Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Xơ vữa động mạch - đột quỵ não potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.14 KB, 6 trang )





Xơ vữa động mạch - đột
quỵ não
Chỉ có 12-15% người bệnh có triệu chứng thiếu máu não thoảng qua,
được coi là dấu hiệu cảnh báo bị đột quỵ, còn đa phần không có biểu
hiện gì trước khi đột quỵ xảy ra.
Các nguyên nhân gây đột quỵ vì thế được coi như là bom nổ chậm, khi
chúng phát nổ thì để lại hậu quả khôn lường. Việc phát hiện và điều trị dự
phòng trước khi đột quỵ xảy ra là cực kỳ cần thiết và quan trọng, giúp người
bệnh có thể tránh được đột quỵ.
Truy tìm các yếu tố dẫn đến đột quỵ não
Đột quỵ não là hội chứng lâm sàng được đặc trưng bởi sự mất cấp tính chức
năng của não, tồn tại quá 24 giờ hoặc tử vong trước 24 giờ. Những triệu
chứng thần kinh khu trú phù hợp với vùng não do động mạch bị tổn thương
phân bố, không do nguyên nhân chấn thương. Đột quỵ não còn được biết
đến với tên gọi khác là tai biến mạch máu não.

Đột quỵ hay tai biến mạch máu não là một bệnh lý gây ra do tổn thương
mạch máu tại não. Theo phân loại quốc tế, bệnh mạch máu não gồm hai thể
chính là nhồi máu não và chảy máu não. Nhồi máu não hay thiếu máu não
cục bộ là do lòng mạch máu não bị nghẽn, bít tắc hoặc thắt hẹp (chiếm tỷ lệ
đa số là 87%). Chảy máu não là do mạch máu não bị vỡ, thường nơi vỡ là
các phình động mạch (3%), mạch máu dị dạng hoặc do rối loạn yếu tố đông
cầm máu.
- Nguyên nhân của sự nghẽn mạch hay huyết khối thường do lòng mạch bị
vữa xơ hoặc viêm, hình thành các mảng vữa xơ và cục máu đông làm hẹp
dần lòng mạch. Nếu lòng mạch bị hẹp nhiều (khi hẹp ≥ 75%) sẽ có biểu hiện
thiếu máu vùng não phía sau do mạch máu đó cung cấp, khi lưu lượng máu


não dưới 10ml/100g não/phút sẽ gây ra nhồi máu (bình thường lưu lượng
tuần hoàn não trung bình ở người lớn là 49,8ml ± 5,4ml/100g não/phút).
- Tắc mạch máu não là do cục tắc từ vị trí khác của lòng mạch di chuyển
đến. Cục tắc có thể từ tim hoặc ở lòng mạch đoạn từ quai động mạch chủ
đến động mạch cảnh được trôi lên mạch máu não, cục tắc sẽ dừng lại ở lòng
mạch có kích thước nhỏ hơn và gây mất cấp máu cho vùng não do mạch đó
chi phối, từ đó gây nhồi máu não. Cục tắc hình thành ở tim thường do máu
bị quẩn trong tim do bệnh hẹp van hai lá, rung nhĩ, loạn nhịp tim. Cục tắc
hình thành ở mạch thường là mảng vữa xơ bị bung ra và trôi lên phía trên
theo dòng chảy của tuần hoàn não.
- Lòng mạch bị thắt hẹp do co thắt mạch máu não, thường gặp trong chảy
máu dưới nhện, sau đau nửa đầu, tăng huyết áp cấp tính, can thiệp mạch.
- Chảy máu não có thể do tăng huyết áp, do vỡ các phình động mạch não
hoặc vỡ ổ dị dạng động tĩnh mạch bẩm sinh (AVM), vỡ thông động tĩnh
mạch màng cứng hoặc các bệnh lý rối loạn đông cầm máu. Phình mạch máu
não có thể do bẩm sinh, có thể mắc phải do bị tổn thương thành mạch và
tăng huyết áp.
Vậy cần làm gì để biết trước khả năng bị đột quỵ?
Để biết trước điều này không còn cách nào khác là phải biết hệ mạch não,
hệ mạch từ tim lên não cũng như các yếu tố đông cầm máu trong cơ thể.

