
kẹo chất lượng cao mà khách hàng vẫn yêu cầu. Chính vì vậy cơng ty đã tiến
hành ngừng cung cấp kẹo nhãn hiệu Wrigley loại Spearmint, Doublemint và

Juicy Fruit cho dân chúng. Tới năm 1944, toàn bộ kẹo sản xuất ra được xuất
trực tiếp ra nước ngoài cho Quân đội Hoa Kỳ.
Đối với dân chúng, công ty tiến hành tung ra một “nhãn hiệu thời
chiên”. Một cách rất chân thực, công ty thông báo với khách hàng rằng sản
phẩm này là hồn tồn ngun chất, có lợi cho sức khỏe, tuy nhiên không đủ
điều kiện để tiêu chuẩn mang nhãn hiệu Wrigley.
Sau đó một thời gian những nguyên liệu chất lượng cao trở nên khan
hiếm đến mức sản xuất không thể đạt được mức lượng kẹo sản xuất trước
chiến tranh khơng đủ để cung cấp thậm chí cho qn đội Mỹ. Do vậy cơng
ty đã dừng hồn tồn việc mở rộng chi nhánh, và đặc biệt “nhãn hiệu thời
chiến” được cung cấp cho quân đội. Cũng thời gian đó một chiến dịch quảng
cáo độc nhất vô nhị đã được tiến hành và nó đã giúp tên tuổi cũng như chất
lượng của kẹo cao su Wrigley trở nên thân quen với khách hàng, thậm chí
ngay cả khi họ khơng thể mua được nó. Quảng cáo khá kịch tính với hình
tượng một gói bọc kẹo cao su Spearmint trống rỗng nhãn hiệu Wrigley với
câu “Hãy nhớ giấy bọc này”.
Sau khi chiến tranh kết thúc việc mua bán những nguyên liệu để dùng
cho việc sản xuất kẹo chất lượng cao lại trở về như bình thường, vì vậy tới
năm 1946 Wrigley’s Spearmint đã trở lại thị trường, sau đó là Juicy Fruit và
năm 1947 là Doublemint. Mặc dù đã vắng mặt hai năm tại Mỹ nhưng
Wrigley vẫn chiếm lại thị trường một cách nhanh chóng và sau đó hoạt động
kinh doanh trở nên phát triể vượt mức trước chiến tranh. Việc tiếp theo của
công ty Wrigley là tập trung mở rộng ra kinh doanh toàn cầu.
Thêm vào những cơ sở trước đây ở Chicago, Australia, Canada, Anh
và New Zealand công ty mở them những văn phòng mua bán ở Châu Âu và
Châu Á. Để đáp ứng lượng tăng cầu sản phẩm Wrigley, nhiều nhà máy đã
được mở thêm tại: Malina thuộc Philippines (1965), Biesheim, Pháp (1967);
Salzburg, Australia (1968); Nairobi, Kenya (1971) và Taipen, Taiwan
(1978). Sau đó, để đáp ứng yêu cầu thay đổi trong kinh doanh, công ty đã
tiến hành hợp nhất những cơng nghệ máy móc mới hiện đại hơn thay thế cho

những cái trước đây. Năm 1954 tiến hành thay đổi ở New Zealand, năm
1958 ở Australia, năm 1963 ở Canada, năm 1971 ở Anh và ở Đài Loan vào
năm 1985. Và vào mùa xuân năm 1991 để chinh phục một thị trường mới,
công ty đã mở một nhà máy ở Quảng Châu, Trung Quốc, ở Mỹ thì xây dựng
thêm nhà máy ở Santa Cruz, Canifonia năm 1954 và Gainesville, Georgia.


Để thay đổi sở thích của khách hàng, Wrigley đã giới thiệu kẹo cao su
Freedent, kẹo hương quế Big Red và kẹo cao su dùng thay đổi bong bong
lớn Hubba Bubba vào giữa những năm 1970. Để đáp ứng nhu cầu về sản
phẩm có vị ngọt ngon hơn, vào năm 1984 Wrigley đã cho ra đời kẹo cao su
ngọt nhiều hơn dưới tên Extra. Ngày nay những kẹo cao su nhãn hiệu
Wrigley đã trở thành sản phẩm yêu thích của hơn 100 quốc gia trên thế giới
và Wrigley được coi là cơng ty hàng đầu trong lĩnh vực này.
1.2 Thói nghiện kẹo cao su của người Mỹ
Năm 1906, Frank Henry Fleer cho ra đời loại kẹo cao su có thể tạo ra
bong bóng, gọi là Blibber-Blubber. Nhưng nó chẳng gây được tiếng vang
nào. Bóng nổ ngay sau khi ra khỏi miệng và cao su văng dính khắp mặt. Cho
đến một ngày tháng 8-1928, một công nhân của Fleer tên Walter Diemer đã
tìm ra lời giải.
Sau một năm phụ trách pha chế, Diemer đã tìm được cơng thức hợp
chất giúp tạo ra bong bóng to và sau khi bóng nổ thì lớp cao su dễ dàng bung
ra, khơng dính tèm lem vào mặt. Tuy nhiên, hôm sau, mẻ kẹo kế tiếp bị hư
do Diemer không cẩn thận ghi chép trọng lượng và số lượng các chất tạo
thành hợp chất. Sau bốn tháng thí nghiệm, ơng thành cơng. Chewing-gum
này được đặt tên Dubble Bubble.
Thói nghiện kẹo cao su của người Mỹ cuối thập niên 1930 là kết quả
từ sự thiếu thốn trong Thế chiến thứ hai. Đường cũng như tinh chất bạc hà
được chia theo khẩu phần và nguồn nhựa tự nhiên dùng làm chewing-gum
nhập từ miền Viễn Đông gần như cạn kiệt. Lúc này, lượng hàng tích trữ

