Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm, SKKN Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 39 trang )

-1A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
Điều IV - Luật Giáo dục được Quốc Hội thông qua ngày 02/12/1998 đã
nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
tư duy, sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lịng say mê học tập
và ý chí vươn lên”. Chính vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
tích cực đã trở thành một yêu cầu bức thiết của sự nghiệp giáo dục hiện nay, đặc
biệt giáo dục đang chú ý đến dạy học theo hướng phát triển năng lực, riêng với
môn Văn là gắn với đặc trưng bộ môn.
Quan điểm giáo dục dựa trên sự phát triển, nhất là phát triển về khoa học và
cơng nghệ cho rằng “Dạy học là một q trình gồm tồn bộ các thao tác có tổ
chức và có định hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng
lực hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các
kỹ năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả
năng giải quyết được các vấn đề thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi
người học một cách sáng tạo và hiệu quả”.
Quan điểm này, ngoài nhiệm vụ tái hiện lại các giá trị mà nhân loại và
cộng đồng đạt được, nó cịn có nhiệm vụ giúp người người học phát triển năng
lực để giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống một các sáng tạo và hiệu
quả. Nó cho chúng ta thấy dạy học ln gắn liền với thực tiễn và đi cùng sự phát
triển của xã hội.
Chúng ta có thể thấy rằng: để đưa ra một khái niệm tổng quát và chính
xác nhất về dạy học không phải là một việc đơn giản. Vậy chúng ta có thể hiểu
khát quát như sau: “Dạy học là một q trình gồm tồn bộ các thao tác có tổ
chức và có định hướng giúp người học từng bước hình thành các năng lực cần
thiết nhằm giải quyết các vấn đề thực tế đặt ra trong cuộc sống của mỗi người
học một cách sáng tạo và hiệu quả“
Đối với môn Ngữ văn, dạy học phát triển năng lực cần gắn liền với đặc
trưng thể loại. Bởi thể loại là một trong những vấn đề cốt lõi của tác phẩm văn
học, khơng có tác phẩm nào lại khơng thuộc về một thể loại nhất định. Người


dạy học cần căn cứ vào đặc trưng thể loại từng văn bản để đưa ra những cách tổ
chức dạy học phát triển năng lực riêng. Phương pháp này được đánh giá là ưu
việt và có khả năng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh,
đồng thời, việc truyền thụ kiến thức cũng không bị áp đặt.

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-2Chương trình sách giáo khoa trước đây trình bày các văn bản văn học theo
tiến trình lịch sử, nặng về văn học sử, minh hoạ cho văn học sử. Cách trình bày
này hạn chế khả năng tự học của học sinh. Bởi, học sinh học văn bản nào thì biết
văn bản ấy mà khơng có mối liên hệ với các văn bản khác cùng thể loại.
Chương trình Ngữ văn hiện nay được biên soạn theo trục thể loại có kết
hợp với tiến trình phát triển của lịch sử văn học, giúp học sinh khơng chỉ nắm
được q trình phát triển của văn học mà còn hiểu sâu, hiểu rõ, hiểu kĩ về văn
bản, đi từ cụ thể đến khái quát. Học một văn bản thuộc thể loại này sẽ có kiến
thức cơng cụ để tìm hiểu các văn bản khác cùng thể loại. Việc đổi mới chương
trình theo nguyên tắc thể loại đặt ra một yêu cầu mới là phải có phương pháp,
cách thức giảng dạy và học tập phù hợp theo đặc trưng thể loại. Hay nói một
cách khác, đó là phương pháp dạy học tác phẩm theo đặc trưng thể loại.
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc với Kịch pháp Lưu Quang Vũ đã khẳng
định: “Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch lớn nhất thế kỷ này của Việt Nam, là một
nhà văn hóa”[1, tr. 264]. Trong chương trình Ngữ Văn phổ thông,
một số vở kịch của Lưu Quang Vũ đã được đưa vào chương trình
giảng dạy, tiêu biểu là trích đoạn trong Hồn Trương Ba, da
hàng thịt.
2. Cơ sở thực tiễn
Ngày nay, dạy học phát triển năng lực không còn là một khái niệm xa lạ
đối với hầu hết giáo viên. Tuy nhiên, khơng nhiều giáo viên có thể hiểu được