Đối với nhóm người trẻ tuổi, khả năng bị đột quỵ là do có bệnh lý dị dạng
động tĩnh mạch não bẩm sinh, phồng động mạch não bẩm sinh; tắc mạch não
do biến chứng hẹp van hai lá gây rung nhĩ, tạo thành máu quẩn ở tim trôi lên
não hoặc các bệnh về máu như xuất huyết giảm tiểu cầu, sốt xuất huyết. Vậy
trước tiên cần làm là khám sức khỏe định kỳ xem có các bệnh về máu
không, kiểm tra tim mạch xem có bị bệnh lý van tim không? Với trẻ hay đau
đầu, co giật động kinh, chậm nhận thức, nên kiểm tra mạch máu não bằng
chụp cộng hưởng từ mạch máu não hoặc chụp cắt lớp vi tính nhiều lớp cắt
dựng mạch. Khi có nghi ngờ thì chụp mạch số hóa xóa nền (DSA) để xác

định rõ tổn thương.
Đối với người có yếu tố nguy cơ cao như tăng huyết áp, đái tháo đường, béo
phì, rối loạn lipid máu, bệnh lý tim mạch, vữa xơ động mạch, cơn thiếu máu
não thoảng qua, nghiện rượu, nghiện thuốc lá thì việc quan trọng là khảo
sát hệ mạch máu não, hệ mạch cảnh, động mạch chủ và tim. Xác định xem
mạch máu não có bị phình, bị dị dạng, bị chít hẹp hoặc có cục máu quẩn
trong tim không? Người bệnh cần làm điện tim, siêu âm tim, siêu âm hệ
động mạch chủ và hệ động mạch cảnh và tốt nhất là chụp được hệ mạch máu
não bằng cộng hưởng từ hoặc CT scanner đa lớp cắt mạch máu.
Đối với người trên 55 tuổi, đây là nhóm có khả năng bị đột quỵ cao, chủ yếu
do nhồi máu não huyết khối hoặc chảy máu não do vỡ các phình mạch, tăng
huyết áp. Cần khảo sát kỹ hệ động mạch cảnh, hệ động mạch não bằng siêu
âm và cộng hưởng từ mạch, CT đa lớp cắt dựng mạch hoặc chụp mạch máu
máu não DSA.
Ngăn chặn đột quỵ thế nào?

Đột quỵ não xảy ra rất đột ngột và cấp tính, đôi khi cướp đi tính mạng của
người bệnh chỉ vài chục phút. Chỉ có 12-15% người bệnh có triệu chứng
thiếu máu não thoảng qua, được coi là dấu hiệu cảnh báo bị đột quỵ, còn đa
phần không có biểu hiện gì trước khi đột quỵ xảy ra. Các nguyên nhân gây
đột quỵ vì thế được coi như là bom nổ chậm, khi chúng phát nổ thì để lại hậu
quả khôn lường. Việc phát hiện và điều trị dự phòng trước khi đột quỵ xảy
ra là cực kỳ cần thiết và quan trọng, giúp người bệnh có thể tránh được đột
quỵ.
Đối với bệnh nhân có rung nhĩ, hình thành cục máu từ tim, đây là nguyên
nhân đột quỵ thể tắc mạch do cục tắc ở tim chảy lên não. Việc điều trị bao
gồm thuốc chống đông máu, chống kết tập tiểu cầu để làm tan cục máu quẩn
và điều trị chống loạn nhịp tim.
Khi bị hẹp lòng mạch, nếu động mạch não bị hẹp dưới 75% mà chưa có triệu
chứng lâm sàng thì uống thuốc chống kết tập tiểu cầu, hạ lipid máu, hạ huyết

áp, kiểm soát đường máu có thể ngăn chặn sự phát triển mảng vữa xơ, làm
lòng mạch được thông suốt hơn, ngăn chặn hình thành cục máu đông, từ đó
ngăn chặn được đột quỵ thiếu máu não. Khi hẹp trên 75% chưa có triệu
chứng lâm sàng hoặc trên 50% mà có triệu chứng thiếu máu não thì tiến
hành đặt stent lòng mạch, người ta đặt các vòng lò xo kim loại có tác dụng
mở rộng lòng mạch, tránh hẹp tắc.
Nếu phát hiện có phình mạch hoặc các ổ dị dạng động tĩnh mạch thì tiến
hành nút coils túi phình hoặc nút ổ dị dạng bằng chất keo sinh học. Đây là
các kỹ thuật tiên tiến, không phải mở sọ não và thu được kết quả rất tốt, giúp
tránh bị đột quỵ chảy máu não.
Ngoài ra phải loại bỏ các yếu tố nguy cơ như hút thuốc lá, nghiện rượu, ăn
nhiều chất béo, béo phì. Kiểm soát thật tốt các yếu tố nguy cơ như tăng
huyết áp, đái tháo đường, tăng lipid máu, rối loạn nhịp tim.

×