Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Luận văn " Đặc điểm thơ Sijo từ góc nhìn cảm thức thẩm mỹ " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (762.69 KB, 88 trang )

Luận văn

Đặc điểm thơ Sijo
từ góc nhìn cảm
thức thẩm mỹ

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài:
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
7. Kết cấu của đề tài:
Chương 1. Đặc điểm thơ sijo từ điểm nhìn lịch sử văn học
1.1 Vị trí sijo trong nền văn học Korea
1.2 Nguồn gốc thơ sijo
1.3 Bối cảnh ra đời và phát triển thơ sijo
1.3.1 Bối cảnh lịch sử- chính trị
1.3.2 Bối cảnh tư tưởng - văn hóa
1.4 Tiến trình thơ sijo
1.4.1 Sijo cuối thời Koryeo
1.4.2 Sijo thời Choseon
1.4.3 Sijo hiện đại
Chương 2. Đặc điểm sijo từ góc nhìn thể loại
2.1 Phân loại sijo
2.1.1 Phân loại theo độ dài của lời thơ:
2.1.2 Phân loại theo đặc điểm âm nhạc
2.2.3 Phân loại theo vùng miền


2.2 Thi luật của sijo
2.2.1 Pyeong sijo
2.3.2 Eot sijo và Saseol sijo
2.3.3 Sijo hiện đại
Chương 3. Đặc điểm thơ sijo từ góc nhìn cảm thức thẩm mỹ
3.1 “Đạo”và “Mỹ”
3.2 “Tình” và “Hận”
3.3 “Phong lưu” và “Khoái lạc”
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Chương 3. Đặc điểm thơ sijo từ góc nhìn cảm thức thẩm mỹ
3.1 “Đạo” và “ Mỹ”
Thơ sijo ra đời cùng lúc với việc Tống Nho du nhập vào Korea, và sự
phát triển của sijo cũng đi song song với qua trình Tống Nho khẳng định địa
vị độc tôn trong tư tưởng chính trị và học thuật Korea, do đó việc sáng tác và
thưởng thức sijo đã bị chi phối một cách sâu sắc bởi lý luận văn học dòng
Nho gia của Trung Hoa với tư tưởng chủ đạo là “Văn sở dĩ tải đạo dã”. Chu
Đôn Di viết:
Văn là để chở đạo. Bánh xe, càng xe được trang sức mà không
dùng thì chỉ là đồ trang sức phí công, huống chi là chiếc xe không chở
gì? Văn từ chỉ là nghệ thuật thôi, đạo đức mới là thực. Dốc sức vào cái
thực rồi dùng nghệ thuật viết ra nó [6, tr.105]
Và:
Đạo là gốc rễ của văn. Văn là cành lá của đạo. Gốc rễ của nó là
ở đạo, cho nên phát ra từ văn đều là đạo. [6, tr.104]
Tư tưởng này đã du nhập và trở thành “kim chỉ nam” trong việc sáng
tác và thưởng thức văn chương Korea từ cuối thời Koryeo đến đầu thời
Choseon.