một cách chính xác về khái niệm, đặc điểm của cách dạy học này. Hơn thế, trong
nhiều nhà trường, việc dạy học vẫn rất cũ, chủ yếu chạy theo thành tích thi cử
nên chưa chú trọng phát triển năng lực mềm, kỹ năng sống, tích hợp việc khám
phá ra khả năng, góp phần hướng nghiệp cho học sinh. Vì vậy, chúng ta cần đổi
mới cách dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh, đáp ứng yêu cầu đòi
hỏi của xã hội.
Nghiên cứu các tác phẩm văn học dựa trên các đặc điểm loại thể đã có
lịch sử hàng nghìn năm từ thời cổ đại và được duy trì cho đến hơm nay với rất
nhiều thành tựu. Trong khi đó, giảng dạy các tác phẩm văn học theo đặc trưng
loại thể có lịch sử chưa lâu, xét trên cả thế giới cũng như ở Việt Nam vì các lí do
sau:
Thứ nhất, việc phân chia loại thể khơng thống nhất giữa các nhà nghiên
cứu với những người dạy học tác phẩm, giữa những nhà nghiên cứu với người
sáng tác, giữa người đọc với tác giả.

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-3Thứ hai, bản thân người dạy tác phẩm văn học trong nhà trường cũng
khơng ý thức được lí thuyết về thể loại là một công cụ, một phương tiện để dạy
tác phẩm văn học mà phần lớn chỉ hiểu rằng những lí thuyết về thể loại là tiêu
chuẩn để phân loại tác phẩm.
Sau nhiều năm dạy học tác phẩm trong nhà trường, hiệu quả của việc dạy
tác phẩm không như mong muốn thậm chí là hiệu quả ngày càng thấp đi, học
sinh khơng thích học văn, khơng thích đọc văn. Nghịch lí này có nhiều ngun
nhân, trong đó một ngun nhân quan trọng là sự đánh đồng giữa các loại hình
thể loại (tự sự, trữ tình, kịch được dạy theo cùng một kiểu). Để khắc phục
nghịch lí khi dạy học tác phẩm văn học trong nhà trường, ta cần phải tìm ra tất
cả các nguyên nhân và giải quyết lần lượt các nguyên nhân ấy trong đó trả tác

phẩm về đúng loại thể chỉ là một trong rất nhiều các giải pháp.
Trước khi đi vào đề tài, chúng tôi đã tiến hành khảo sát học sinh với các
câu hỏi như sau:
Câu hỏi 1
Em có nhu cầu gì đối với mơn học Ngữ văn nhằm đưa môn học
này trở nên thiết thực hơn với cuộc sống?
Câu hỏi 2
Em hiểu thể loại văn học là gì? Nêu những “loại” và “thể” cụ
thể?
Câu hỏi 3
Theo em, tại sao lại cần vận dụng kiến thức về thể loại văn học
vào việc tìm hiểu một văn bản văn học?
Kết quả trả lời của học sinh:
- Với câu hỏi 1: Nhiều học sinh bộc lộ rằng khơng tha thiết với mơn Ngữ văn
bởi vì nó dạy những thứ cao siêu, không thiết thực đối với cuộc sống. Các em
muốn môn học này thiết thực hơn, đặc biệt nhiều em đề đạt muốn mơn học này
góp phần định hướng cho mình phát hiện ở bản thân những năng khiếu về văn
học, nghệ thuật…, giúp các em có thể dùng Văn để phục vụ cuộc sống và định
hường nghề nghiệp (như nghề giáo, nghề báo chí,…)
- Với câu hỏi 2: Đa số học sinh nhớ lơ mơ về kiến thức thể loại văn học, không
định dạng rõ rệt ranh giới giữa “loại” và “thể”, chưa gọi tên chính xác “loại”,
“thể” cụ thể.
- Với câu hỏi 3: Học sinh chưa hiểu vai trị “chìa khóa” quan trọng của kiến thức
về thể loại trong việc vận dụng vào đọc hiểu văn bản. Đa số các em trả lời chung
chung, thiếu cụ thể.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ
văn ở trường trung học phổ thông, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Sử dụng
đặc trưng thể loại kịch trong tiết Đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”

