Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Nâng cao chất lượng thẩm định TCDA tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.37 KB, 88 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
Trang
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TCDA: Tài chính dự án.
NHTM: Ngân hàng thương mại.
NHNo&PTNT: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG
Bảng 1: Phân tích độ nhạy của dự án.
Bảng 2: Công tác huy động vốn.
Bảng 3: Cho vay qua các năm.
Bảng 4: Bảng cân đối kế toán.
Bảng 5: Kết quả sản xuất kinh doanh qua các năm.
Bảng 6: Kế hoạch trả nợ.
Bảng 7: Sản lượng dự kiến qua các năm.
Bảng 8: Tính toán giá thành in trên 1m
2
vải, 1 màu, 1 lượt in.
Bảng 9: Tính toán giá thành in 1 kg nilon, giấy bạc, giấy màu.
Bảng 10: Tính toán giá thành in 10.000 biểu mẫu, tờ quảng cáo B
2
.
Bảng 11: Gía thành lắp ráp 01 bộ máy vi tính.
Bảng 12: Tính toán giá thành cho 1 năm sản xuất.
Bảng 13: Tổng hợp doanh thu qua các năm.
Bảng 14: Kết quả sản xuất kinh doanh.


Bảng 15: Dòng tiền.
Bảng 16: Báo cáo dư nợ cho vay đối với dự án đến ngày 31 tháng 12 năm 2007.
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Tỷ trọng hoạt động huy động vốn trên địa bàn Tỉnh.
Biểu đồ 2: Tỷ trọng hoạt động cấp tín dụng trên địa bàn Tỉnh.
Biểu đồ 3: Huy động vốn qua các năm của NHNo&PTNT tỉnh Nam Định.
Biều đồ 4: Hoạt động cấp tín dụng qua các năm của NHNo&PTNT tỉnh Nam Định.
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Sau một năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), chúng ta có
dịp nhìn lại và phân tích ,đánh giá thực trạng nền kinh tế đất nước, nhằm tìm ra
đối sách quản lý, điều hành và xây dựng một chiến lược phát triển quốc gia dựa
trên một tầm nhìn theo xu thế phát triển của thời đại và theo qui luật phát triển
kinh tế.
Gia nhập WTO là hòa vào xu thế chung của thời đại, đối với ngành Tài
chính – Ngân hàng cũng vậy. Đặc biệt đối với ngành Tài chính – Ngân hàng này
là một ngành khá nhạy cảm trong nền kinh tế, nên đây là một ngành cần được sự
quan tâm của Chính Phủ các nước, cũng như của các nhà làm quản lý. Do vậy
ngành Tài chính – Ngân hàng cũng được sự quan tâm của các Sinh Viên ngành
kinh tế nói chung và đặc biệt là sự quan tâm của các Sinh Viên chuyên ngành Tài
chính –Ngân hàng. Tôi là một Sinh Viên chuyên ngành Tài chính doanh nghiệp
cũng không bỏ qua sự quan tâm đó đối thị trường tài chính đầy biến động như
hiện nay. Được sự đồng ý của Nhà trường và của chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh
Nam Định, Tôi được phân công về chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Nam Định để
thực tập một thời gian, Tôi đã lựa chọn được chuyên đề tốt nghiệp thích hợp với
mình, đó là chuyên đề “ Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại chi
nhánh NHNo&PTNT tỉnh Nam Định”. Chuyên đề tốt nghiệp này bao gồm
những phần sau:

Chương I: Lý luận chung về chất lượng thẩm định tài chính dự án
của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng về chất lượng thẩm định TCDA tại chi nhánh
NHNo&PTNT tỉnh Nam Định.
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
1
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định TCDA
tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Nam Định.
Chuyên đề tốt nghiệp là một bài viết khá rõ về tình hình thực trạng về
thẩm định TCDA của chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Nam Định. Bài viết này
giúp cho các nhà quản lý và các đọc giả hiểu thêm về thẩm định tài chính dự án
một cách khách quan nhất. Để hoàn thành được chuyên đề tốt nghiệp Tôi đã
được sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn: THS. Lê Hương Lan, và cùng toàn thể
các cán bộ của phòng tín dụng thuộc chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Nam Định.
Tôi xin cảm ơn mọi người đã giúp tôi hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Chuyên đề tốt nghiệp “Nâng cao chất lượng thẩm định TCDA tại chi nhánh
NHNo&PTNT tỉnh Nam Định” không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, vậy
mong được sự góp ý của mọi người để Chuyên đề tốt nghiệp được hoàn chỉnh
hơn.
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN
(TCDA) CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát chung về Ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức

năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng.
a. Trung gian tài chính.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi phải tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền
kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu
dùng và đầu tư vượt qua thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn;(2) các
cá nhân và tổ chức khẳng định trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các
khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền tiết kiệm.
b. Tạo phương tiện thanh toán.
Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng
tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó bằng việc cho vay (hay
tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M
1
).
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản
tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi
khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo ra khoản thu
(tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo
ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
3
Chuyên đề tốt nghiệp
lớn hơn dự trữ dư thừa toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo
phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng)
c. Trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc
gia. Thay mặt khách hàng, nhà nước, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa
dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa
ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi nhờ thu, các loại

thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi
khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân
hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua
ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng.
Vì vậy công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm
cách áp dụng rộng rãi.
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại.
a. Hoạt dộng mua bán ngoại tệ.
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua bán)
ngoại tế - một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và
hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do
các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao,
đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
b. Nhận tiền gửi.
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách
huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi (thanh
toán và tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ
người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và dành được
các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như phần thưởng cho khách
hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
4
Chuyên đề tốt nghiệp
dụng tạm thời để kinh doanh. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn
ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16%năm để thu hút các khoản tiết kiệm nhằm mục đích
cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay lãi suất gấp 3 lãi
suất tiết kiệm.
c. Cho vay.
-Cho vay thương mại: ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương
phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải

thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển từ chiết khấu thương phiếu
sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm
mở rộng sản xuất kinh doanh.
-Cho vay tiêu dùng: trong giai đoạn đầu các ngân hàng không tích cự cho vay đối
với các cá nhân và hộ gia đình vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ
tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay
đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại
hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
-Tài trợ cho dự án bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng
ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy đặc biệt là trong các
ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao, song lãi lại lớn.
Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất.
d. Bảo quản vật có giá.
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng
trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách hàng tờ biên nhận (giấy
chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng
nhận nên giấy chứng nhận được sử dụng như tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ
trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành.
e. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
5
Chuyên đề tốt nghiệp
Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính
xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập
cho các doanh nhân. Khi ngân hàng mở chi nhánh, thanh toán qua ngân hàng được mở
rộng phạm vi, càng tạo nhiều tiện ích cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến khích các
doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Như vậy, một dịch
vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand
deposit), cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ.

Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan
trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng. Cùng vói sự phát triển của công nghệ thông tin,
nhiều thể thức thanh toán được phát triển như ủy nhiệm chi, nhờ thu, thanh toán bằng
điện, thẻ, L/C…
f. Quản lý ngân quỹ.
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều
cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có
kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng
đã cung cấp cho khách dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý
việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt
tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần
tiền mặt để thanh toán.
g. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ.
Chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi lấy khoản vay của những ngân
hàng lớn. Khi ngân hàng trung ương thành lập, Chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc
trực tiếp can thiệp để có được các khoản tín dụng lớn. Ngày nay, Chính phủ giành quyền
cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép
thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách
của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
6
Chuyên đề tốt nghiệp
theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được, hoặc
phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ.
h. Bảo lãnh.
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân
hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho
khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát
triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hóa và
trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác …

i. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (leasing).
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng
sản xuất và thương mại đã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị. Cuối hợp đồng thuê, khách
hàng có thể mua (do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực
cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông
qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp
đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của
tài sản cho thuê. Do vậy, cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay
và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn
j. Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về
quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài
sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả ủy thác vay hộ,
ủy thác cho vay hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư… Thậm chí các ngân hàng đóng
vai trò là người được ủy thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời
bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá.
k. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán.
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép
khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
7
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội
mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh
doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng
khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán.
l. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo đảm
việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt
động, mất khả năng thanh toán.