Từ thời Koryeo, mối quan hệ giữa văn và đạo và tác dụng giáo hóa của
văn chương đã được chú ý nhiều. Trong cuốn sách phê bình văn học thời
Koryeo tên là “Bổ nhàn tập”, tác giả Thôi Tư (1188-1260) đã viết:
Văn là cánh cửa đi vào chính đạo. Vì vậy không nên viết những
lời trái với đạo lý. Tuy nhiên, nói một cách sinh động và khích lệ tinh
thần để gây cảm tình đối với người nghe thì đôi khi cũng cần phải nói
một cách cứng rắn và khác thường, huống chi đến làm thơ. Thơ có phú,
tỉ, hứng làm căn bản. Vì vậy, văn phong cần phải khác thường, quả
quyết, ý nghĩa phải sâu sắc, lời nói phải rõ ràng mới tạo được cảm tình
đối với người đọc và làm cho người đọc giác ngộ ra vấn đề. Họ sẽ hiểu
ra ý nghĩa sâu sắc và đẹp đẽ của bài thơ, và cuối cùng họ sẽ trở về với
chính đạo. [28, tr.419]
Đến thời Choseon, vấn đề này trở thành trung tâm của việc phê bình
văn học. Trong lời tựa của Jeong Dojeon (Trịnh Đạo Truyền, 鄭道傳1342–
1398) ở đầu cuốn sách Mogeunjip (牧隱集- Tuyển tập các tác phẩm của Yi
Saek (李穡, 1328 – 1396), tác giả đã khẳng định: “Văn là chiếc xe chở đạo”
[36, tr.317]
Cũng như Jeong Dojeon, So Kojong (Từ Cư Chính, 徐巨正 (1420-
1488), Cho Wi (梅溪 曺偉, 1454-1503) và nhiều nhà nho khác cũng thống
nhất rằng “Văn là phương tiện chở đạo”. [36, tr.317]
Yi I (Lý Nhĩ, 1536-1584) cho rằng các kinh sách (văn) chính là cánh
cổng dẫn đến đạo. [36, tr.317]
Những tác gia kể trên cũng chính là những người trực tiếp tham gia
sáng tác sijo, vì thế trong sijo, nền tảng mỹ học quan trọng nhất chính là
“đạo”.
“Đào sơn thập nhị khúc” của Yi Hwang chính là tác phẩm mẫu mực
trong việc dùng sijo để “tải đạo”. Tác phẩm yeon-sijo này gồm tất cả 12
khúc. Tiền lục khúc viết về đạo trong thiên nhiên, hậu lục khúc viết về đạo
học của con người. Thiên nhiên trong bài thơ mang vẻ đẹp giản dị và tự
nhiên, là biểu hiện cho quy luật của tạo hóa:

Lan nở trong thung lũng
Nên thơm thật tự nhiên
Trên triền núi mây bay
Nên đẹp không giả tạo
Không thể nào quên nổi
Cảnh đẹp thế gian này!
(“Đào sơn thập nhị khúc” của Yi Hwang, khúc thứ tư)
(Bản dịch nghĩa:
Hoa lan nở trong thung lũng nên thơm một cách tự nhiên.
Mây trắng bay trên núi nên đẹp một cách tự nhiên.
Không thể nào quên được cảnh đẹp giữa thế gian này.)
Chương một và hai của bài thơ này sử dụng phép lặp “thơm một cách
tự nhiên”, “đẹp một cách tự nhiên” (tác giả dùng Hán tự “Tự nhiên”). Tác giả
muốn nhấn mạnh tiêu chí của cái đẹp là tuân theo quy luật của tạo hóa.
Nguyên nhân làm nên hương thơm của hoa lan là vì nó nở ở đúng môi trường
tự nhiên sinh ra nó: trong thung lũng, cũng như mây, nguyên nhân làm nên
cái đẹp của mây là vì nó bay trên núi cao- đúng như lẽ thường tình. Tác giả
dùng kết cấu “vì nên”, để lý giải vẻ đẹp. Tất cả những đối tượng miêu tả
đều xuất hiện trong bối cảnh bình thường nhất. Chính cái bình thường đó làm
nên vẻ đẹp cho nó, bởi nó tuân theo quy luật của hóa công.
Trong mắt nhìn của Yi Hwang, quy luật của tạo hóa thật nhiệm màu,
trời đất sinh ra vạn vật tự nó đã có một sự hài hòa sâu sắc, từ thiên nhiên cho
đến con người:
Gió xuân, hoa phủ núi
Đêm thu nguyệt rạng lầu
Vẻ đẹp bốn mùa ấy
Cũng giống con người ta
Trời đất vốn hài hòa
Vô thủy và vô chung
(Bản dịch nghĩa:

Hoa che phủ núi trong gió xuân, trăng chiếu sáng trên lâu đài
trong đêm thu.
Vẻ đẹp của bốn mùa cũng giống với con người.
Sự sâu sắc của sự hòa hợp trời đất là vô thủy vô chung)
(“Đào sơn thập nhị khúc” của Yi Hwang, khúc thứ sáu)
Hai đối tượng thiên nhiên được tác giả lựa chọn miêu tả trong khúc thứ
sáu này là hoa và trăng. Tác giả lựa chọn thời điểm và không gian hợp lý nhất
để chiêm ngưỡng chúng: hoa trên núi giữa mùa xuân, và trăng ngắm từ lầu
cao trong đêm thu. Điều đó không chỉ vì tuân theo hệ thống ước lệ, tượng
trưng trong thi pháp Trung Hoa, mà còn nhắm đến dụng ý truyền tải thông
điệp: phải phán xét tất cả mọi đối tượng trong hoàn cảnh phù hợp nhất, theo
đúng lý của vũ trụ. Lấy hai mùa xuân, thu làm đại diện cho bốn mùa luân
chuyển, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc thông điệp: tự nhiên sinh ra mỗi
mùa đều có vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp đó đến từ sự hài hòa của trời đất. Tự nhiên
có cái lý của nó, đạo của tự nhiên thật sâu sắc và sẽ trường tồn mãi mãi (“vô
thủy và vô chung”). Lý biểu hiện trong thiên nhiên như thế nào, thì trong con
người cũng như thế ấy (“Vẻ đẹp của bốn mùa cũng giống với con người”). Sự
tồn sinh của con người chính là do đạo.
Đắm mình trong thiên nhiên để khám phá và suy ngẫm về lý lẽ của trời
đất là một trong những cách học hỏi của người quân tử, bên cạnh đó, cũng
không thể quên con đường học đạo qua sách vở:
Cuộc đời cứ trôi qua
Thấy thật là thanh sạch
Đọc bao nhiêu sách vở
Vui thú chẳng điểm dừng
Nói rằng chẳng phong lưu
Còn là gì khác nhỉ?
(Bản dịch nghĩa:
Cuộc đời trôi qua, cảm thấy thật thanh sạch
Bằng cuộc sống đọc nhiều sách, việc vui vẻ không kết thúc.

Nói rằng chẳng phong lưu thì đó là gì?)
(“Đào sơn thập nhị khúc” của Yi Hwang, bài thứ 7)
Con đường quan trọng nhất để tu đạo là phải thực hành, bởi như đã nói,
thuyết Minh triết của Yi Hwang coi trọng kiến thức thực nghiệm. Yi Hwang
nhắn gửi hậu thế phải đi theo con đường cổ nhân đã vạch ra, phấn đấu không
ngừng nghỉ để hoàn thiện nhân cách của mình:
Cổ nhân không thấy ta
Ta cũng không thấy người
Dẫu không gặp cổ nhân
Đã có đường người vạch
Con đường ở phía trước
Ta sẽ phải làm sao?
(Bản dịch nghĩa:
Cổ nhân không thể thấy tôi của ngày nay và tôi cũng không thể
gặp mặt người xưa
Dù không thể gặp mặt người xưa nhưng con đường cổ nhân đã đi
lại đang nằm phía trước,
Con đường đó đang ở phía trước nên tôi hay bất kì ai sẽ phải làm
thế nào?)
(“Đào sơn thập nhị khúc” của Yi Hwang, bài thứ chín)
Trong khúc thứ chín, tác giả nhấn mạnh: dù không thấy bóng dáng
người xưa, và dù người xưa cũng không còn sống để theo dõi, phán xét, chấm
chỉnh hậu thế, nhưng họ đã để lại cho chúng ta điều quý nhất là “con đường”
(“đạo”). Con đường ấy ở ngay phía trước mặt chúng ta, trước câu hỏi: “Con
đường đó đang ở phía trước nên tôi hay bất kì ai sẽ phải làm thế nào?”,
đương nhiên câu trả lời chỉ có một: “phải đi theo”. Đó chính là thực nghiệm.
Và một khi đã đi, thì suốt đời không bao giờ được ngừng lại trên hành trình
“hành đạo”:
Non xanh từ thuở xưa
Và sẽ xanh mãi mãi

Nước chảy cứ chảy hoài
Chẳng bao giờ ngưng nghỉ
Chúng ta đừng ngừng lại
Hãy sống thật thanh cao!
(Bản dịch nghĩa:
Non xanh sẽ luôn xanh
và nước chảy sẽ không biết ngừng lại
Chúng ta cũng đừng ngừng lại và hãy sống một cách cao đẹp! )
(“Đào sơn thập nhị khúc” của Yi Hwang, bài thứ mười
một)
Với những tác phẩm của mình, Yi Hwang muốn giúp người đọc nhận
ra lý trong tự nhiên, hướng người quân tử đi theo chính đạo, suốt đời học tập,
tu dưỡng nhân cách không bao giờ ngừng nghỉ. Tư tưởng của Yi Hwang trở
thành nội dung trung tâm trong sijo của trường phái Yong Nam, chẳng hạn,
nhà thơ Kwõn Homun (1532-1587) lặp lại tư tưởng đó trong tác phẩm “Nhàn
cư thập bát khúc”, với bài ca sau đây:
Trời làm trong không gian lộng gió
Làm sáng tỏ trăng tròn trên cao
Trong vườn tre và trên rào thông
Tuyệt tinh khiết, không vương hạt bụi
A! Cuộc sống! Mới tươi, nồng nhiệt
Với cây đàn và sách thánh nhân.
(Bản dịch nghĩa:
Tự nhiên làm trong trẻo không gian lộng gió và làm sáng tỏ trăng
tròn,
Trong vườn tre, trên rào thông, không một hạt bụi.
Cuộc sống của tôi mới tươi mới và nồng nhiệt làm sao, cùng với
cây đàn tam thập lục và những cuốn sách.)
Trong bài thơ này, không gian trở nên lộng gió tươi mát, trăng trở nên
tròn đầy sáng trong đều là nhờ nguồn lực tự nhiên (lý). Trong không gian