được tung ra với giá cắt cổ, đôi khi đến 1 USD/viên. Một số người đã nghĩ
ra cách bỏ chewing-gum nhai rồi vào ly nước với hy vọng nó vẫn cịn dẻo
cho lần dùng sau.
Sau Thế chiến thứ hai, công việc kinh doanh trở nên sôi nổi, với cuộc
cạnh tranh sống mái giữa Công ty Topps và J. Warren Bowman với sản
phẩm Blony (được quảng cáo: “Thanh kẹo cao su bự nhất giá chỉ 1 xu”).
Nhờ ký hợp đồng với hầu hết ngôi sao bóng chày để in tên họ lên “danh
thiếp chewing-gum”, Topps trở thành công ty số một vào năm 1955 và một
năm sau nó mua ln Bowman.
Frank Henry Fleer trở thành công ty đầu tiên dùng dải giấy nhỏ in truyện
tranh (cuốn quanh thanh kẹo), đề cao chú bé gan dạ Pud và cậu bạn thân
Rocky Roller. Năm 1953, hình ảnh Pud bị lu mờ, khi Topps phát hành
truyện tranh đầu tiên để xây dựng hình tượng chàng nhóc Bazooka Joe. Chữ
“bazooka” khơng lấy từ nguồn gốc một loại vũ khí mà ngẫu nhiên xuất phát


từ tên loại nhạc cụ cho âm thanh vui nhộn làm từ ống và phễu, được sáng
chế bởi diễn viên hài Bob Burns năm 1930.

1.3 Tiêu thụ kẹo cao su ở một số nước ở Châu Âu
Theo thăm dò của hãng Wrigley, hiện hãng chiếm tới 90% thị trường kẹo
cao su tại Séc, thì người dân Séc đứng thứ ba trong số các nước Đông Âu về
nhai kẹo cao su. Năm ngối trung bình mỗi người Séc nhai hết 128 chiếc.
Trong những nước thuộc khối Đơng Âu cũ thì Séc chỉ đứng sau Slovenia và
Croatia.
Tính về số kẹo cao su được tiêu thụ thì đứng đầu là Bắc Mỹ và Tây Âu, nơi
tiêu thụ trung bình lên tới gần 200 chiếc mỗi năm trên đầu người.
Trung bình mỗi năm người dân Slovenia nhai hết 167 chiếc kẹo cao su,
người Croatia 160 chiếc. Slovakia đứng thứ 6 trong những nước Đông Âu
với 110 chiếc. Đứng cuối bảng là Litva, người dân ở đây chỉ nhai trung bình

66 chiếc kẹo cao su mỗi năm.
Trong các nước Tây Âu thì đứng đầu là Thụy Sĩ, với 186 chiếc kẹo cao su
trên đầu người mỗi năm. Đứng thứ nhì là người dân Ai-len với 173 chiếc.
Đứng cuối bảng trong số các nước Tây Âu là người Đức với tiêu thụ 112
chiếc mỗi năm.
1.4 Thị trường kẹo cao su Việt Nam
Việt Nam là một trong những thị trường phát triển sau của kẹo cao su, sau
khi đã du nhập hết ở bắc Mỹ, Châu Âu … rồi sang Châu Á. Tuy phát triển
sau nhưng thị trường kẹo cao su Việt Nam cũng như Trung Quốc và các
nước ở trong khu vực, luôn tỏ ra rất có tiềm năng. Hàng loạt các sản phẩm
mới của các hãng được tung ra ở đây nhằm tranh giành thị phần. Tuy nhiên,
là một thị trường phát triển sau và thường bị chi phối bởi các kênh phân phối
địa phương cho nên các chiến dịch Quảng bá sản phẩm, hậu mãi khách hàng
chưa thể làm tốt được như Châu Âu và Bắc Mỹ. Ở đây chưa được đầu tư
mạnh về các cơ sở, nhà máy sản xuất địa phương cũng như chi nhánh quản
lý của các hãng. Chỉ có một số ít các thương hiệu hoặc dịng sản phẩm đã
giành được thị phần lớn nhất ở Việt Nam, khơng ít các sản phẩm mới tung ra
được một thời gian đã thất bại, nhanh chóng bị người tiêu dùng quên lãng.


Lý do cơ bản là vì cầu ở thị trường Việt Nam nói riêng và khu vực nói chung
tuy đang phát triển mạnh nhưng không thể bằng được các thị trường đã phát
triển trước đó. Ở đây, trong quân đội khơng có thói quen và cũng khơng
được có thói quen nhai kẹo cao su tóp tép như quân đội Mỹ hay các nước
Châu Âu … Trong khi ở Bắc Mỹ và Châu Âu, nguồn tiêu thụ kẹo cao su rất
lớn là bán cho quân đội.
Ngoài ra người dân Việt Nam tiếp xúc và sử dụng kẹo cao su hầu hết là ở độ
tuổi thanh thiếu niên trở xuống. Một phần rất ít những người lớn tuổi có thói
quen và sử dụng các tính năng bảo vệ sức khỏe răng miệng của kẹo cao su
như Extra. Thanh thiếu niên Việt Nam cũng như khu vực, khác phương Tây

ở nền văn hóa. Nền văn hóa phương Đơng vốn rất hay kỵ hoặc chậm chạp
du nhập các văn hóa phương Tây vào.
Kinh tế xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển, nhưng so về nhịp độ thì cịn
thua xa các nước phát triển. Ở các nước phát triển, người ta đi lại nhiều,
cơng việc bận rộn và căng thẳng thì kẹo cao su cũng là một trong những lựa
chọn không tồi để giúp giảm bớt căng thẳng, xả stress hay giải trí trong lúc
nghỉ ngơi. Được biết ở các nước phát triển, kẹo cao su được tiêu thụ khá
nhiều tại những trạm xe bus, tàu điện ngầm hay những nơi công cộng đông
người qua lại, phải chờ đợi lâu …
So với thế giới thì thị trường kẹo cao su ở Việt Nam đang ở dạng tiềm năng
và cần có sự đầu tư, tác động nhiều phía vào người tiêu dùng để nó được
phát triển mạnh mẽ.


