Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Năng lực cạnh tranh của Doanh Nghiệp Việt Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.19 KB, 5 trang )

Năng lực cạnh tranh của Doanh
Nghiệp Việt Nam


Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái niệm có nhiều cách
hiểu khác nhau. Ở phạm vi doanh nghiệp, cạnh tranh nhằm mục tiêu chủ yếu là tồn tại và
tìm kiếm lợi nhuận tối đa.Theo K.Marx: “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt
giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu
dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu về quá trình sản xuất hàng
hóa tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Marx đã phát hiện ra kết quả của
cạnh tranh trong chủ nghĩa tư bản là quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân, từ đó hình
thành nên hệ thống giá cả thị trường và giá cả sản xuất.Theo Từ điển Bách khoa Việt
Nam: “Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất
hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi
phối quan hệ cung cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi
nhất”.Từ định nghĩa về cạnh tranh nêu trên có thể thấy, để có sự cạnh tranh đòi hỏi trong
nềnkinh tế phải có các điều kiện tiên quyết sau:- Phải có nhiều chủ thể cùng tham gia
cạnh tranh với nhau, các chủ thể có cùng mục đích, mục tiêu, tức là phải có một đối
tượng mà chủ thể cùng hướng đến chiếm đoạt. Ví dụ như các doanh nghiệp cùng sản
xuất, kinh doanh những sản phẩm tương tự nhau, phục vụ một loại nhu cầu của khách
hàng sẽ cạnh tranh với nhau trong việc tìm các nguồn nguyên nhiên vật liệu tốt nhất với
chi phí thấp nhất, và mở rộng thị phần của mình Việc cạnh tranh phải được diễn ra trong
một môi trường cạnh tranh cụ thể, đó là các ràng buộc chung về pháp lý hoặc các cam kết
mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải tuân thủ. Các ràng buộc này chính là các đặc
điểm nhu cầu về sản phẩm của khách hàng, các ràng buộc của luật pháp và thông lệ kinh
doanh ở trên thị trường. Còn giữa người mua với người mua, hoặc giữa những người mua
và người bán sẽ dẫn tới các thỏa thuận phù hợp với lợi ích của các bên tham gia Cạnh
tranh phải diễn ra trong một khoảng thời gian, không gian cố định, thời gian có thể ngắn
(trong từng vụ việc cụ thể) hoặc dài (trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động của mỗi
chủ thể tham gia cạnh tranh). Sự cạnh tranh có thể diễn ra trong khoảng không gian hẹp
như một tổ chức, một địa phương, một ngành, cũng có thể diễn ra trong không gian rộng


là một quốc hay giữa các quốc gia trong khu vực và trên toàn cầu.Hiện nay, nền kinh tế
Việt Nam đang trong bối cảnh lạm phát cao, để kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đã sử dụng chính sách thắt chặt cung tiền tệ, do đó buộc phải duy trì mức lãi
suất cao (lãi suất huy động vốn của các ngân hàng thương mại là 14%/năm, lãi suất cho
vay trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh từ 17% - 18%/năm.). Trong điều kiện đó, chắc
chắn các doanh nghiệp - đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa - sẽ phải đối mặt với áp lực
ngày càng căng thẳng về trả lãi, về thanh toán các khoản nợ đến hạn, duy trì hoạt động,
lợi nhuận doanh nghiệp và cả bộ máy sản xuất. Nói cách khác, các doanh nghiệp Việt
Nam đang phải đối mặt với những thách thức thật sự to lớn.
1. Thách thức bắt nguồn từ bản thân các doanh nghiệpThứ nhất, thách thức về vốn và con
người. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam đều có quy mô nhỏ và ít vốn, trong đó doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 97% trong hơn 450.000 doanh nghiệp. Theo Hiệp hội
Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam (Vinasme), các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
có vốn dưới 1 tỉ đồng chiếm tới 41% trong khi doanh nghiệp có vốn hơn 10 tỉ đồng chỉ
chiếm 13%. Phần lớn các chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa
được đào tạo một cách bài bản về kiến thức kinh doanh, quản lý kinh tế - xã hội, văn hóa,
luật pháp, kỹ năng quản trị kinh doanh … nhất là kỹ năng kinh doanh trong điều kiện hội
nhập quốc tế, ứng phó với những bất ổn trong môi trường kinh doanh mang tính toàn cầu.
Có thể lấy ví dụ với Luật Cạnh tranh của nước ta. Luật được Quốc hội phê chuẩn từ năm
2005, nhưng đến năm 2008, qua khảo sát mới chỉ có 55,2% chủ doanh nghiệp biết đến
Luật Cạnh tranh, trong số đó 96,6% doanh nhân được tiếp cận Luật này thông qua con
đường tự tìm hiểu[1]. Chỉ khi nào các doanh nghiệp gặp vấn đề trong cạnh tranh, cần đến
cơ quan bảo vệ pháp luật thì doanh nghiệp mới tìm hiểu Luật Cạnh tranh. Do vậy, mặc dù
Luật Cạnh tranh có thể giúp cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và
vừa cạnh tranh một cách bình đẳng trước các doanh nghiệp lớn, song vẫn chưa được các
doanh nghiệp quan tâm một cách đúng mức.Thứ hai, sự lạc hậu về công nghệ. Hiện nay,
đa số các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình
của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ.Thể hiện cụ thể: hơn 70% máy móc thiết bị đang sử dụng
được sản xuất từ những năm 1970; 75% máy móc thiết bị đã hết thời gian khấu hao; 50%
máy móc thiết bị mới tân trang. Xét vềtrình độ công nghệ, không có doanh nghiệp Việt