m. Cung cấp các dịch vụ đại lý.
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn
phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân
hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ chứng chỉ tiền gửi,
làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ.
1.2. Thẩm định tài chính dự án của NHTM.
1.2.1. Khái niệm thẩm định dự án và thẩm định TCDA.
Khá niệm thẩm định dự án:
Vấn đề về rủi ro đạo đức và thông tin không cân xứng thường xuyên xảy ra trước,
trong và sau khi dự án đươc hoàn thành. Vì vậy để khẳng định một cách chắc chắn mức
độ hợp lý và hiệu quả, tính khả thi của dự án cũng như quyết định đầu tư thực hiện dự
án, cần phải xem xét, kiểm tra lại dự án một cách độc lập với quá trình chuẩn bị, soạn
thảo dự án, hay nói cách khác là cần phải thẩm định dự án. Trên phương diện tài trợ vốn
cho dự án, các Ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tài chính – tín dụng cũng đặc
biệt quan tâm đến vấn đề này, qua thẩm định dự án sẽ khẳng định được tính hiệu quả và
tính an toàn của công cuộc đầu tư. Nhờ đó mà các tổ chức tài chính – tín dụng có được
cơ sở vững chắc trong quá trình ra quyết định tài trợ vốn.
Nói tóm lại: Thẩm định dự án là rà soát, kiểm tra lại một cách khoa học
khách quan và toàn diện mọi nội dung của dự án và liên quan đế dự án nhằm
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
8
Chuyên đề tốt nghiệp
khẳng định tính hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án trước khi quyết định đầu
tư. Trong quá trình thẩm định dự án, nhiều khi phải tính toán, phân tích lại dự án.
Khái niệm thẩm định TCDA:
Thẩm định tài chính dự án là rà soát, đánh giá một cách khoa học và toàn diện
mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư: doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế khác, các cá nhân. Thẩm định dự án là nội dung quan trọng trong thẩm định dự
án. Cùng với thẩm định kinh tế, thẩm định tài chính giúp các nhà đầu tư có những thông
tin cần thiết để đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn.

1.2.2. Cơ sở của việc thẩm định TCDA.
Ngân hàng là nhà tài trợ cho dự án, nên để thẩm định tốt và hiệu quả thì quá trình
tiến hành dự án dựa trên các cơ sở nhất định đó là thu thập số liệu và xử lý thông tin.
Trong quá trình thu thập số liệu, những tài liệu cần quan tâm gồm:
-Hồ sơ đơn vị.
-Hồ sơ dự án.
-Tài liệu tham khảo.
Các văn bản luật đầu tư, luật công ty, luật đất đai…. Và các tài liệu liên quan đến
dự án.
Trong quá trình xử lý thông tin cần làm những bước tiếp theo:
Sau khi thu thập thông tin, tiến hành xắp xếp lại các loại thông tin, áp dụng các
phương pháp đối chiếu so sánh để xử lý.
1.2.3. Nội dung thẩm định TCDA.
Thẩm định TCDA, đối với NHTM, ngoài mục tiêu đánh giá hiệu quả của dự án
còn nhằm đảm bảo sự an toàn cho các nguồn vốn mà Ngân hàng tài trợ cho dự án. Đó là
việc phân tích, xem xét, đánh giá về mặt tài chính của dự án đầu tư bao gồm một loạt các
phương pháp đánh giá hiệu quả tài chính và các chỉ tiêu phân tích dự án đầu tư. Qua đó
đi đến kết luận có đầu tư cho dự án hay không.
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
9
Chuyên đề tốt nghiệp
Trong công tác thẩm định TCDA, giá trị thời gian của tiền là một trong các
nguyên tắc cơ bản của việc tính toán các chỉ tiêu khác, việc thẩm định chi phí và lợi ích
của dự án phải được quy về thời điểm gốc để tiện cho việc so sánh. Thẩm định TCDA ở
các NHTM thường tiến hành với các nội dung sau:
a. Thẩm định vốn đầu tư cho dự án.
Khi một dự án đầu tư mang đến Ngân hàng vay vốn thì dự án đầu tư đó đã được nhiều
cấp ngành phê duyệt. Tổng vốn đầu tư được xác định. Tuy nhiên, Ngân hàng vẫn tiến hành xem
xét lại trên cơ sở những kết quả thẩm định khác của Ngân hàng. Điều này rất quan trọng vì vốn
đầu tư sẽ giúp cho các dự án thực hiện một cách thuận lợi, nâng cao hiệu quả dự án đầu tư. Vốn

đầu tư thiếu sẽ gây khó khăn cho hoạt động đầu tư. Ngược lại thừa vốn đầu tư sẽ gây lãng phí
vốn làm giảm hiệu quả của dự án. Tổng vốn đầu tư được xác định trên tổng các chi phí.
Hiện nay, tổng mức vốn đầu tư cho một dự án được chia thành ba thành phần: là
vốn cố định, vốn lưu động ban đầu cho dự án và vốn đầu tư dự phòng.
Tính toán về vốn cố định:
Vốn cố định bao gồm toàn bộ chi phí có liên quan đến việc hình thành tài sản cố
định từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến giai đoạn thực hiện đầu tư và giai đoạn kết thúc
xây dựng dự án vào sử dụng, cụ thể:
-Chi phí chuẩn bị: Những chi phí dùng để soạn thảo nghiên cứu lập hồ sơ dự án
đầu tư, chi phí ban đầu về mặt đất, mặt nước. Đối với loại chi phí này cần phải có sự xác
nhận của cơ quan có thẩm quyền và phải lập bằng văn bản cụ thể. Các chi phí này phải
phù hợp với quy định của Bộ tài chính về tiền thu mặt đất, mặt nước để có được khoản
chi hợp lý.
-Gía trị nhà xưởng và kết cấu hạ tầng sẵn có được sử dụng cho dự án.
-Chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo nhà xươởn cũng như các kết cấu hạ tầng.
-Chi phí mua máy móc thiết bị, dụng cụ sản xuất, phương tiện vận tải.
-Chi phí chuyển giao công nghệ.
-Chi phí đào tạo cán bộ.
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
10
Chuyên đề tốt nghiệp
-Các chi phí khác.
Tính toán vốn lưu động:
Vốn lưu động là số vốn tối thiểu cần thiết để đảm bảo cho việc dự trữ các tài sản
lưu động nhằm đáp ứng cho nhu cầu hoạt động của dự án. Chỉ có vốn lưu động ban đầu
mới được quyền tính vào vốn đầu tư gồm:
-Vốn sản xuất: Chi phí nguyên vật liệu, điện, nước, phụ tùng, bao, bì, tiền
lương…
-Vốn lưu thông: Sản phẩm dở dang, tồn kho, thành phẩm tồn kho, hàng hoá bán
chịu, vốn bằng tiền, chi phí tiếp thị…

