Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

HỔ TRONG NGHỆ THUẬT MỸ THUẬT TẠO HÌNH XƯA ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.58 KB, 5 trang )






HỔ TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH XƯA



Có thể nói, từ thời Trần hổ đã chính thức
đi vào nghệ thuật bằng những tượng tròn
ở lăng Trần Thủ Độ (Thái Bình), lăng
Trần Hiến Tông (Quảng Ninh) bằng
hình khắc ở bệ đá chùa Quế Dương (Hà
Tây) con nằm, con ngồi, con nào cũng
sinh động lạ thường, hiền lành mà trang
nghiêm. Hổ ở lăng Trần Thủ Độ sau
nhiều năm ở ngoài trời đã về ngự trong bảo tàng, trở thành tài sản nghệ thuật vô giá
của cả dân tộc. Nghệ sĩ xưa không lệ thuộc vào con vật mẫu mình thấy, nắm chắc
đặc tính của hổ, tổng hợp cái đẹp của nhiều con thú khác nhau, rồi cách điệu với
thủ pháp vừa khỏe mạnh vừa phóng khoáng: đầu nghểnh cao đung đưa bờm phủ
gáy rất mượt, trên toàn thân bắp thịt nổi lên mập mạp tưởng như đang rung lên
phập phồng, chân và nhất là đuôi nổi hẳn lên hình khối rắn chắc rất khỏe. Rồi
những con hổ đá thời Lê ở Lam Sơn (Thanh Hóa v.v Hổ chạm thành khối tượng
tròn trên đá rất nhiều, nhưng nhiều hơn cả vẫn là hổ chạm nổi, chạm lộng trên gỗ.
Hàng loạt đình làng khắp mọi vùng quê thuộc các thế kỷ XVI, XVII, XVIII người
nghệ sĩ dân gian đã để lại cho chúng ta rất nhiều hình hổ đá khác nhau thường ở
thể tĩnh. Đồng loại của chúng trên gỗ bao giờ cũng động, cũng ở giai điểm mạnh
mẽ nhất, và cùng với hoạt động của con người tạo thành những hoạt cảnh vui mắt,
nhộn nhịp, khẩn trương hết sức.
Tại đình Chu Quyến (Hà Tây), trong hoạt cảnh táng mả vào hàm rồng một con hổ


thon lẳn chạy ngoi lên theo bước chân cậu bé Bộ Lĩnh đang hăm hở và láu lỉnh đưa
gói xương cốt vào miệng con rồng, vừa há miệng quẫy đuôi vui vẻ. Con hổ ở đây
mắt ánh lên, răng hơi nhe ra nhưng nghệ sĩ đã cho nó một dáng điệu rất dễ thương
của con chó cún.
Sang đình Đông Viên (Hà Tây), con hổ cũng như con rắn, lại cùng với các chàng
trai tinh nghịch xông vào đám mấy cô gái đang tắm trong đầm sen để đùa bỡn. Các
cô nhớn nhác muốn ẩn náu, nhưng chạy sang phải bị chàng trai giơ rắn dọa, chạy
sang trái bị chàng trai cưỡi hổ vượt lên cản, lánh dưới đầm sen thì lại bị một chàng
trai khác chiếm chỗ trước rồi. Các cô thu mình khép kín, vuốt mớ tóc dài, chẳng
cần chạy nữa, cứ phô bày tất cả vẻ đẹp của cơ thể, nhưng không hớ hênh mà thật là
kín đáo. Con hổ ở đây đồng tình với các chàng trai, dọa mà lại cười, toàn thân rung
lên thích thú.
Đình Chay (Hà Nam Ninh) có cảnh người đấu hổ hết sức khẩn trương, trên đầu
đài, võ sinh mình trần đóng khố, tay mộc tay dao, mặt rất hân hoan, lanh lẹn dùng
trí đấu với sức mạnh của con hổ vằn. Hổ dùng thân, nhoai lên trên hai chân sau,
dồn cả sức mạnh ghê gớm xông vào võ sĩ. Hai chân trước muốn cào muốn xé, răng
nhe ra, mắt gườm gườm, đầu nhoi nhoi và cái đuôi vùng vẫy bực tức. Cuộc đấu
đang ở giây phút căng thẳng nhất, chưa phân thắng bại nhưng rõ ràng đã báo trước
vinh quang thuộc về người võ sĩ nhanh nhẹn và thông minh.
Đình Thổ Tang (Vĩnh Phú) lại chạm cảnh người săn hổ. Người thợ săn giáp trận,
bình tĩnh bắn súng kíp, còn con hổ có lẽ đã quẩn, nhe miệng ra kêu tuyệt vọng đưa
chân sau lên gãi tai, thân uốn buồn bã
Khó mà thăm hết hổ chạm gỗ ở các đình làng. Hình hổ quen thuộc với mọi người
nhất, hẳn là ở những bức tranh Hàng Trống (Hà Nội). Khi thì hổ đơn, khi thì hổ
bầy lúc nhúc 5 con hổ. Hổ được nghệ sĩ tập trung khuếch đại những chi tiết cơ thể
theo một cử động nhất định, tĩnh mà muốn vọt lên, nhanh nhẹn, mềm mại. Tất cả
mọi thành phần cơ thể cần cho sự nhảy vọt đều được nhân cách hoá, toàn thể vẫn
hài hòa, các cử động khác thường hoàn toàn rất thực. Con nào cũng sống với
cường độ muốn nhảy khỏi khung tranh để tham gia vào cuộc sống thực. Các mảng
màu cứ chờn vờn, lấp lánh càng tăng thêm độ sáng của mảng khối và đường nét.

Trong nền điêu khắc cổ Việt Nam mô típ “hổ vờn mồi”, “hổ vờn trăng”, “hồ và đại
bàng” thường được dùng để diễn tả một sức mạnh, một ý chí và khai thác chất
thơ trong cái hùng của loài thú sơn lâm. Nhưng ở đây, ngay từ sự khởi tứ, tạo dáng,
người nghệ sĩ đã tránh được đường mòn trong nghệ thuật cổ nước ta khi mượn
hình tượng hổ. Họ không dùng cái “cương” để hiện sức mạnh, cũng chẳng “vẽ may
để vờn trăng”, mà dùng ngay cái “nhu”, cái “mềm” để biểu hiện chất “hùng”, chất
“thép”, khai thác nó ở ngay những hình ảnh bình thường nhất nhưng mang đầy ý vị
của trí tuệ đã trải đời.
Đề tài về hổ còn thấy trong nghệ thuật gốm xưa Việt Nam và nhất là trong tranh
dân gian, nếu gạt bỏ cái vỏ tôn giáo đi sẽ trở thành những tác phẩm có giá trị nghệ
thuật cao như các tranh ngũ hổ, bạch hổ hay hắc hổ do sự phối hợp đường nét,
hình khối và màu sắc tài tình của nghệ sĩ đã tạo nên những bức tranh hổ tuyệt diệu,
đầy sức sống mãnh liệt, biểu hiện trên nét mặt, chòm râu, ánh mắt sáng dội của
cọp. Nhất là thế ngồi của cọp, với thân hình vạm vỡ, chắc khỏe, ngồi nghiêng trên
thế chống thẳng tuyệt đối vững chắc của hai chân trước, càng làm tăng thêm súc
mạnh của cọp.

×