PHẦN HAI: THÓI QUEN TIÊU DÙNG KẸO CAO SU CỦA NGƯỜI
TIÊU DÙNG VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG QUẢNG CÁO CÁC SẢN
PHẨM KẸO CAO SU Ở VIỆT NAM
2.1 Thói quen của người tiêu dùng Việt Nam:
Kẹo cao su ban đầu xuất hiện ở Việt Nam chủ yếu là dành cho đối tượng trẻ
em, là kẹo mềm với hiệu quả là đáp ứng sự khoái khẩu cũng như vui thú khi
thổi ra những quả bóng bằng kẹo cao su. Đó gần như là ý niệm đầu tiên của
người Việt Nam về kẹo cao su. Khi ấy kẹo cao su được rất ít người tiêu dùng
Việt Nam chấp nhận. Chỉ những gia đình chiều chuộng con cái, hoặc hay
cho con tiền tiêu vặt thì trẻ mới có tiền thường xun mua kẹo cao su để ăn
và khoe với bạn bè. Loại thường được ưa thích là Bigbabol với vị ngọt đậm
và rất mềmm sau đó là Doublemint với hương quế thơm ngon hay vị bạc hà
the mát.
Dần dần càng ngày kẹo cao su càng phát triển ở Việt Nam. Đối với lớp
thanh niên thì khẩu vị và nhu cầu về kẹo cao su sẽ khác và phong phú hơn
nhiều. Ưa chuộng nhất là các loại có hương bạc hà thơm mát, gây cảm giác

sảng khối, dễ chịu hoặc các hương vị gây kích thích. Nhu cầu đã phong
phú, cách họ tiêu dùng kẹo cao su cũng để giải quyết rất nhiều thứ khác
nhau.
VD: tơi có một anh bạn dùng kẹo cao su để thay cho việc đánh răng hàng
ngày, nói ra có thể có bạn khơng tin nhưng cậu ấy nói rằng dùng bản chải
đánh răng hại lợi và cũng bất tiện.
Theo thống kê thì người ta thường sử dụng kẹo cao su cho những mục đích
chính sau đây:
- Sảng khối tinh thần, xả stress, tạo cảm giác mới lạ.
- Trắng răng, thơm miệng, khử mùi.
- Ăn theo thói quen hàng ngày, nếu ko sử dụng thì buồn mồm khơng
chịu được.
- Nhai để giết thời gian trong lúc ở một mình, chờ đợi … VD: chờ
bạn gái đi chơi …
- Lớp trẻ và cả những người lớn tuổi sử dụng các loại kẹo cao su
Extra để giúp bảo vệ răng miệng hoặc luyên tập thể dục cho cơ
hàm - theo lời khuyên của bác sỹ


Gần đây các loại kẹo cao su Extra Xylitol đang được Quảng Cáo và phát
triển trên thị trường, cũng là một thứ mới du nhập vào Việt Nam, giúp chăm
sóc sức khỏe hàng ngày. Ngồi ra cũng có những loại kẹo cao su được
khuyến cáo là sử dụng thường xuyên sẽ giúp ích cho việc giảm cân.
Khi đi trên xe bus hoặc gần khu các trường trung học ở Hà Nội, chúng ta sẽ
dễ dàng thấy những cô, cậu thanh niên, học sinh, sinh viên … nhai lép bép
kẹo cao su trong miệng, Đây là những khách hàng tiêu thụ phần lớn các sản
phẩm kẹo cao su. Kẹo cao su rất dễ để người ta tìm mua, đâu đâu cũng có
bán nó, và người ta thường mua sẵn và để một vài thanh hay viên kẹo cao su
trong túi để ngay khi cần có thể lấy ra dùng.
Có một tình trạng không chỉ riêng ở Việt Nam mà ở các nước đang phát

triển trên thế giới cũng vậy, đó là đường phố, những nơi cơng cộng, học
đường,… Những nới đó thường tràn ngập các bã kẹo cao su dính chặt vào
tạo thành những đốm to lấm chấm rất gây mất cảnh quan và vệ sinh. Ở một
số nước phát triển, người dân có ý thức hơn trong việc sử dụng và thải bã
kẹo cao su, cũng như chính sách phạt đối với người vi phạm. Song ở Việt
Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung, tình trạng này rất phổ
biến và khó giải quyết. Vì thế mà kẹo cao su không chỉ được hưởng ứng sử
dụng ở Việt Nam, mặt khác nó cịn bị một bộ phận người dân cũng như nhà
quản lý phê phán.
Khi hỏi ngẫu nhiên từng người (thanh thiếu niên) trên địa bàn Hà Nội với
những câu hỏi nhanh thì có kết quả về những loại kẹo cao su được nhắc đến
nhiều nhất theo thứ tự như sau:
SINGUM COOL AIR
DOUBLEMINT
BIGBABOL
Và đây cũng là những loại xuất hiện trên hầu hết các đại lý bán bn, bán lẻ,
hàng rong, qn nước … Có thể nói trên thị trường Việt Nam thì những loại
kẹo cao su trên là thịnh hành nhất.
Theo một cuộc phỏng vấn nhanh và ngẫu nhiên trong giới trẻ ở Hà Nội thì
có :
0/20 người trả lời: chưa bao giờ ăn kẹo cao su.
4/20 người trả lời: đã từng ăn kẹo cao su nhiều lần nhưng chỉ là tình
cờ, khơng có ý định thử (bạn bè mời).