Dự phòng vốn đầu tư:
Với nền kinh tế thị trường như hiện nay thì nhân tố giá cả nguyên vật liệu xây
dựng, giá thuê nhân công, máy thi công thường xuyên có sự biến động mạnh cùng với
những biến động trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, trong quá trình thi công công
trình có thể gặp phải những rủi ro về kỹ thuật hoặc nảy sinh các chi phí bất thường…
Chính vì vậy, cần phải dự trù một khoản dự phòng vốn đầu tư sẵn sàng ứng phó với
những bất trắc có thể xảy ra.
Khi thẩm định về tổng vốn đầu tư cho dự án, ngân hàng cần xem xét:
-Đối với vốn xây lắp: Khi tính toán thường được ước tính trên cơ sở khối lượng xây
dựng phải thực hiện và đơn giá xây lắp tổng hợp. Khi kiểm tra cần lưu ý:
*Kiểm tra những công việc có tính chất trùng lắp.
*Những khối lượng công việc không nằm trong thành phần chi phí xây lắp.
*Kiểm tra sự đúng đắn và tính hiện hành của các định mức, đơn giá sử dụng
trong dự án.
-Đối với vốn thiết bị: Đây là loại vốn chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong các công
trình sản xuất công nghiệp. Thông thường phải chiếm tới 60-70% tổng mức vốn đầu tư.
*Kiểm tra lại danh mục thiết bị, số lượng, chủng loại, công suất và các chỉ tiêu kỹ
thuật đảm bảo đúng nội dung đầu tư cho thiết bị đã được tính toán trong phần kỹ thuật.
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
11
Chuyên đề tốt nghiệp
*Kiểm tra lại giá mua, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản. Tuỳ theo từng loại
thiết bị mà giá mua có thể sử dụng là giá thị trường hay giá do nhà nước quy định.
Riêng đối với Ngân hàng, việc xác định tiến độ bỏ vốn cho dự án giúp cho
quá trình điều hành vốn của Ngân hàng được thuận lợi trong khâu lập kế hoạch
nguồn vốn và sử dụng vốn đồng thời còn giúp cho ngân hàng theo dõi tốt hơn các
hoạt động của chủ đầu tư, từ đó đánh giá mức độ hiệu quả của những đồng vốn bỏ
ra.
Xác định nguồn vốn và sự đảm bảo nguồn vốn tài trợ cho dự án.
Hiện nay, một dự án có thể hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau:

-Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp( bao gồm cả vốn do các bên tham gia đóng góp).
-Nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước.
-Nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
-Nguồn vốn vay hoặc liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài.
-Nguồn vốn huy động trực tiếp thông qua con đường phát hành trái phiếu…
Thẩm định về doanh thu, chi phí và lợi nhuận hàng năm của dự án.
NHTM là nhà tài trợ cho vốn cho dự án đặc biệt quan tâm đến vấn đề về doanh
thu, chi phí và lợi nhuận, trên cơ sở có đầu tư vào dự án hay không. Chính vì vậy, thẩm
định về chi phí sản xuất, doanh thu và lợi nhuận hàng năm của dự án là việc làm không
thể thiếu trong thẩm định tài chính của dự án.
Trên cơ sở doanh thu và chi phí hàng năm sẽ tính được lợi nhuận ròng hàng năm
của dự án. Lợi nhuận ròng được tính theo công thức sau
Thu nhập Doanh Chi phí Thu nhập
chịu thuế = thu trong - hợp lý + khác trong
trong kỳ kỳ trong kỳ kỳ
Kỳ tính thuế ở đây là năm dương lịch hoặc năm tài chính.
Thuế thu nhập = Thu nhập chịu thuế trong kỳ ×thuế suất thuế thu nhập DN
Lợi nhuận ròng = Thu nhập chịu thuế - thuế thu nhập
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
12
Chuyên đề tốt nghiệp
Thẩm định tính chính xác, hợp lý, hợp lệ của bảng dự trù tài chính. Cơ sở để xem xét là
dựa trên nội dung của luận chứng tài chính kinh tế kỹ thuật, dựa trên các chỉ tiêu, định mức kinh
tế kỹ thuật của ngành đó do Nhà nước ban hành hoặc các cơ quan chức năng công bố và dựa
trên các kết quả thẩm định các mặt thị trường, kỹ thuật – công nghệ, tổ chức để Ngân hàng thẩm
định tính chính xác, hợp lỹ của bảng dự trù tài chính.
-Xem xét tính toán các bảng tài chính.
-Bảng dự trù chi phí sản xuất hàng năm.
-Bảng dự trù doanh thu, lãi lỗ.
-Bảng dự trù cân đôi.

-Bảng dự trù cân đối thu chi.
Sau khi thẩm định các khoản thu nhập và chi phí hàng năm của dự án, Ngân hàng
phải xác định dòng tiền ròng hàng năm của dự án (NCF
i
).
Phân tích tài chính và thẩm định các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án.
Thẩm định các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án đầu tư thường được dựa trên các
tiêu chuẩn cụ thể của việc phân tích TCDA. Hiệu quả tài chính cũng như các chỉ tiêu
hiệu quả khác, bản chất của nó không chỉ được thể hiện trên một mặt nào đó mà trên
nhiều khía cạnh khác nhau, do vậy hệ thống chỉ tiêu thẩm định TCDA phải có mối liên
hệ với nhau để phản ánh hiệu quả dự án đầu tư một cách hoàn thiện, chính xác. Hệ thống
chỉ tiêu thẩm định TCDA có thể chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất là nhóm phản ánh
khả năng sinh lời, nhóm kia phản ánh độ rủi ro của dự án. Còn trên góc độ nhà thẩm
định là NHTM thì còn có thêm nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoàn vốn của dự án.
Những chỉ tiêu thẩm định TCDA đầu tư điển hình:
Chỉ tiêu đầu tiên phải nói đến là giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR),
phương pháp chỉ số doanh lợi (PI), tỷ số lợi ích trên chi phí (B/C), thời gian hoàn vốn (PP),
điểm hoà vốn (BP), độ nhạy của dự án, lợi nhuận kế toán bình quân (AAP).
Gía trị hiện tại ròng (NPV: Net Present Value ).
Khái niệm:
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
13
Chuyên đề tốt nghiệp
Gía trị hiện tại ròng là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền thu
được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư bỏ ra được hiện tại hoá ở mốc 0,
NPV có thể mang giá trị dương, âm hoặc bằng không. Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất
trong thẩm định TCDA.
Ý nghĩa:
NPV phản ánh gía trị tăng thêm cho chủ đầu tư. NPV mang giá trị dương nghĩa là
việc thực hiện dự án sẽ tạo ra giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư, hay nói cách khác, dự án

không những bù đắp đủ vốn đầu tư bỏ ra, mà còn tạo ra lợi nhuận, không những thế, lợi
nhuận này còn được xem xét trên cơ sở giá trị thời gian của tiền. Ngược lại, nếu NPV
âm có nghĩa là dự án không đủ bù đắp vốn đầu tư, đem lại thua lỗ cho chủ đầu tư.
Tuy nhiên, NPV chỉ mang ý nghĩa về tài chính. Việc tín toán NPV cho các dự án
xã hội, môi trường phức tạp hơn nhiều, phải lượng hoá được các tác động xã hội hay
môi trường lên dòng tiền của dự án. Khi đó, NPV mới phản ánh lợi ích tăng thêm từ việc
thực hiện dự án xã hội đó.
Cách xác định.
( )
0
1
1
CF
k
CF
NPV
n
t
t
t

+
=

=
Trong đó:
CF
0
: Vồn đầu tư bỏ ra ban đầu, giả định vốn đầu tư được bỏ ra một lần, vào đầu năm thứ
nhất của dự án.