thanh khiết ấy, chủ thể trữ tình hiện ra với khuôn mặt của một nho sĩ “nhàn
cư”, đắm mình vào sách vở. Ở đây, con người sống hòa hợp với thiên nhiên,
nhận ra con đường của mình thông qua chiêm nghiệm quy luật tự nhiên và
đọc nhiều sách thánh hiền.
Một đại diện khác của Nho học Korea sống cùng thời với Yi Hwang là
Yi I (Lý Nhĩ李 珥, tự là Lật Cốc粟谷, 1536-1584). Yi I đã “tải đạo” bằng tác
phẩm yeon-sijo “Cao sơn cửu khúc ca”- một tác phẩm phỏng theo “Vô Diệm
cửu đàm” của Chu Hy.
Ngay từ khúc ca đầu tiên, tác giả đã dẫn đắt người đọc vào đạo học của
Nho gia:
Người đời ai biết đến
Cao sơn cửu khúc ca
Nên cắt cỏ làm nhà
Bạn bè ta kéo đến
Nhớ tới núi Vô Diệm
Học đạo Chu Hy a!
(Bản dịch nghĩa:
Người đời không biết đến Cao sơn cửu khúc ca
nên cắt cỏ làm nhà ở, bạn bè kéo đến theo.
A! Hãy liên tưởng đến núi Vô Diệm mà học đạo Chu Tử.)
(“Cao sơn cửu khúc ca” của Yi I, bài thứ nhất)
Bối cảnh “Cao sơn” được liên tưởng với núi Vô Diệm mà Chu Hy
từng sống, nơi đó tác giả cùng bạn bè “Đặt rượu giữa rừng thông” ngồi
cùng nhau đàm đạo (bài thứ hai). Tác giả đã nhận ra vẻ đẹp tuyệt vời của
núi, rừng thông, vách đá, hồ nước, và cũng như thiên nhiên trong “Đào sơn
thập nhị khúc” của Yi Hwang, đất trời trong mắt nhìn của Yi I cũng mang
trong mình nó vẻ đẹp của “đạo”:
Một năm chốn sỏi đá
Cảnh đẹp bởi hài hòa
(Dịch nghĩa: Một năm đã qua ở chốn sỏi đá vô tri hài hòa nên cảnh