Nam nào đạt trình độ công nghệ hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế; trong khi đó có 35% và
44% doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình, lạc hậu và rất lạc hậu; trình độ công
nghệ khá cũng chỉ khiêm tốn ở mức 21%.[2]Vì lý do lạc hậu về công nghệ nên chi phí
sản xuất của doanh nghiệp luôn cao hơn chi phí trung bình của thế giới từ 10 - 30%, trong
khi chất lượng chưa tương xứng khiến cho hàng hóa của Việt Nam rất khó cạnh tranh với
các hàng hóa cùng chủng loại của nước ngoài trên thị trường quốc tế, khu vực và ngay cả
thị trường trong nước. Phần lớn doanh nghiệp Việt Nam hoạt động chủ yếu trong các
ngành nghề truyền thống. Tỷ lệ doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực hiện
đại chưa nhiều: doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính tín dụng chỉ
chiếm 1,46%, kinh doanh tài sản và tư vấn chỉ chiếm 5,73%, khoa học và công nghệ
chiếm 0,02%.[3]Thứ ba, hạn chế về nguồn nguyên vật liệu và sự “yếu kém” về thương
hiệu của các doanh nghiệp. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật
liệu cho sản xuất kinh doanh. Trong những năm qua, nhiều sản phẩm xuất khẩu và sản
phẩm có sự tăng trưởng cao (hàng da giày, dệt may, chế biến thực phẩm, đồ uống, sản
phẩm thép và kim loại màu, sản phẩm nhựa, hàng điện tử, ô tô, xe máy…) đều phụ thuộc
vào nguồn nguyên liệu bán thành phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Trong khi đó, giá cả
các loại nguyên vật liệu này trên thế giới có xu hướng gia tăng, làm cho nhiều nhóm sản
phẩm có tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu khá cao, chiếm hơn 60% giá thành sản phẩm.
Đặc biệt là khi lạm phát trên thế giới tăng cao, giá dầu mỏ liên tục đạt những kỷ lục mới
đã khiến cho các doanh nghiệp lâm vào tình trạng rất khó khăn, buộc phải thu hẹp quy
mô sản xuất để có thể tồn tại được.Mặt khác, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa xây
dựng được thương hiệu mạnh, chưa khẳng định được uy tín chất lượng sản phẩm. Trên
thực tế, trong nhiều sản phẩm của Việt Nam yếu tố cấu thành của tri thức, công nghệ
thấp, trong khi yếu tố sức lao động và nguyên vật liệu cao… Ngành điều nước ta giữ vị
trí số 1 thế giới về xuất khẩu, theo đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải khống chế thị
trường và quyết định giá cả hàng hóa. Tuy nhiên, thực tế hoàn toàn ngược lại. Doanh
nghiệp trong nước chủ yếu làm công việc thu gom hàng, nếu có chế biến thì chỉ chế biến
thô, không xây dựng được thương hiệu, không có nhãn mác nên các doanh nghiệp hoàn
toàn phụ thuộc vào các nhà nhập khẩu. Điều đó làm cho sức cạnh tranh thấp, các sản
phẩm của Việt Nam không có ưu thế rõ rệt trên thị trường.Thứ tư, chiến lược phân phối,