CF
t
: Dòng tiền xuất hiện tại năm thứ t của dự án, t chạy từ 1 đến n.
n : Số năm thực hiện dự án.
k : Lãi suất chiết khấu, giả định là không đổi trong các năm.
Tiêu chuẩn lựa chọn dự án.
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
14
Chuyên đề tốt nghiệp
Nếu chỉ có một dự án, thì lựa chọn dự án có NPV dương, có nghĩa là đầu tư vào
dự án sẽ tạo ra giá trị sinh lời cho nhà đầu tư, loại bỏ dự án có NPV mang giá trị âm.
Nếu như có nhiều dự án mang giá trị dương, nhưng doanh nghiệp chỉ có thể đầu tư vào 1
dự án, thì lựa chọn dự án nào cho NPV dương lớn nhất.
Tuy nhiên phương pháp này cũng bộc lộ những nhược điểm cơ bản sau:
-Một dự án có NPV dương, nhưng NPV quá nhỏ so với tổng vốn đầu tư hay so
với lợi nhuận trung bình của doanh nghiệp thì vẫn không được chấp nhận.
-Tiêu chuẩn NPV cũng tỏ ra bất lợi khi so sánh những dự án có vốn đầu tư khác
nhau hay thời gian khác nhau. Do vậy cần nghiên cứu thêm các tiêu chuẩn khác như IRR
(tỷ suất hoàn vốn nội bộ), PI (chỉ số doanh lợi).
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR: Internal Rate of Return).
Khái niệm: Tỷ suất hoàn vốn nội bộ đo lường tỷ lệ hoàn vốn đầu tư của một dự án. Về
mặt kỹ thuật tính toán, IRR của một dự án đầu tư là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó NPV = 0. Tức là
thu nhập ròng hiện tại đúng bằng giá trị hiện tại của vốn đầu tư.
( )

=
=−
+
=
n

t
t
t
CF
k
CF
NPV
1
0
0
1
Ý nghĩa:
IRR phản ánh tỷ suất hoàn vốn của dự án, dựa trên giả định các dòng tiền thu
được trong các năm được tái đầu tư với lãi suất bằng lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên trong
nền kinh tế thị trường việc giả định các dòng tiền tái đầu tư với lãi suất chiết khấu là
không thuyết phục, vì lãi suất chiết khấu sẽ thay đổi trong các năm, thể hiện chi phí cơ
hội của chủ đầu tư trong từng năm thay đổi.
Cách xác định:
21
1
1
)12(
NPVNPV
kkNPV
kIRR
+

+=
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
15

Chuyên đề tốt nghiệp
Phương pháp hay dùng để tính IRR là thử và điều chỉnh. Lần lượt thử các giá trị
của lãi suất chiết khấu làm cho NPV bằng không, chọn lãi suất chiết khấu nào cho giá trị
NPV gần 0 nhất thì đó chính là IRR.
Phương pháp nội suy cũng được sử dụng để tính IRR. Phương pháp này dựa trên
nguyên tắc tam giác đồng dạng. Người ta chọn hai giá trị của lãi suất chiết khấu sao cho
một giá trị cho NPV dương, một giá trị cho NPV âm. IRR chính là giá trị nằm giữa 2 giá
trị vừa chọn, làm cho NPV bằng không.
NPV
NPV
1

NPV
2
k
1
k
2
k
Để tăng tính chính xác của IRR, thường hai giá trị lãi suất chiết khấu được chọn
không quá 5%.
Tiêu chuẩn lựa chọn dự án.
Trường hợp có một dự án duy nhất, chọn dự án khi IRR lớn hơn lãi suất chiết
khấu.
Nếu có nhiều dự án chọn một thì dự án cho giá trị IRR dương lớn nhất và lớn hơn
lãi suất chiết khấu sẽ được lựa chọn.
Nhược điểm: có một số trường hợp, dự án sẽ có nhiều giá trị IRR, nghĩa là có
nhiều lãi suất chiết khấu làm cho NPV bằng không. Đó là trường hợp đặc biệt với IRR
đa trị, thường gặp ở những dự án có dòng tiền đổi dấu; khi đó, người ta phải điều chỉnh
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q

16
Chuyên đề tốt nghiệp
để chuyển IRR từ đa trị thành đơn trị. Trường hợp này sẽ được trình bày cụ thể ở phần
sau.
Ưu điểm: IRR khắc phục được nhược điểm của NPV ở chỗ nó có thể so sánh
được các dự án có thời gian khác nhau hay vốn đầu tư khác nhau, nó thể hiện tỷ suất
sinh lời bình quân hàng năm của dự án. Thông thường, hai tiêu chuẩn này sẽ cho kết
luận như nhau, nhưng có một số trường hợp hai tiêu chuẩn này lại cho kết quả trái ngược
nhau, vì dòng tiền của hai dự án đang xem xét là trái ngược nhau về độ lớn.
Chỉ số doanh lợi (PI: Profit Index ).
Khái niệm: Chỉ số doanh lợi là chỉ số phản ánh khả năng sinh lợi của dự án tính bằng
tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền trong tương lai chia cho vốn đầu tư bỏ ra ban đầu.
PI cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra sẽ tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập. Thu
nhập này chưa tính đến chi phí vốn đầu tư đã bỏ ra.
Cách xác định:
( )
0
1
1
CF
k
CF
PI
n
t
t
t