(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-4(Trích) của Lưu Quang Vũ nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12".
Với đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ góp thêm một khía cạnh nhỏ vào vấn đề
đang được bàn luận, đóng góp thêm một hướng đổi mới, tiếp cận tác phẩm kịch
Hồn Trương Ba, da hàng thịt nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, tạo thêm
hứng thú cho các em trong mỗi giờ học Ngữ văn, giúp các em hiểu được các giá
trị của một tác phẩm văn học được đánh giá xuất sắc.
II. PHẠM VI, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi đặc trưng của Hồn Trương Ba, da hàng
thịt trong hệ thống thể loại kịch. Khảo sát qua một đoạn trích cùng tên trong
sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12, Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lí thuyết tiếp nhận, lí thuyết đọc hiểu, người viết chỉ ra đặc
trưng cơ bản của Hồn Trương Ba, da hàng thịt trong hệ thống kịch, từ đó, đặt
ra cách tiếp cận đoạn trích phù hợp, nhằm góp một phần nhỏ vào việc làm sáng
tỏ vấn đề tiếp nhận tác phẩm theo đặc trưng thể loại thông qua việc đọc - hiểu
theo hướng phát triển năng lực người học. Đồng thời, chúng tôi muốn góp phần
tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn học trong trường
trung học phổ thông.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp phân tích
2. Phương pháp khảo sát, tìm hiểu, phân loại
3. Phương pháp thống kê
4. Phương pháp so sánh hệ thống
5. Phương pháp thực nghiệm

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”

(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-5B. PHẦN NỘI DUNG
I. GIỚI THUYẾT CHUNG
1. Dạy học phát triển năng lực
1.1. Khái niệm dạy học phát triển năng lực
1.1.1. Các khái niệm năng lực
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: “Năng lực là đặc điểm của cá nhân,
thể hiện mức độ thơng thạo – tức là có thể thực hiện một cách thành thục và
chắc chắn một hay một số dạng hoạt động nào đó”.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo
cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng
cao”.
Theo quan điểm của những nhà tâm lý học: Năng lực là tổ hợp các
thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động
nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả tốt. Năng lực vừa là tiền đề, vừa
là kết quả của hoạt động. Năng lực vừa là điều kiện cho hoạt động đạt kết quả
nhưng đồng thời năng lực cũng phát triển ngay trong chính hoạt động ấy.

Như vậy, các năng lực hình thành trên cơ sở của các tư chất tự nhiên cá nhân.
Năng lực của con người khơng phải hồn tồn do tự nhiên mà phần lớn do công
tác, tập luyện mà có.

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-61.1.2. Dạy học phát triển năng lực
Dạy học phát triển năng lực là quá trình thiết kế, tổ chức và phối hợp giữa