chiến lược truyền thông và xúc tiến thương mại còn nhiều hạn chế. Hoạt động xúc tiến
thương mại còn giản đơn, sơ lược và không có hiệu quả thiết thực. Các doanh nghiệp mới
chỉ chú trọng vào khâu sản xuất sản phẩm mà chưa chú ý nhiều đến các khâu tạo nên giá
trị gia tăng, như nghiên cứu và phát triển (R&D), xúc tiến và tiếp thị (P&M)… Hầu hết
các doanh nghiệp chưa nhận thức đúng được giá trị và ý nghĩa của xúc tiến thương mại,
quảng cáo… Vì vậy, đầu tư về kinh phí, nhân lực và các nguồn lực khác cho quảng cáo
rất thấp, tổng thể mới chỉ dưới 1% doanh thu (tỷ lệ này của các doanh nghiệp nước ngoài
chiếm khoảng 10% đến 20% doanh thu). Các doanh nghiệp Việt Nam chưa biết khai thác
sự kết hợp giữa phương thức cạnh tranh kiểu truyền thống (cạnh tranh bằng giá cả) với
phong cách hiện đại như cạnh tranh bằng tư vấn, dịch vụ. Điều đó cũng minh chứng cho
sức lan tỏa của hàng Việt đến từng người tiêu dùng còn rất yếu, đặc biệt là người tiêu
dùng ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Hàng hóa Việt Nam đang có
nguy cơ thua ngay trên chính sân nhà của mình.
2. Thách thức từ môi trường kinh doanhĐiểm yếu kém nhất trong môi trường kinh doanh
Việt Nam hiện nay có thể nói chính là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế Việc nâng cấp các hạ
tầng vật chất của Việt Nam vẫn còn nhiều thiếu sót và chậm chễ, đặc biệt là trong việc
phát triển cơ sở hạ tầng trọng yếu như các tuyến đường giao thông liên tỉnh, cầu, phà, kho
bãi, phương tiện chuyên chở… Những yếu kém này đã làm tăng chi phí lưu thông, tăng
thời gian không sản xuất của doanh nghiệp và làm giảm đáng kể lợi nhuận cũng như
những cơ hội đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam.Nghị định 108/2009/NĐ-CP về các quy
định mới liên quan đến mô hình hợp tác công - tư (PPP) của Chính phủ được dự báo sẽ là
một hướng mở mới cho các doanh nghiệp khi tham gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng của nền
kinh tế Việt Nam.Khả năng tiếp cận vốn cũng là một trong những khó khăn đối với
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện tại, có đến 70% doanh nghiệp còn
dựa chủ yếu vào các nguồn vốn vay, trong khi đó quy định về mức lãi suất huy động vốn
của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại đang ở mức 14%/năm, lãi
suất cho vay trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh từ 17% - 18%/năm. Trên thực tế một số
ngân hàng thương mại đã phá rào huy động vốn bằng cách nâng mức lãi suất lên 15% -
19%/năm, tùy vào thời điểm và số lượng tiền gửi. Hệ quả là lãi suất cho vay đã bị nâng
lên trên 20%, gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Chưa kể, một số ngân hàng đặt ra