8/20 người trả lời: thi thoảng buồn buồn cũng mua kẹo cao su nhai để
tìm kiếm sự mới lạ, giảm căng thẳng
6/20 người trả lời: mình thường xuyên mua kẹo cao su ăn theo thói
quen, và cũng để xã giao mời bạn bè.
2/20 người trả lời rằng không thể tưởng tượng được sẽ như thế nào

nếu như một ngày mình khơng có kẹo cao su.
2.2 Thực trạng Quảng cáo các sản phẩm kẹo cao su ở Việt Nam:
Nhận xét chung thì các chương trình, chiến dịch Quảng cáo cho sản phẩm
kẹo cao su ở Việt Nam phần lớn tập trung ở các phương tiện thông tin cơ
bản : báo, đài, truyền hình, internet … Ngồi ra thì cũng chưa có nhiều các
chiến dịch Quảng cáo nào rầm rộ, với quy mô lớn hay được tổ chức công
phu.
Thực tế, các chiến dịch Quảng cáo về kẹo cao su do người Việt Nam làm
ban đầu chủ yếu là mới chỉ tuyên truyền về tên tuổi thương hiệu, các thành
phần, hương vị của sản phẩm,… kèm theo là phát sóng những bộ phim
Quảng cáo do chính hãng đã sản xuất sẵn. Đó cũng là thực tế chung của
ngành Quảng cáo ở Việt Nam thời kỳ đầu phát triển.
VD: Quảng cáo Doublemint, đôi trai gái ngồi trên cành cây khô giữa hồ
nước, che ô tươi cười khi trời đang mưa rào … Nhạc nền của phim Quảng
cáo đó rất hay và trở nên nổi tiếng, được cơng chúng Việt Nam u thích.
Gần đây, ngành Quảng cáo trong nước đã có những sự thay đổi nhanh chóng
và rõ rệt. Sáng tạo hơn và Việt hóa hơn bằng cách tự xây dựng hình ảnh cho
sản phẩm trong nước cũng như sản phẩm nước ngoài được sản xuất hay tiêu
thụ trong nước. Về các chương trình Quảng cáo kẹo cao su, nhiều sản phẩm
trước kia vẫn gắn với các phim Quảng cáo của nước ngoài được chỉnh sửa
sơ sài thì nay cơng chúng cũng cảm thấy “gần gũi” hơn với sự diễn xuất và
xây dựng hình ảnh của người Việt bằng các phim Quảng cáo của người Việt.
Một số phim vẫn sử dụng từ Quảng cáo của nước ngồi, nhưng có sự chọn
lọc hơn, cụ thể là chủ yếu các phim của người Châu Á có nền văn hóa tương
đồng sản xuât, kết hợp với thuyết minh, âm thanh chuẩn xác khiến cho
người xem ln thấy nó gần gũi như cuộc sống hàng ngày của mình. Từ đó
dễ tạo ra thiện cảm, chấp nhận, hấp dẫn, ấn tượng và ghi nhớ về sản phẩm
được Quảng cáo.



VD:
- Quảng cáo Doublemint với sự tham gia của Ngô Thanh Vân cùng
nền nhạc độc đáo, rất gây ấn tượng với cơng chúng và được u
thích.
- Quảng cáo Singum cool air của Hàn Quốc với sự thuyết minh tiếng
Việt – Một anh chàng bị mất tập trung, chỉ ngồi nghịch ngợm như
đười ươi, sau khi ăn singum cool air vào bỗng dưng “sảng khối
tinh thần, tập trung trí tuệ” và hồn thất xuất sắc cơng việc.
Phim quảng cáo có thể đã bước vào giai đoạn thối trào, nhưng đó là câu
chuyện của thị trường quảng cáo quốc tế chứ không phải Việt Nam". Độc
đáo về ý tưởng, sống động về diễn xuất, hồnh tráng về kinh phí thực hiện,
các phim quảng cáo đang được công chúng thưởng thức như một sản phẩm
nghệ thuật.
Nhưng trong thời đại truyền thông đa phương tiện, quảng cáo truyền hình
đang dần bị lu mờ? Phim quảng cáo có cịn là lựa chọn khơn ngoan của các
doanh nghiệp muốn chiếm lĩnh thị trường?
Phim quảng cáo = phim ngắn nghệ thuật
Phổ biến nhất hiện nay là các phim quảng cáo có độ dài 30 giây. Khoảng
thời gian quá ngắn khi so với một bộ phim nhưng thực chất thì phim quảng
cáo cũng chính là phim ngắn hay nói đúng hơn thì nó là một hình thức đặc
biệt của điện ảnh.
Thời gian gần đây, những người làm phim quảng cáo Việt Nam đã thấm thía
hơn bản chất của phim quảng cáo. Vì vậy, clip quảng cáo ấn tượng xuất hiện
trên truyền hình ngày càng nhiều hơn. Chẳng hạn, clip quảng cáo sữa Izzi
với những hình ảnh ngộ nghĩnh, màu sắc rực rỡ, giai điệu rộn ràng rất hợp
tâm lý trẻ thơ đã nhanh chóng gây được ấn tượng mạnh mẽ với công chúng.
Cứ đến giờ phát quảng cáo đó, các cơ cậu nhóc dù đang làm việc gì cũng vội
vã chạy tới trước màn hình. Các dịch vụ SMS sử dụng bản nhạc đó làm nhạc
chng điện thoại để kinh doanh. Bởi thế, đi đến đâu cũng nghe thấy giai
điệu ấy rộn ràng.