hoạt động dạy và hoạt động học, tập trung vào kết quả đầu ra của quá trình này.
Trong đó nhấn mạnh người học cần đạt được các mức năng lực như thế nào sau
khi kết thúc một giai đoạn (hay một quá trình) dạy học.
1.2. Đặc điểm của dạy học phát triển năng lực
Đặc điểm quan trọng nhất của dạy học phát triển năng lực là xác định và
đo lường được “năng lực” đầu ra của học sinh. Dựa trên mức độ làm chủ kiến
thức, kỹ năng và thái độ của học sinh trong quá trình học tập.
Dưới đây là những đặc điểm nổi bật của dạy học theo định hướng phát
triển năng lực (Dựa trên “Tiêu chí đánh giá SGK theo định hướng phát triển
năng lực”):
- Đặc điểm về mục tiêu: Chú trọng hình thành phẩm chất và năng lực
thơng qua việc hình thành kiến thức, kỹ năng; mục tiêu dạy học được mô tả chi
tiết và có thể đo lường và đánh giá được. Dạy học để biết cách làm việc và giải
quyết vấn đề.
- Đặc điểm về nội dung dạy học: Nội dung được lựa chọn nhằm đạt được
các mục tiêu năng lực đầu ra. Chú trọng các kỹ năng thực hành, vận dụng vào
thực tiễn. Nội dung chương trình dạy học có tính mở tạo điều kiện để người dạy
và người học dễ cập nhật tri thức mới.
- Đặc điểm về phương pháp tổ chức:
+ Người dạy chủ yếu đóng vai trị là người tổ chức, cố vấn, hỗ trợ người
học chiếm lĩnh tri thức; chú trọng phát triển khả năng giải quyết vấn đề.
+ Đẩy mạnh tổ chức dưới dạng các hoạt động, người học chủ động tham
gia các hoạt động nhằm tìm tòi khám phá, tiếp nhận tri thức mới.
+ Giáo án được thiết kế có sự phân hóa theo trình độ và năng lực của
người học.
+ Người học có nhiều cơ hội được bày tỏ ý kiến, quan điểm và tham gia
phản biện.
- Đặc điểm về không gian dạy học: Không gian dạy học có tính linh hoạt,
tạo khơng khí cởi mở, thân thiện trong lớp học. Lớp học có thể trong phịng hoặc
ở ngồi trời, trong cơng viên, bảo tàng… nhằm dễ dàng tổ chức các hoạt động

nhóm.
- Đặc điểm về đánh giá: Tiêu chí đánh giá dựa vào kết quả “đầu ra”, quan
tâm tới sự tiến bộ của người học. Chú trọng khả năng vận dụng kiến thức đã học
vào thực tiễn. Ngoài ra, một đặc điểm quan trọng trong đánh giá là: người học

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-7được tham gia vào quá trình đánh giá, nâng cao năng lực phản biện - một phẩm
chất quan trọng của con người thời kỳ hiện đại.
- Đặc điểm về sản phẩm giáo dục:
+ Tri thức người học có được là khả năng áp dụng vào thực tiễn.
+ Phát huy khả năng tự tìm tịi, khám phá và ứng dụng nên người học
không bị phụ thuộc vào học liệu.
+ Người học trở thành những con người tự tin năng động và có năng lực.
2. Dạy học theo đặc trưng thể loại kịch
2.1. Thể loại kịch
2.1.1. Khái niệm thể loại kịch
Kịch là một môn nghệ thuật sân khấu, một trong ba phương thức phản ánh
hiện thực của văn học. Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là
“hành động”. Nó là sự kết hợp giữa hai yếu tố bi và hài kịch. Được coi là một
thể loại thơ ca, sự kịch tính được đối chiếu với các giai thoại sử thi và thơ ca từ
khi Thơ của Aristotle (năm 335 trước Công nguyên) – tác phẩm đầu tiên của
thuyết kịch tính ra đời. Mặc dù kịch bản văn học vẫn có thể đọc như các tác
phẩm văn học khác nhưng kịch chủ yếu để biểu diễn trên sân khấu. Điều đặc
biệt của bộ môn nghệ thuật này là phải hành động cuộc sống bằng các hành
động kịch, thông qua các xung đột tính cách xảy ra trong q trình xung đột xã
hội, được khái quát và trình bày trong một cốt truyện chặt chẽ với độ dài thời
gian không quá lớn.