=
+

=
Tiêu chuẩn lựa chọn:
PI càng cao thì dự án càng dễ được chấp nhận, nhưng tối thiểu phải bằng lãi suất
chiết khấu. Nếu không, chi phí cơ hội đã bỏ qua khi thực hiện dự án không được bù đắp
bởi tỉ suất sinh lợi của dự án.
PI cũng khắc phục được nhược điểm của những dự án có thời gian khác nhau hay
vốn đầu tư khác nhau vì nó phản ánh khả năng sinh lời của 1 đồng vốn đầu tư của cả
vòng đời dự án. Tuy nhiên, vì là số dương đối nên nó không phản ánh được qui mô gia
tăng giá trị cho chủ đầu tư như NPV.
Thời gian hoàn vốn (PP: Payback Period).
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Khái niệm: Thời gian hoàn vốn đầu tư là thời gian để chủ đầu tư thu hồi được số vốn đã
đầu tư vào dự án.
Ý nghĩa:
PP phản ánh thời gian thu hồi vốn đầu tư vào dự án, nó cho biết sau bao lâu thì dự án thu
hồi đủ vốn đầu tư; do vậy, PP cho biêt khả năng tạo thu nhập của dự án từ khi thực hiện cho đến
khi thu hồi đủ vốn. Tuy nhiên, PP lại không xem xét đến khả năng tạo ra thu nhập sau khi đã thu
hồi vốn đầu tư. Gỉa sử một dự án có thời hạn 10 năm, PP bằng 5,5 năm, nghĩa là sau 5 năm rưỡi
thì đã thu hồi đủ vốn đầu tư, nhưng còn 4 năm rưỡi nữa dự án mới kết thúc, rõ ràng, khả năng
tạo ra thu nhập của dự án trong thời gian này không được phản ánh bởi chỉ tiêu PP.
Tuy nhiên, chỉ tiêu PP giúp cho người thẩm định có một cái nhìn tương đối chính
xác về mức độ rủi ro của dự án. Chỉ tiêu này được các nhà tài trợ ưa thích vì thời gian
thu hồi vốn đầu tư càng dài thì nhà tài trợ càng phải đương đầu với rủi ro trong việc thu
hồi vồn. Chủ đầu tư cũng ưa thích dự án có thời gian hoàn vốn ngắn vì khả năng quay
vòng vốn nhanh, rủi ro thấp.
cách xác định:
PP = n +
Số vốn đầu tư còn lại cần được thu hồi

Dòng tiền ngay sau môc hoàn vốn
Trong đó, n: năm ngay trước năm thu hồi đủ vốn đầu tư.
Tiêu chuẩn lựa chọn dự án:
Khó có thể đưa ra một tiêu chuẩn chung nhât cho việc lựa chọn dự án theo PP. Vì
mỗi dự án có mức độ rủi ro khác nhau, thời gian thu hồi vốn khác nhau, do vậy, nếu đưa
ra một thời hạn là 3 năm hay 5 năm cho một dự án trung, dài hạn đủ để hoàn vốn thì
không phản ánh được liệu dự án có tạo ra lợi nhuận cho chủ đầu tư hay không. Do vây,
thông thường PP chỉ được sử dụng như một chi tiêu bổ sung cho các chỉ tiêu khác, hay
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
18
Chuyên đề tốt nghiệp
để so sánh các dự án với nhau. Tuy nhiên, để so sánh được nhiều dự án thì chỉ tiêu PP
đòi hỏi các dự án phải có thời hạn như nhau, vốn đầu tư như nhau, mức độ rủi ro như
nhau.
Do đó chỉ tiêu PP mặc dù vẫn có ý nghĩa khi thẩm định dự án nhưng nó phải
được sử dụng kết hợp với các chỉ tiêu khác chư khó có thể sử dụng một cách độc lập để
đưa ra quyết định đầu tư.
Ví dụ:
0 1 2 3 ……………………….. n


-200 100 70 80 ………………………..
Một dự án có thời hạn 5 năm, các dòng tiền ròng đã được hiện tại hoá với lãi suất
chiết khấu 8%/năm trong 3 năm đầu lần lượt là 100,70,80. Hỏi sau bao lâu thì dự án thu
hồi đủ vốn đầu tư biết vốn đầu tư bỏ ra tại thời điểm đầu năm thứ nhất là 200?
Giải:
Các dòng tiền đã được hiện tại hoá, sử dụng công thức trên ta tính được.
37,2
80
30