đẹp.)
(“Cao sơn cửu khúc ca” của Yi I, bài thứ mười)
Tác giả nói rõ: chính sự “vô tri” mà “hài hòa” của sỏi đá đã tạo nên
sức sống tươi đẹp cho nó. Đó là gì nếu không phải là “đạo”? Và tác giả
nhắn gửi đến người đọc thông điệp: “Hãy hưởng thú phong lưu tu học,
ngâm thơ giữa nơi này” (bài thứ sáu).
Tiếp nối Yi Hwang và Yi I, các tác gia sijo từ thế kỷ XVI trở về sau
luôn khắc họa trong thơ của mình khung cảnh thiên nhiên đẹp một cách hài
hòa, tự nhiên, giản dị, thể hiện “cái lý” của tự nhiên. Khung cảnh ấy nhắc
nhở người ta rằng đất trời có đạo, và con người cũng vậy, cho nên sống phải
hài hòa, phải theo quy luật của tạo hóa và quy luật hành xử của con người.
Bởi thế, đi liền với quan niệm “văn tải đạo” là chức năng giáo hóa của thi ca.
Nhà phê bình văn học thời Choseon Kim Chongjik (Kim Tông Trực) cho
rằng: “Văn là một kỹ xảo thứ yếu, thơ còn ít quan trọng hơn. Nhưng để chỉ
dẫn con người tu thân, đạt được sự chuyển biến về đạo đức, và làm cho đạo
truyền tới ngày nay, cũng như truyền cho các thế hệ sau mãi mãi không
dừng, có thể nhờ đến thơ văn.” [36, tr.317] So Kojong (Từ Cư Chính) trong
“Đông nhân thi thoại” cho rằng “Những bài thơ hay sẽ làm độc giả cảm
động, đồng thời cũng làm cho bản tính của con người trở nên thanh khiết
hơn.” [36, tr.317] Cuối thời Choseon, Wi Paekkyu (1727-1798) cho rằng
văn học làm hoàn thiện nhân cách con người: “Không có văn chương, con
người không thể trở thành một người hoàn hảo được”. [36, tr.317] Chong
Yagyong (1762-1836) nhấn mạnh chức năng của thơ ca : “Không ủng hộ
những người thống trị và không quan tâm đến sự thịnh vượng của một đất
nước thì không phải là thơ”, “Không tán dương hay đả kích, không đề cao
đức hạnh hay phê phán sự đồi bại thì không phải là thơ.” [36, tr.317]
Những quan niệm trên đây đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc sáng tác sijo. Sijo
là thể thơ để ca hát, nhưng không phải chỉ là ca hát mua vui, mà hầu như
mỗi bài thơ đều mang trong nó một thông điệp nhắn gửi người ta sống tốt
hơn, đẹp hơn. Nhà nghiên cứu Choi Seung-beom trong bài viết “The Mot of

the Choson Sonbi” đã khắc họa lại hình ảnh của một “Sonbi” (nho sĩ) biểu
hiện trong thơ sijo: Sijo hướng người ta đến một mẫu hình “Sonbi” hội tụ
đầy đủ năm nét đẹp nhân cách: Thứ nhất là lòng trung thành với triều đình,
thứ hai là tính cách chính trực, sẵn sàng từ chối những của cải có nguồn
gốc không trong sạch, thứ ba là tình yêu đất nước, thứ tư là lối sống giản dị,
thanh nhàn, và thứ năm là không ngừng tu thân theo đạo đức Nho gia. [47]
Từ cuối thời Koryeo, nhà thơ- học giả lỗi lạc Byeon gye rang
(卞季良1369 – 1430) đã để lại bài sijo giáo huấn nhắc nhở con người sống
theo đạo:
Hãy làm điều ta thích
Chớ làm điều chẳng ưa
Dẫu người ta đưa đẩy
Đừng làm điều không hay
Hãy sống đúng với mình
Như ý mệnh trời sinh!
(Bản dịch nghĩa:
Hãy làm điều ta thích, chớ làm điều không ưa
Mặc người ta xui khiến, những điều không thiện, xin đừng làm
theo!
Hãy sống đúng với mình, theo ý mệnh tạo hóa sinh ra)
Thời Choseon, nhà thơ Chong Cheol đã sáng tác mười sáu bài “Huấn
dân ca”với mục đích dạy dân chúng sống theo những quy tắc đạo đức giản dị,
thiết thực, biết giữ cương thường đạo lý.
Bài sijo sau đây nói về ân nghĩa của cha mẹ đối với con cái:
Cha sinh thành ra ta, mẹ dưỡng dục
Nếu không có hai đấng sinh thành, liệu thân thể này có được ra
đời?
Ơn dưỡng dục rộng như trời bể mênh mông, biết đến bao giờ mới
đền đáp được
(“Huấn dân ca” của Chong Cheol, bài số 1)