Có nhiều cách phân loại kịch khác nhau. Dựa trên phương thức biểu diễn,
có thể phân ra các loại: ca kịch, vũ kịch, kịch nói, kịch câm... Dựa trên dung
lượng, ta có kịch ngắn, kịch dài... Cách phân loại phổ biến nhất là dựa trên đặc
điểm và nội dung của xung đột kịch. Theo cách phân loại này, ta có bi kịch, hài
kịch và chính kịch (kịch drame).
Bi kịch là một thể loại kịch mà xung đột chủ yếu nằm ở giữa “yêu sách tất
yếu về mặt lịch sử và tình trạng khơng tài nào thực hiện được điều đó trong thực
tế” (Enghel). Bi kịch đưa lên sân khấu những con người lương thiện, dũng cảm,
có những ham muốn mãnh liệt với những cuộc đấu tranh căng thẳng, khốc liệt
đối với cái ác, cái xấu nhưng do điều kiện lịch sử, họ phải chịu thất bại. Thất bại
của họ gợi lên ở khán giả “sự thương xót và sự sợ hãi để thanh lọc tình cảm”
(Aristote) hoặc “để ca ngợi, biểu dương ý chí ln ln vươn lên của con người
trước những sức mạnh mù quáng của các thế lực hắc ám” (Bielinxki).
Hài kịch là thể loại kịch nói chung được xây dựng trên những xung đột
giữa các thế lực xấu xa tìm cách che dậy mình bằng những lớp sơn hào nhoáng,

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-8giả tạo bên ngồi. Tính hài kịch tạo ra từ sự mất cân xứng, hài hòa của nhân vật.
Trong một số hài kịch, có những nhân vật tích cực thể hiện lí tưởng tiến bộ,
nhưng nhìn chung nhân vật hài kịch là những nhân vật tiêu cực có nhiều thói hư
tật xấu. Tiếng cười trong hài kịch có tác dụng giải thốt cho con người khỏi
những thói xấu, có tác dụng trau dồi phong hóa, giáo dục đạo đức và thẩm mĩ.
Chính kịch cịn gọi là kịch drame, đề cập đến mọi mặt của cuộc sống con
người, đó là con người tồn vẹn, khơng bị cắt xén hoặc chỉ tơ đậm ở nét bi hoặc
hài. Shakespeare là người đầu tiên đã thể hiện thành cơng cho loại kịch có sự
pha trộn giữa bi và hài này. Dần dần, chính kịch phát triển mạnh vì thích hợp
hơn với cuộc sống và con người hiện đại.

2.1.2. Đặc trưng thể loại kịch
2.1.2.1. Xung đột kịch
Xung đột là “sự đối lập, mâu thuẫn được dùng như một nguyên tắc để xây
dựng các mối quan hệ tương tác giữa các hình tượng của tác phẩm nghệ thuật
“[4, tr 358]. Với kịch, xung đột “là tính chất tập trung cao độ của những khối
mâu thuẫn lớn, là sự chi phối trực tiếp đến cấu trúc tác phẩm và nhịp độ vận
động dồn dập khác thường của cốt truyện” [3, tr 264]. “Các mâu thuẫn, xung
đột bao giờ cũng có tác dụng làm nhân vật bộc lộ các phần bản chất sâu kín
của nó” [11, tr 291]. Điều đó có nghĩa là một trong những yếu tố góp phần xây
dựng, khắc họa nên hình tượng nhân vật kịch chính là xung đột.
Xung đột có nhiều loại khác nhau: có xung đột được biểu hiện của sự đè
nén, giằng co, chống đối giữa các lực lượng, có xung đột được biểu hiện qua sự
đấu tranh nội tâm của một nhân vật, có xung đột là sự đấu trí căng thẳng và lí lẽ
để thuyết phục đối phương giữa hai lực lượng... Do tính chất sân khấu quy định,
cho nên, trong khi phản ánh hiện thực, tác giả kịch bản buộc phải bước vào
những mâu thuẫn trong cuộc sống đã phát triển đến chỗ xung đột, đòi hỏi phải
được giải quyết bằng cách này hay cách khác. Vì vậy, có thể nói, xung đột là đặc
điểm cơ bản của kịch. Hesgel cho rằng “tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu
tiên của nghệ thuật kịch”.
Xung đột kịch cần phải phản ánh những mâu thuẫn cơ bản của xã hội và
thời đại, nói cách khác là ln mang tính lịch sử cụ thể. Những thời đại khác
nhau có những xung đột khác nhau. Ở thời cổ đại, đó là sự xung đột giữa thế
giới quan thần linh, tư tưởng định mệnh với khát vọng làm chủ thiên nhiên , làm
chủ bản thân của con người. Xã hội nô lệ là xung đột giữa những người nô lệ
muốn đấu tranh giành lại tự do với bọn chủ nô. Xã hội phong kiến là xung đột
giữa một bên là uy quyền của vua chúa, quan lại với người dân bị áp bức và đòi