Không chỉ khai thác nhạc hay, các đoạn quảng cáo còn tận dụng sức
mạnh của điện ảnh để thu hút sự chú ý của khán giả. Chọn đúng thời điểm
phim “Die Hard 4” ra mắt, một hãng dầu gội dành cho nam giới tung ra
quảng cáo mô phỏng nội dung phim. Chỉ 30 giây mà clip qiảng cáo đó có đủ
cảnh đánh đấm mạo hiểm cho đến tình yêu lâm ly, cuốn hút người xem.
Những quảng cáo như trên được xếp vào loại thành cơng vì thu hút được sự


quan tâm của cơng chúng. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc khắc họa được
thương hiệu trong đầu họ. Nguyên nhân cội rễ của thành cơng đó nằm ở sức
sáng tạo và khả năng bắt trúng tâm lý người tiêu dùng cũng như sự nhạy bén
thời cuộc của ê kíp thực hiện.
Khác biệt, cuốn hút, đề cao sức sáng tạo, các clip quảng cáo xứng
đáng được coi là một tác phẩm nghệ thuật.
Đằng sau 30 giây quảng cáo
Nhưng ít ai biết rằng để có được 30 giây quảng cáo ngắn ngủi ấy, ê
kíp thực hiện phải đầu tư thời gian, cơng sức, chi phí và đơi khi số lượng
người tham gia làm phim tương đương như khi thực hiện một bộ phim dài.
Để có được 30 giây quảng cáo "anh hùng cứu mỹ nhân" mơ phỏng phim
“Die Hard 4” nói trên, đơn vị đặt hàng phải bỏ tới 70.000 USD. Cá biệt như
hãng bia Tiger cách đây ít năm đã tiêu 1 triệu USD cho phim quảng cáo
“The Quest”.
Tại sao chi phí cho phim quảng cáo lại đắt cắt cổ vậy? Xin thưa, để có
30 giây quảng cáo thực sự đẳng cấp, phải qua rất nhiều khâu mà khâu nào
cũng hết sức khó khăn.
Khâu đầu tiên là gặp gỡ khách hàng, trao đổi thơng tin để tìm ý tưởng.
Có thể nói đây chính là khâu khởi đầu của thành cơng hoặc khởi đầu của thất
bại. Khơng có một ý tưởng tốt thì dù đổ vào bao nhiêu tiền, clip quảng cáo
cũng khơng thể thành cơng.
Khi có ý tưởng phù hợp, những người thực hiện sẽ xây dựng concept

(khái niệm), story board (kịch bản) và tuyển chọn diễn viên; sau đó mới đến
phần ghi hình và làm hậu kỳ.
Thường thì ê kíp thực hiện phải mất khoảng 20 ngày cho một phim
quảng cáo đơn giản; cịn các phim địi hỏi tính kỹ thuật, mỹ thuật cao thì
thời gian thực hiện cịn cao hơn và đương nhiên là chi phí cũng cao hơn rất
nhiều.
Có những scene (cảnh) chỉ dài 2 giây nhưng phải quay cả trăm đúp,
kéo dài trong 1-2 ngày vẫn chưa đạt yêu cầu. Những lúc như vậy, cả ê kíp
vừa mệt, vừa bức xúc.
Về lý thuyết, diễn viên đóng quảng cáo không cần phải là người nổi
tiếng. Chỉ cần ngoại hình đẹp, diễn xuất tốt là đã có thể trở thành ứng viên
sáng giá. Tuy nhiên, do các thương hiệu lớn luôn đưa ra những yêu cầu khắt
khe về người đại diện cho hình ảnh sản phẩm của mình nên những ngơi sao
nổi tiếng được mời đóng phim quảng cáo nhiều hơn.
Nhưng sự có mặt của các ngơi sao trong quảng cáo cũng đồng nghĩa
với việc chi phí thực hiện clip đội lên rất nhiều bởi cát xê cho sao có thể lên
tới hàng trăm triệu đồng. Trong khi đó những diễn viên khơng chun được


chọn đóng quảng cáo thì thù lao chỉ ở mức vài triệu đồng, thậm chí là vài
trăm ngàn đồng cho một vai diễn phụ.
Đối với các đạo diễn và quay phim, tuy việc làm clip quảng cáo không
đem lại cho họ nhiều danh tiếng nhưng chẳng mấy người lại không ham làm
phim quảng cáo. Bởi một hợp đồng làm phim quảng cáo cho các hãng sản
xuất lớn thường đem lại cho họ doanh thu bằng đi làm phim truyện cả năm.
Đặc biệt, do đặc trưng clip quảng cáo là những phim cực ngắn, việc truyền
tải hết ý tưởng trong khoảng thời gian chỉ tính bằng giây là hết sức khó khăn
nên những clip này đòi hỏi được thực hiện bởi những đạo diễn, quay phim
có tay nghề lão luyện nhất. Chính vì thế, hầu hết những đạo diễn, quay phim
lành nghề nhất đều đầu quân cho đội ngũ này.

Tuy nhiên, phải khẳng định rằng việc làm clip quảng cáo ở nước ta
cịn lâu mới đạt tới trình độ chun nghiệp bởi việc làm hậu kỳ vẫn phải
trông cậy rất nhiều vào cơng nghệ ở nước ngồi.
Chẳng hạn trong các quảng cáo sản phẩm dầu gội đầu, mái tóc đen
óng mượt như nhung đều được tô, chuốt tỉ mỉ từng sợi trên máy tính. Hay
màu sắc rực rỡ, xanh ngắt của bầu trời, tối sẫm của màn đêm đều phải nhờ
đến kỹ xảo.
Tuy hiện nay tại Việt Nam, đội ngũ kỹ thuật hậu kỳ đã được trang bị
những thiết bị tương đối hiện đại nhưng tay nghề còn non nên chỉ làm được
những quảng cáo đơn giản. Tất cả những clip địi hỏi chất lượng cao đều
phải đưa ra nước ngồi (đa phần là đưa sang Thái Lan) để làm hậu kỳ thì
mới đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Tất nhiên, đưa clip đi làm hậu
kỳ ở nước ngoài cũng có nghĩa là chi phí đắt đỏ hơn rất nhiều.
Tất nhiên khơng có ngân sách cố định nào dành cho một phim quảng
cáo. 100.000 USD cũng đủ để làm một bộ phim quảng cáo, mà 5 - 10 triệu
USD cũng có thể chỉ đủ đề làm một clip 30 giây. Bởi số tiền bỏ ra phải
tương ứng với quy mô và yêu cầu mà khách hàng đặt ra cho ê kíp thực hiện.
Tương lai cịn rạng rỡ...
Tất cả các chủ thương hiệu đều muốn phim quảng cáo của mình phải
thật ấn tượng để khi vừa phát sóng là lập tức “hớp hồn” người xem, không
lẫn với bất cứ phim quảng cáo nào khác. Bởi sự khác biệt của quảng cáo
chính là chìa khố đánh thức sự chú ý của người xem – đối tượng mà doanh
nghiệp hướng tới.
Nhưng nhiều nhà nghiên cứu hiện nay lại cho rằng quảng cáo đã mất
đi sức mạnh thực sự của nó. Theo thơng tin chưa chính thức, ước tính ở Việt
Nam có hơn 3.000 phim quảng cáo/năm, tức mỗi ngày người xem truyền
hình được “thưởng thức” gần 10 phim quảng cáo.