2
=+=
PP

năm
Ở đây dự án không quan tâm đến khả năng tạo thu nhập kế từ năm thứ 2,37 trở
đi. Một số người hay dùng chỉ tiêu PP, nhưng sử dụng dòng tiền chưa hiện tại hoá
(không tính đến giá trị thời gian của tiền), do đó phản ánh không chính xác khả năng thu
hồi vốn đầu tư của dự án.
Phương pháp tỷ số lợi ích trên chi phí (B/C – Benefit/Cost).
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
19
Chuyên đề tốt nghiệp
Phản ánh khả năng sinh lời của dự án trên mỗi đơn vị tiền tệ vốn đầu tư (quy về
thời điểm hiện tại).
( )
( )


=

=

+
+
=
n
t
t
t

n
t
t
t
kC
kB
C
B
1
1
1
1
Trong đó: B
i:
Dòng tiền vào năm thứ t
C
i:
Dòng tiền ra năm thứ t
Nếu dự án có: B/C >1: thu nhập trội hơn chi phí.
B/C =0: thu nhập vừa đủ bù cho chi phí.
B/C <1: dự án bị lỗ.
Lựa chọn dự án theo nguyên tắc B/C >1. Nếu có nhiều dự án, lựa chọn dự án có
B/C cao hơn.
Phương pháp này có ưu điểm là cho biết lợi ích thu được trên một đồng bỏ ra, từ
đó giúp chủ đầu tư lựa chon, cân nhắc các phương án có hiệu quả. Nhưng đây là một chỉ
tiêu tương đối nên dễ đẫn đến sai lầm khi lựa chọn các dự án loại trừ nhau, vì thông
thường các dự án có B/C lớn thì có NPV nhỏ và ngược lại.
Phương pháp điểm hoà vốn (BP: Break even point Analysis).
Khái niệm: Điểm hoà vốn là mức sản lượng mà tại đó nhà đầu tư thu hồi đủ vốn đầu tư.
Ý nghĩa:

BP cho biết phải sản xuất và tiêu thụ bao nhiêu đơn vị sản phẩm thì thu hồi đủ
vốn. Tất nhiên, để tính được sản lượng hoà vốn thì phải căn cứ vào công suất thiết kế và
khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án.
Cách xác định:
Căn cứ vào chi phí cố định, chi phí biến đổi trên một đơn vị sản phẩm, người ta
xác định mức sản lượng hoà vốn như sau:
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
20
Chuyên đề tốt nghiệp
AVCP
FC
Q
hv

=
Trong đó:
Q
hv
: Sản lượng hoà vốn.
FC: Tổng chi phí cố định – là chi phí không thay đổi khi sản lượng sản xuất thay đổi.
AVC: Chi phí biến đổi tính trên một đơn vị sản phẩm, AVC thay đổi khi sản lượng sản
xuất thay đổi.
P: Gía bán.
Tiêu chuẩn lựa chọn dự án:
Nhược điểm: Khó có thể so sánh những dự án có thời gian khác nhau, vốn đầu tư khác
nhau bằng chi tiêu BP.
BP không tính đến giá trị thời gian của tiền đối với chi phí cố định, chi phí biến
đổi, nên sẽ không chính xác như các chỉ tiêu khác.
Ưu điểm: Giúp cho người thẩm định có một cái nhìn trực quan về khả năng hoà vốn của
dự án, chỉ cần tiêu thụ vượt quá mức sản lượng hoà vốn thì chủ đầu tư sẽ có lãi.

Như vậy, sản lượng hoà vốn của dự án trong các năm thấp hơn rất nhiều so với
sản lượng tiêu thụ dự kiến. Tuy nhiên, để có kết luận chính xác hơn, cần xem xét các khả
năng tiêu thụ sản phẩm với các tình huống xấu nhất và tốt nhất.
Phương pháp phân tích độ nhạy của dự án (Sensitivity Analysis).
Trong nền kinh tế thị trường, các nhân tố về đầu vào và đầu ra của dự án thường
xuyên có sự biến đổi. Mặt khác, hoạt động đầu tư là hoạt động sử dụng một khối lượng
vốn lớn trong một thời gian rất dài và nó chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố. Chính
vì vậy rủi ro đến với dự án là điều tất yếu, vấn đề là phải cố gắng dự đoán các rủi ro đó
và xem chúng có tác động như thế nào đến dự án để từ đó có những đối sách thích hợp
để hạn chế rủi ro. Để thẩm định rủi ro tài chính các dự án hiện nay có nhiều công cụ
khác nhau, phổ biến nhất là phân tích độ nhạy của dự án.
SV: Phạm Văn Thưởng Lớp: Tài Chính 46Q
21

×