Chính vì ân nghĩa ấy, mà con cái phải biết lấy chữ “Hiếu” làm đầu:
Lúc cha mẹ còn sống, hãy cố gắng làm tròn chữ Hiếu
Đến lúc cha mẹ ra đi rồi , có đau khổ bao nhiêu cũng chẳng làm
được gì
Ở đời , có một việc không bao giờ làm lại được, ấy chính là
phụng dưỡng cha mẹ
(“Huấn dân ca” của Chong Cheol, bài số 4)
Tình cảm anh em được đề cập trong bài sijo:
Anh à, em à, thử chạm vào da thịt mình mà xem
Được ai sinh thành thì dáng hình sẽ giống thế
Đã cùng được uống dòng sữa mẹ mà lớn lên, thì ai ơi xin đừng
thay lòng đổi dạ
(“Huấn dân ca” của Chong Cheol, bài số 2)
Tình cảm vợ-chồng cũng được nhắc đến:
Ông trời sinh ra cơ thể, tạo ra từng cặp vợ chồng
Lúc sinh thời, cùng sống, cùng già, cùng chết ở một nơi
Với mối quan hệ như thế, ai có thể ngu ngốc mà nghi ngờ
(“Huấn dân ca” của Chong Cheol, bài số 5)
Ngoài tình cảm gia đình, trong “Huấn dân ca” còn có những bài nói về
nghĩa vua-tôi:
Tuy khoảng cách giữa vua và bách tính giống như trời và đất
Nhưng bất cứ những việc gì dân làm, vua cũng đều biết hết
Bách tính chúng ta sao có thể hưởng thụ một mình?
(“Huấn dân ca” của Chong Cheol, bài số 3)
Sijo làm công việc “khuyến thiện, trừng ác”. Bài sijo sau đây khích lệ
mọi người làm việc tốt:
Dân làng ơi, hãy cùng nhau làm việc tốt
Người sinh ra mà không làm được việc tốt.
Thì có khác gì con bò con ngựa đội “gat” lên đầu rồi ăn cơm
(“Huấn dân ca” của Chong Cheol, bài số 8)

Và dạy người ta lánh xa điều ác:
Đừng ham mê cờ bạc, trộm cắp
Làm cho nhà khuynh gia bại sản, sao có thể oán giận được người
ngoài
Nước cũng có quốc pháp, chẳng phải thế sao?
(“Huấn dân ca” của Chong Cheol, bài số 15)
Truyền thống “tải đạo” vẫn được tiếp nối cho đến tận thế kỷ XX. Sijo
thời khai sáng là những bài hát đánh thức tình yêu nước, phổ cập giáo dục,
khuyến khích gìn giữ đạo đức. Sijo thời thuộc địa đã đi song hành cùng chính
trị, là công cụ đắc lực để kêu gọi người công dân cống hiến mình cho Tổ
quốc, chẳng hạn như trong bài “Hãy đứng lên” (나오라) của Yi Byeong Ki
(李秉岐, 1891-1968):
Người con gái xinh đẹp lang thang buổi sớm mai
Cuộc đời đã vứt bỏ, chẳng thể làm được chi!
Trước khi nở nụ cười, hãy để nước mắt rơi

Sau cái chết bất hạnh, hãy cùng nhìn lại đi!
Hãy đứng lên mạnh mẽ, đánh đuổi lũ gian tà
Tay cầm lên công cụ, dứt khoát chớ chần chừ!
Sijo thế kỷ XX thổi vào lòng người niềm tin vào đạo, tin vào sự chiến
thắng của công lý, của một dân tộc có chính nghĩa:
Ngọn cờ! Người là sức mạnh, dùng hết sức mình để giương cao
và đứng đầu
Luôn luôn tin vào chiến thắng , người luôn bay cao
Cả hôm nay cũng vậy, trước sự chiến đấu hiên ngang của người,
cả địa cầu cũng run rẩy
(Ngọn cờ- Yi Ho U)
Với tư tưởng xuyên suốt là “đạo”, sijo đã tự tạo cho nó một sức sống
lâu bền bởi hợp với truyền thống văn học Á Đông. Nhưng nếu chỉ “tải đạo”
một cách trực tiếp, khô khan, thì có lẽ sijo đã không có được sức hấp dẫn đến