Một thống kê khác cho thấy, mỗi đợt quảng cáo chen giữa chương

trình truyền hình có thể xuất hiện đến gần 20 mẩu quảng cáo. Trong khi đó,
mỗi đoạn quảng cáo chỉ kéo dài 30 giây. Do đó, rất khó để định vị được
thương hiệu trong tâm tưởng công chúng.
Nhà chiến lược nổi tiếng về tiếp thị của Mỹ, Giáo sư Al Ries đã viết
trong cuốn “Quảng cáo thoái vị và PR lên ngôi” (The Fall of advertising anh
the Rise of PR): “Cách mà người ta nhìn quảng cáo bây giờ chẳng khác gì
cách họ đọc một cuốn tiểu thuyết hay xem một chương trình biểu diễn trên
truyền hình. Họ quan tâm đến các nhân vật, các tình huống, các âm mưu mà
khơng mảy may có động cơ sẽ có hành động gì để đóng góp vào đó, kể cả
mua sản phẩm. Đó chỉ là nghệ thuật”
Al Ries cũng cho rằng, với việc phim quảng cáo ngày càng tiến gần
đến nghệ thuật, mục tiêu thúc đẩy doanh số bán hàng của doanh nghiệp nhờ
quảng cáo sẽ không như mong muốn. Do đó thời của quảng cáo đã hết.
Thế nhưng, đó chưa phải là thực tế của ngành quảng cáo Việt Nam. Từng
ngày từng giờ, các quảng cáo vẫn liên tiếp xuất hiện trên sóng truyền hình.
Với mức giá vài chục triệu đồng cho một lần phát sóng 30 giây quảng cáo,
các thương hiệu lớn vẫn sẵn sàng chấp nhận. Bởi khi đoạn quảng cáo thực
sự hấp dẫn, khán giả sẽ nhớ đến thương hiệu một cách tự nhiên.
Giải thích về thực tế này, một chuyên gia kinh tế cho biết: "Phim quảng cáo
có thể đã bước vào giai đoạn thối trào, nhưng đó là câu chuyện của thị
trường quảng cáo quốc tế chứ không phải Việt Nam. Nguyên do là ở những
thị trường lớn như Mỹ, Anh, Đức..., các phương tiện quảng bá phát triển với
tốc độ chóng mặt, các loại hình quảng cáo mới liên tục được khai phá với
cơng nghệ ngày càng hiện đại hơn, chi phí cũng thấp hơn. Chính vì vậy, clip
quảng cáo phải nhường bớt một phần "lãnh địa" là chuyện tất yếu.
Trong khi đó, ngành quảng cáo ở Việt Nam mới bước qua giai đoạn khởi
đầu. Ở giai đoạn này, phim quảng cáo vẫn là phương thức quảng bá thống
trị. Thời điểm quảng cáo truyền hình thối vị ở Việt Nam vẫn cịn xa lắm."
Anh Thái Hoàng - phụ trách khách hàng ở một công ty truyền thông ở Hà
Nội cũng tiết lộ: "Tâm lý của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn tin tưởng

truyền hình lắm. Cứ được lên truyền hình là họ thích rồi nên họ rất sẵn sàng
chi tiền. Hơn nữa, một thông điệp bằng video bao giờ cũng dễ hiểu hơn một
trang văn bản. Ở giai đoạn này, quảng cáo truyền hình ở Việt Nam vẫn là
"miếng bánh" cịn thơm ngon lắm".


Với những lý do đó, quảng cáo truyền hình khơng thể thối trào. Nó
đã và sẽ vẫn là một phương tiện quan trọng, cầu nối công chúng với sản
phẩm.
Quảng cáo nói chung ở Việt Nam mới chỉ tạo ra được cái nhìn mới lạ chứ
chưa đóng được vai trị làm người tuyên truyền văn hóa sử dụng kẹo cao su,
gây nguồn cảm hứng để công chúng, khách hàng cảm thấy nên thử sử dụng
và du nhập vào nét văn hóa này.
Các nước phát triển nhanh trong khu vực đã nhanh chóng du nhập văn hóa
phương Tây nên thói quen tiêu dùng, sử dụng kẹo cao su của họ cũng cao
hơn và phát triển nhanh hơn Việt Nam rất nhiều. Các chiến dịch Quảng bá
về kẹo cao su tại quốc gia họ nổi lên mạnh mẽ ( Hàn Quốc, Singapore …)
Nó gần như nổi trội so với các chiến dịch Marketing, giới thiệu sản phẩm,
thử sản phẩm mới … tương tự của các sản phẩm gần ngành như kẹo mút,
nước ngọt, nước giải khát có gas ...Nhìn chung, thị trường kẹo cao su ở các
nước này đã phát triển đến mức gần đạt như Châu Âu và Bắc Mỹ, nếu có
thua kém thì có lẽ chỉ kém phần tiêu thụ kẹo cao su của qn đội. Đó là nhờ
sự thành cơng của Quảng cáo, đã góp phần thúc đẩy du nhập văn hóa, thói
quen sử dụng kẹo cao su trong lịng cơng chúng, khách hàng.
Ở Việt Nam, q trình mở cửa và du nhập những nét văn hóa bên ngồi
chậm hơn nhiều so với Hàn Quốc … Cũng vì thế mà thị trường kẹo cao su
tuy đã phát triển rộng nhưng chưa thực sự mạnh mẽ, chưa tạo đủ mọi điều
kiện để các nhà sản xuất cũng đẩy mạnh công tác xúc tiến sản phẩm, tăng
cường Quảng cáo, marketing thương hiệu tới tay người tiêu dùng. So với các
sản phẩm gần ngành như đồ uống, kẹo mút, snack … thì khơng có gì là đặc