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "



-9được giải phóng. Trong thời kì hiện đại, các xung đột thường xoay quanh những
vấn đề cách mạng và phản ánh cách mạng, cái thiện, cái ác, cái mới, cái cũ, cái
tốt, cái xấu...
Nhiều nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về tính chất xung đột trong kịch Lưu
Quang Vũ đã thống nhất ở điểm: Ơng có biệt tài trong việc tạo ra tình huống
kịch, tình huống xung đột nhưng “lại biết có nhiều miếng trị hay trong nghệ
thuật dân tộc mà khơng hề có mâu thuẫn gì gay gắt” [2, tr 259]. Đặc điểm khác
biệt, dễ nhận thấy ở kịch ông là “tính chất không gay gắt của xung đột, ít xuất
hiện những xung đột đối kháng giai cấp gay gắt. Phần lớn những xung đột về
cách sống, quan niệm sống, xung đột diễn ra trong tâm lí nội bộ và sinh hoạt
cộng đồng”[2, tr 297]. Xung đột trong kịch Lưu Quang Vũ nói chung và trong
kịch về đề tài đổi mới của ơng nói riêng chủ yếu tập trung ở hai loại: Xung đột
mang màu sắc trữ tình giàu cảm xúc, suy nghĩ nội tâm và xung đột về mặt tính
cách phù hợp với chất trữ tình và tính triết lý vẫn thường gặp trong kịch của ông
“cho nên việc giải quyết xung đột trong kịch của anh không cần phải viện đến
bạo lực cách mang, đến tổn thất vật chất to lớn mà thường dựa trên sự tự ý thức
của mỗi nhân vật”[2, 297]. Đặt nhân vật vào các tình huống xung đột kịch tính
mà chủ yếu là xung đột nội tâm, xung đột tính cách, các vấn đề thuộc phạm trù
đạo đức nhân cách, Lưu Quang Vũ đã rất thành công để nhân vật được thử
thách, hành động và tự bộc lộ tính cách.
2.1.2.2. Nhân vật kịch
Điểm khác nhau cơ bản giữa tác phẩm kịch với tác phẩm tự sự và kí là kịch
khơng có nhân vật người kể chuyện. Maxim Gorki cho rằng :”Kịch, bi kịch, hài
kịch là thể loại khó nhất trong văn học, khó là vì một vở kịch địi hỏi mỗi nhân
vật trong vở kịch phải thể hiện tính cách bằng lời nói và hành động khơng có lời
mách bảo, gợi ý của tác giả. Các nhân vật kịch được hình thành là do lời lẽ của
họ và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ ấy mà thôi nghĩa là tác giả xây dựng nhân
vật bằng ngôn ngữ hội thoại chứ không phải bằng ngôn ngữ miêu tả”. Nếu nhân
vật trong tác phẩm tự sự được miêu tả một cách tỉ mỉ, mang nhiều màu sắc thẩm

mĩ. Nhân vật trong tác phẩm trữ tình thiên về khám phá cảm xúc, tình cảm thì
nhân vật kịch cũng có nét khu biệt đặc thù. Với mục đích viết để diễn trên sân
khấu, kịch bản văn học chịu sự chi phối của không gian, thời gian do đó nhân
vật cũng phải có đặc điểm phù hợp với thể loại, cụ thể như sau:
Đặc điểm thứ nhất: nhân vật kịch xuất hiện vào lúc dòng chảy của cuộc đời
đang cao trào, sơi động nhất. Đó chính là lúc dịng chảy của cuộc đời khơng n