thế. “Đạo” qua sijo thấm vào lòng người một cách rất tự nhiên, bởi sijo còn là
thể thơ của “Mỹ”. Trong sijo có sự hài hòa giữa vẻ đẹp hình thức với nội
dung thể hiện. Điều này cũng là do ảnh hưởng của tư tưởng văn học dòng
Nho gia Trung Hoa. Các nhà nho thời Koryeo đến Choseon luôn ghi nhớ ý
kiến của Khổng Tử: “Văn chất hài hòa thì mới đạt đến trình độ quân tử”
(Văn chất bân bân nhiên hậu quân tử). Họ coi trọng việc “tải đạo”, nhưng để
đạo thấm vào lòng người, thì trước hết phương tiện tải đạo- tức văn- cũng
phải đẹp, hấp dẫn và thống nhất với “đạo”. Giữa thời Choseon, nhà phê bình
văn học Ho Kyun (1569-1618) cùng với Yi Sugwang (1563-1628) cho rằng
phải giữ gìn tính thống nhất về nội dung và hình thức. Họ đề cao một loại văn
chương đạt được sự hài hòa cả về “khí”, “cốt” và kỹ thuật viết. Ho Kyun và
Yi Sugwang đánh giá cao sự uyên bác, trí thông minh và sự chuyên cần của
một nhà thơ. Họ nhấn mạnh những khó khăn trong việc sáng tạo ra một tác
phẩm văn chương nghệ thuật. Văn chương không còn bị xem là một “kỹ năng
nhỏ”, mà là một môn nghệ thuật đòi hỏi cố gắng suốt đời. [36, tr.319] Một
nhà phê bình khác là Chang Yu (Trương Duy, 1587-1638) ví “tu từ giống
như hoa, nội dung giống như quả.” [16, tr.196] Ông cho rằng “điều quan
trọng là cần phải có quả còn hơn chỉ có hoa. Nhưng để có thể truyền đạt đầy
đủ đạo chứa đựng trong nội dung thì cần phải tu từ.” [16, tr.196]
Các nhà thơ chú ý đến hình thức biểu hiện không chỉ do theo quan
niệm “văn chất bân bân” của Trung Hoa, mà còn do chính truyền thống mỹ
học của Korea. Người Korea được cả thế giới thừa nhận là có năng khiếu
thẩm mỹ cao. Họ cũng tự nhận mình là một dân tộc thích cái đẹp. Sống giữa
một thiên nhiên đa dạng, phong phú, thay đổi theo từng mùa, người Korea có
một tâm hồn tinh tế, mẫn cảm. Vẻ đẹp trong thiên nhiên Korea là vẻ đẹp tươi
tắn, duyên dáng và hài hòa, cho nên nghệ thuật Korea luôn tràn đầy màu sắc
và những đường nét tỉ mỉ, mềm mại.
Người Korea có một khái niệm chỉ cái đẹp là “meot”. “Meot” là một từ
thuần Hàn. Chúng tôi tạm dùng từ “mỹ” để thay thế “meot”, mặc dù “mỹ”
không diễn tả đúng hoàn toàn ý nghĩa của từ “meot”. Các tiêu chí của “meot”

đã được tích lũy dần trong kinh nghiệm thẩm mỹ của người Hàn qua hàng
ngàn năm, cho nên chỉ người Hàn mới có thể hiểu rõ ý nghĩa của từ này.
“Meot” có gốc từ từ “mat” (hương vị), nên có thể so sánh “meot” với “rasa”
trong văn học Ấn Độ. Có thể tạm diễn tả rằng “meot” là hương vị người ta
có được khi tiếp xúc với những đối tượng tao nhã, duyên dáng, hài hòa, hấp
dẫn, gợi cảm, và còn phải cao quý nữa. Sự cảm nhận “meot” liên quan đến
thế giới tâm hồn một cách sâu sắc. Meot đến từ cái hồn của sự vật hơn là từ
dáng vẻ bên ngoài. Với thiên nhiên, chẳng hạn một bông hoa, khi cảm nhận
vẻ đẹp của hoa, người Korea không nhìn nhận nó như một đối tượng riêng lẻ,
mà tìm kiếm và cảm nhận trong nó sự kỳ diệu, nhiệm màu của tạo hóa. [48]
Với con người, một người được gọi là “có meot” khi đẹp cả hình thức lẫn tâm
hồn. Bởi thế “meot” gắn liền với “đạo” không thể tách rời- “đạo” của tự
nhiên và “đạo” của người quân tử.
Là thể thơ của một dân tộc có truyền thống mỹ học như thế, lại là lời
bài hát để trình diễn bởi những nghệ nhân chuyên nghiệp cho đối tượng là
tầng lớp Yangban có nhãn quan tinh tế, nên sijo (ngoại trừ saseol sijo) phải
đáp ứng các tiêu chí của “meot”. Đây là thể thơ sử dụng ngôn ngữ tao nhã,
thế giới hình tượng cao đẹp, duyên dáng cùng nhiều phép tu từ đặc sắc,
nhưng quan trọng nhất là tất cả những yếu tố đó phải làm toát lên vẻ đẹp bên
trong- cái hồn của bài thơ- là “đạo”. Sijo thể hiện meot qua sự tìm kiếm vẻ
đẹp trong thiên nhiên, sự tu dưỡng, trau chuốt vẻ đẹp tâm hồn cùng ngôn ngữ
tinh tế với nhiều phép tu từ và hệ thống biểu tượng (núi, sông hồ, cây thông,
diệc bạch, quạ đen…)
Các nhà thơ thời Choseon xem một bài thơ đẹp là một bài thơ súc tích -
sử dụng thật ít từ để diễn đạt ý nghĩa. Ho Kyun cho rằng “Ý nghĩa nên được
tiếp tục, thậm chí khi từ đã hết.” [36, tr.319] Muốn như vậy, thì phải dùng
biểu tượng. Phần lớn các biểu tượng trong sijo đều là hình ảnh thiên nhiên,
một phần là vì sijo theo phương pháp ước lệ, tượng trưng của thơ ca Trung
Hoa, phần nữa là do thiên nhiên không chỉ là chủ đề bao trùm, mà còn là
thước đo thẩm mỹ trong sijo. Các nhà tư tưởng thời Choseon cho rằng nhà