biệt, thậm chí cịn thua kém nhiều so với một số sản phẩm đã có sự đầu tư và
tư vấn kỹ lưỡng về chính sách thu hút khách hàng. VD: Cocacola, Pepsi …
Tổng hợp lại thì có thể kết luận rằng: Quảng cáo các sản phẩm về kẹo cao su
ở Việt Nam đã có những sự tiến triển rất tốt, nhưng chưa thực sự được đi
vào chuyên sâu, ở đây mới chỉ như chúng ta xúc tiến bán hàng, giúp mở
rộng thị phần cho các sản phẩm kẹo cao su của nước ngoài du nhập vào Việt
Nam, từ đó bán hàng và kiếm lợi nhuận cùng với họ. Nguyên nhân chủ yếu
là khách quan, nhưng trong thời gian này và tới đây, khi đất nước ngày càng
có sự du nhập, giao lưu mạnh mẽ hơn nữa từ nước ngồi, đặc biệt là phương
Tây, thì thị trường trong nước sẽ ngày một phát triển và đổi khác. Vì thế vai
trò của Quảng cáo sẽ cần được nâng cao.


PHẦN BA: NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA QUẢNG CÁO TỚI
THÓI QUEN TIÊU DÙNG KẸO CAO SU CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
VIỆT NAM
3.1 Các lý do dẫn đến hành vi mua của người tiêu dùng:
Khi người tiêu dùng quyết định mua một sản phẩm nào đó, họ tất nhiên đã
cân nhắc kỹ và chấp nhận về việc có được sản phẩm đó và bỏ tiền ra để có
nó. Vậy khi khách hàng tiêu thụ kẹo cao su thì những lý do chủ yếu nào đã
khiến họ dẫn đến hành vi mua nó?
Hầu hết các khách hàng tiêu dùng và sử dụng kẹo cao su là thanh thiếu niên,
sau đó đến trẻ em, người lớn tuổi.
Với mỗi nhóm khách hàng thì lý do để họ mua kẹo cao su đều khác nhau,
cũng vì kẹo cao su có nhiều cơng dụng và đáp ứng được những nhu cầu khác
nhau của khách hàng.
Đối với thanh thiếu niên, việc nhai kẹo cao su như một hình thức giải trí, có
rất nhiều cơng dụng của kẹo cao su mà họ được thỏa mãn như: giúp tự tin
khi tiếp xúc người khác, đặc biệt bạn khác giới; giúp tạo cho mình một
Style, phong cách riêng, hay giúp làm bớt căng thẳng, xả stress, giết thời

gian … Với những công dụng và nhu cầu như vậy, thực sự kẹo cao su có thể
nói đã được số đơng bạn trẻ thường xuyên sử dụng coi như người bạn tốt
mang bên mình hàng ngày.
Về tạo Style, phong cách riêng cho mình thì phổ biến nhất ở văn hóa bụi,
đường phố được các bạn trẻ sử dụng rất nhiều. Họ dùng kẹo cao su trong khi
giao tiếp vừa để thể hiện cái tôi, cũng để tạo sự thoải mái, tự nhiên cho bản
thân. Tuy nhiên không phải ai cũng ý thức được rằng mình đã coi nó như
một cách để thể hiện cá tính.
Giới trẻ ở Việt Nam hiện nay đang hịa nhập nhanh và rất hưởng ứng những
cái mới, các phong trào, xu hướng chung của thế giới. Họ sẵn sàng bỏ tiền ra
để mua và thử sử dụng một loại sản phẩm mới nào đó mà họ ấn tượng hoặc
chỉ đơn giản là được bạn bè giới thiệu, đi theo trào lưu, theo mốt.
Tại công sở, kẹo cao su dùng làm món giúp giảm stress rất hiệu quả. Tạo ra
những giây phút thư giãn khi làm việc mệt mỏi mà lại rất gọn nhẹ, tiện dụng.
Đối với trẻ em thì nhu cầu về kẹo cao su đơn giản hơn rất nhiều, nhưng nó
lại rất cao. Những viên kẹo cao su mềm với mùi vị hấp dẫn, độ dẻo cao có


thể thổi thành những quả bóng thật to ln bán rất chạy trước các cổng
trường tiểu học. Bên cạnh đó những bao bì nhiều màu sắc, hấp dẫn ln thu
hút trẻ em. Trẻ em hiện nay thường được bố mẹ cho rất nhiều tiền tiêu vặt
hàng ngày, và hầu như chúng đều được thoải mái, tự do trong việc sử dụng
số tiền đó. Tất nhiên hầu hết tiền tiêu vặt của trẻ sẽ được tiêu vào việc ăn
quà vặt. Ngoài các yếu tố gây thu hút với trẻ em giống như các sản phẩm
bánh kẹo khác, thì kẹo cao su nổi trội hơn ở chỗ nó có thể vừa ăn vừa chơi
trị thổi bóng mà khơng thấy chán. Đây là điểm lợi thế hơn hẳn của kẹo cao
su khi thu hút trẻ em.
Ngồi các lý do trên thì kẹo cao su cịn có nhiều đặc tính, cơng dụng khác về
mặt y tế, chăm sóc sức khỏe. Gần đây các loại kẹo cao su Extra Xylitol đang
được Quảng Cáo và phát triển trên thị trường, và mới xuất hiện ở thị trường