nhiều loại phí, đã đẩy mức lãi suất thật mà các DN phải vay tăng ngất ngưởng khiến sản
xuất kinh doanh gặp khó khăn và xáo trộn. Như vậy, khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn
sản xuất của doanh nghiệp sẽ đẩy chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lên cao,
làm giảm hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam.Mặt khác, mức nhập siêu
trong nền kinh tế không những không giảm mà còn tăng mạnh. Nhập siêu tháng sau
luôn “lớn nhanh”hơn tháng trước. Nếu tháng 1 năm nay nhập siêu 0,77 tỷ USD, thì tháng
4 nhập siêu là 1,51 tỷ USD, tháng 5 xấp xỉ 1,7 tỷ USD. Chỉ sau 5 tháng đầu năm 2011
(tháng 5 so với tháng 1) chỉ số nhập siêu tăng hơn 2 lần. Đối với doanh nghiệp sản xuất
sản phẩm cùng loại tiêu thụ trong nước thì nhập siêu với quy mô lớn, liên tục và trong
thời gian dài như trên đã làm thu hẹp thị phần tiêu thụ sản phẩm, gây khó khăn lớn về thị
trường đầu ra cho doanh nghiệp.Hiện nay thủ tục hành chính đang được Chính phủ, các
ngành, các cấp cải tiến theo hướng tiết giảm mạnh nhưng vẫn chưa thực sự hiệu quả với
doanh nghiệp. Bình quân mỗi năm một doanh nghiệp Việt Nam phải dành tới 1050 giờ
cho các thủ tục thuế, gấp hai lần bình quân các nước tiên tiến trong khu vực. Do đó vừa
làm tăng chi phí, tốn thời gian công sức, làm lỡ thời cơ của doanh nghiệp Việt Nam và
làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế trên trường quốc tế.Hiện tượng hàng giả, hàng
nhái, hàng buôn lậu trốn thuế, doanh nghiệp ma,… hiện chiếm tỷ trọng không nhỏ cũng
là một yếu tố làm cho môi trường cạnh tranh Việt Nam kém lành mạnh, gây thiệt hại lớn
đối với doanh nghiệp làm ăn chân chính.Như vậy, môi trường kinh doanh của Việt Nam
còn nhiều bất cập gây khó khăn cho quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đòi
hỏi trong thời gian tới, Chính phủ cần nỗ lực giải quyết những khó khăn nhằm thúc đẩy
sản xuất, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm, doanh nghiệp trong nước và nền kinh
tế Trước những thách thức, khó khăn như đã phân tích, thì việc nâng cao năng lực cạnh
tranh là một yêu cầu cấp bách của doanh nghiệp và nền kinh tế Từ những phân tích trên,
người viết đề cập đến một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam - đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp- Nâng cao
trình độ học vấn, hiểu biết về kinh tế - xã hội, văn hóa, luật pháp… cho các chủ doanh
nghiệp, cán bộ quản lý và người lao động trong doanh nghiệp, trong đó chú trọng đến vấn
đề xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp, tức là đạo đức trong kinh

doanh, thể hiện ở sự làm giàu hợp pháp, cạnh tranh lành mạnh, ứng xử của doanh nghiệp
với người tiêu dùng, trách nhiệm doanh nghiệp với xã hội để hướng tới phát triển bền
vững. Sự giàu có về trí tuệ, về của cải và tính năng động sáng tạo là những giá trị xã hội
mà mỗi doanh nhân, mỗi doanh nghiệp cần phải có. Vì vậy, xây dựng văn hóa doanh
nghiệp, tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh, tích cực luôn là động lực thúc đẩy sức sáng
tạo và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Tăng cường năng lực của chủ doanh nghiệp,
giám đốc và cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp về quản trị kinh doanh, quản trị chiến
lược. Trong mọi điều kiện, doanh nhân cần thường xuyên cập nhật tri thức mới, những kỹ
năng cần thiết (kỹ năng quản trị trong cạnh tranh, kỹ năng lãnh đạo doanh nghiệp, kỹ
năng quản lý sự biến đổi, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán và giao tiếp, kỹ năng
dự báo và định hướng chiến lược phát triển v.v…) để có đủ sức cạnh tranh trên thị trường
và tiếp cận nền kinh tế tri thức Để cạnh tranh với các doanh nghiệp và thị trường nước
ngoài, cần phải thực hiện phương châm liên kết và hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt
Nam nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Sự liên kết
và hợp tác sẽ tạo ra sức mạnh bội phần cho các nhóm doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế
cùng sản xuất, kinh doanh một (hoặc một số) sản phẩm nhất định và cùng thực hiện chiến
lược thương hiệu, xúc tiến thương mại và quảng bá sản phẩm trên thị trường Chính phủ
và các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường sự hỗ trợ về vốn, cơ chế, chính sách,
luật pháp, xúc tiến thương mại, giáo dục - đào tạo, tư vấn về thiết bị, công nghệ hiện
đại… cho các doanh nghiệp - nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời, tăng
cường hơn nữa vai trò của các hiệp hội, các hội, các câu lạc bộ giám đốc và các tổ chức
chuyên môn, nghiệp vụ đối với sự phát triển của các doanh nghiệp.

×