thơ là người sáng tạo và kết nối những điều huyền bí của tự nhiên. [36,
tr.321] Theo đó, một bài thơ hay, có ý nghĩa phải thể hiện được những điều bí
ẩn từ sông núi. Học giả Kim Ch’anghyop (1651-1708) cho rằng “Thi ca và
thiên nhiên hòa quyện vào nhau về bản chất và tinh hoa.”. “Gần gũi với
thiên nhiên sẽ giúp nhà thơ ghi lại được hồn của thiên nhiên và truyền vào
trong thơ ca.” [36, tr.321] Một số nhà thơ thời kỳ này nhấn mạnh vào yếu tố
hình tượng trong thơ như một yếu tố thúc đẩy sự chân thật của bài thơ, một
bài thơ phải vừa nói bằng hình tượng, vừa cụ thể, vừa tự nhiên. [36, tr.321]
Như vậy, một bài thơ đẹp phải là bài thơ giàu hình tượng, và các hình tượng
này đều phải gắn với thiên nhiên để thể hiện những điều huyền bí của tạo
hóa. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, thiên nhiên ở đây còn phải là thiên nhiên
của chính đất nước mình, bởi càng về cuối thời Choseon, các nhà thơ càng ý
thức về tính dân tộc trong thơ. Học giả thời Choseon Chong Yagyong đã nói:
“Tôi là một người Hàn Quốc. Tôi sẽ vui vẻ viết một bài thơ thể hiện thực tế
của nước Hàn”. [36, tr.326]
Theo tiêu chí thẩm mỹ như vậy, sijo là thể thơ nói bằng hình tượng
thiên nhiên. Những hình tượng xuất hiện thường xuyên nhất trong sijo là núi,
đá, sông hồ, cây thông, chim diệc bạch
Núi chiếm tới hai phần ba diện tích Korea, nên trong các yếu tố thiên
nhiên thì núi xuất hiện trong sijo nhiều nhất. Núi thường gợi hứng cho thi
nhân sáng tác. Có rất nhiều bài sijo mở đầu bằng cảnh núi:
Mây nghỉ ngơi chốc lát
Ở trên đỉnh non cao
(Chương mở đầu bài sijo của Yi Hang Bok)

Hỡi cúc cu đang hót
Giọng buồn trên Không sơn
(Chương mở đầu bài sijo của Jung Choong Shin)

Một mình ta nâng rượu

Đắm đuối nhìn núi xa
(Chương mở đầu bài sijo của Yoon Seon Do)
Núi ở Korea là núi đá cứng. Trên địa hình như thế, rất ít loài cây sống
được, hầu như chỉ có thông, Rừng trên núi của Korea không phải là rừng
rậm kiểu như trong thơ ca Ấn Độ, ngược lại là phong cảnh thoáng đãng,
càng làm tôn thêm dáng đứng kiêu hãnh của thông. Bởi thế, núi trong thơ ca
Korea tuy có gắn với yếu tố tâm linh, nhưng không đậm nét như trong thơ
ca Ấn Độ bởi nó không có cái vẻ kỳ bí để gợi nhiều suy tư. Núi Korea
thường là chốn tu thân, học đạo. Hai tác phẩm yeon-sijo nói về đạo học đạt
đến mức mẫu mực là “Cao sơn cửu khúc ca”, “Đào sơn thập nhị khúc” của
của Yi I và Yi Hwang đều lấy bối cảnh là núi non (như đã đề cập khi nói về

×