Việt Nam không lâu. Các khác hàng chung ở mọi độ tuổi tiêu dùng sản
phẩm này với mục đích bảo vệ răng miệng, chống sâu răng, luyện tập cơ
hàm … Cũng có những loại kẹo cao su được chế tạo riêng để trị liệu giúp
giảm cân, ổn định tâm lý. Ở đây, kẹo cao su đã được người ta sử dụng giống
như các loại dược phẩm.
3.2Tác động của Quảng cáo:
Như đã nói ở phần hai, các chương trình Quảng cáo về kẹo cao su trên thị
trường Việt Nam đã bước đầu có được những thành quả cụ thể. Đó là những
sự tiến bộ về việc sản xuất, phát sóng các phim Quảng cáo truyền hình và
lồng tiếng, phát sóng phim Quảng cáo hay chọn lọc từ nước ngoài.
Đối tượng khách hàng tiêu thụ phần lớn các sản phẩm kẹo cao su là thanh
thiếu niên và trẻ em, đối tượng này thường xuyên và chủ yếu chịu tác động
bởi các chương trình Quảng cáo trên truyền hình.
Qua phỏng vấn cho thấy, các chương trình Quảng cáo trên truyền hình thì
Quảng cáo về kẹo cao su được người tiêu dùng đánh giá chung là độc đáo,
thú vị và sáng tạo. Phần lớn trong số đó chỉ là những phim Quảng cáo của
một hai thương hiệu tiêu biểu thường xuyên xuất hiện, chiếm lĩnh trên thị
trường Việt Nam.
Tác động của phim Quảng cáo đối với người tiêu dùng chủ yếu ban đầu là
khiến cho cơng chúng có phút giây thư giãn, vui vẻ khi xem phim. Sau đó có
ấn tượng đặc biệt làm vơ tình lưu giữ lại hình ảnh về sản phẩm được Quảng
cáo … trong tâm trí người xem. Nhưng cái quan trọng và là quyết định thành


cơng của một phim Quảng cáo đó là gửi được thơng điệp đến khách hàng,
làm cho họ muốn có và bỏ tiền ra để tiêu thụ sản phẩm đó.
Theo nhận xét, đánh giá chung của cơng chúng thì hầu hết các phim Quảng
cáo kẹo cao su trên truyền Hình đều gây cho họ ấn tượng, ghi nhớ ngay đoạn
phim đó trong một loạt các phim Quảng cáo cùng phát sóng. Nhưng tác
động của nó đến hành vi mua thì chưa cao.

Cụ thể là khách hàng sau khi xem và có được ấn tượng tốt với phim Quảng
cáo xong, nhưng bình thường họ khơng có thói quen sử dụng hay khơng mấy
quan tâm đến kẹo cao su thì đoạn phim vừa xem gần như khơng có tác động
gì đến họ. Như vậy, phim Quảng cáo dù có tốt thì cũng ít nhiều bị hạn chế
bởi chính đặc tính về thói quen sử dụng kẹo cao su của công chúng khách
hàng.
Tuy vậy, phải nói đến hiệu quả các phim Quảng cáo của Doublemint với
thông điệp về hơi thở , tự tin gần nhau hơn … Những phim Quảng Cáo đó
thực sự có tác động mạnh mẽ đến đa số khách hàng, thậm chí đối với cả các
khách hàng chưa bao giờ sử dụng hay để ý đến kẹo cao su.
Ngoài các chương trình Quảng cáo trên truyền hình là vũ khí tốt nhất ra thì ở
các phương tiện khác (báo, đài, tạp chí) sức biểu cảm trong việc truyền tải
thơng điệp bị hạn chế hơn nên các chương trình này chủ yếu để hỗ trợ cùng
với truyền hình giúp nhắc lại, ghi nhớ thêm trong đầu khách hàng. Cũng như
tranh thủ được hết các đối tượng có thời gian tiếp xúc các phương tiện thông
tin khác nhau.


PHẦN BỐN: KẾT LUẬN
Việt Nam là một trong những thị trường phát triển sau của kẹo cao su,
sau khi đã du nhập và phát triểm mạnh mẽ ở bắc Mỹ, Tây Âu … rồi sang
Châu Á. So với thế giới thì thị trường kẹo cao su ở Việt Nam đang ở dạng
tiềm năng và cần có sự đầu tư, tác động nhiều phía vào người tiêu dùng để
nó được phát triển mạnh mẽ.
Cùng với sự hòa nhập kinh tế xã hội, văn minh trong đời sống, tương
lai thị trường người tiêu dùng Việt Nam sẽ ngày càng chấp nhận và ủng hộ
đối với các sản phẩm kẹo cao su du nhập từ nước ngồi.
Ngành Quảng cáo trong thời kỳ hịa nhập cần phải có những sự thay
đổi lớn nhằm đáp ứng cũng như khuyến khích sự phát triển thị trường trong
nước. Và đối với các sản phẩm kẹo cao su nói riêng, Quảng cáo phải tích

cực trên nhiều phương diện, đánh vào tâm lý người tiêu dùng. Quảng cáo lúc
này phải đóng vai trị kích thích, động lực cho thị trường tiêu thụ kẹo cao su
trở nên mạnh mẽ. Các doanh nghiệp kinh doanh kẹo cao su nên dùng Quảng
cáo và các chính sách khuyến mãi, marketing … để tự chủ động tạo ra thị
phần, tạo ra thế độc quyền của mình ở thị trường trong nước.


Nguồn:
Báo điện tử sóc bay
/>696.html
Báo điện tử thời nay
/> /> />


×