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-10ả mà đã có những dịng xốy bắt đầu dữ dội. Trong hồn cảnh ấy, các nhân vật
mới có cơ hội tự bộc lộ mình rõ ràng và chính xác nhất.
Đặc điểm thứ hai của nhân vật trong tác phẩm kịch là: số phận của nhân vật
kịch có sự biến đổi dễ dàng, nhanh chóng; có tính quy phạm về không gian, thời
gian buộc nghệ sĩ phải thể hiện được tất cả mâu thuẫn, xung đột và việc giải
quyết những mâu thuẫn, xung đột trong thời gian nhất định. Cho nên mỗi lần
mâu thuẫn, xung đột được giải quyết là một lần số phận nhân vật thay đổi.
Nhân vật kịch rất nổi bật về tính cách và thường chia thành tuyến rõ rệt. Do
đặc điểm cốt lõi của kịch là những mâu thuẫn, xung đột nên nhân vật kịch
thường được khắc họa tính cách rất nổi bật. Timopheep từng giải thích: “Hình
tượng kịch phản ánh những mâu thuẫn cuộc sống đã chín muồi gay gắt nhất và
đã được xác định”[11,tr 254]. Từ sự nổi bật về tính cách như thế, các nhân vật
dễ đứng thành các tuyến riêng, mỗi tuyến nhân vật có đặc điểm chung nào đó
cùng đối lập, mâu thuẫn với tuyến khác.
2.1.2.3. Hành động kịch
Theo Arixtôt “Hành động là đặc trưng của kịch”. Nếu xung đột được coi là
điều kiện cần thiết làm nảy sinh tác phẩm, thì hành động lại là yếu tố duy trì sự
vận hành của tác phẩm. Hành động là những hoạt động bao gồm cả ngôn ngữ,
cử chỉ, thái độ, quan hệ... của con người trong cuộc sống xung quanh. Trong

kịch, hành động được thể hiện qua suy nghĩ của nhân vật, qua hành vi, động tác,
ngôn ngữ của họ. Trong mối giao lưu đó, xung đột là nơi quy tụ, chọn lọc và tổ
chức hành động kịch. Hành động kịch thường phát triển theo hướng thuận chiều
với xung đột kịch. Nó không phải là những hành động đơn lẻ, ngắt quãng mà là
một chuỗi hành động liên tục xoay quanh trục xung đột.
Các nhà nghiên cứu tạm phân chia hành động kịch thành hai dạng
chính: hành động bên trong và hành động bên ngoài. Hành động bên trong là
những diễn biến tâm lý, những suy nghĩ, tâm trạng… hay nói tóm lại nó bao
hàm những yếu tố hợp thành đời sống nội tâm đầy biến động của nhân vật kịch.
Hành động bên ngoài là những điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười… tức là tất cả
những động tác hình thể của nhân vật (diễn viên). Hành động bên ngoài là sự
biểu hiện của hành động bên trong hay nói cách khác hành động bên trong có
thể xem là ngọn nguồn, là nguyên cớ tạo nên và chi phối hành động bên ngồi.
Cả hai dạng hành động đó có tác dụng khắc họa một cách cụ thể, chân thực và
sinh động đời sống nội tâm, tính cách của nhân vật thơng qua các cách ứng xử
với cuộc sống. Do kịch là sự tập trung cuộc sống ở dạng tinh chất nhất nên khác
với tiểu thuyết, truyện ngắn, nhân vật xuất hiện là nhập ngay vào tuyến xung đột

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-11và bị cuốn nhanh vào guồng hành động của tác phẩm. Mọi tình huống trong tác
phẩm kịch đều góp phần đắc lực vào việc thúc đẩy nhân vật hành động và được
chọn lọc phù hợp với hướng khai thác nhằm vào những nét nổi bật, tiêu biểu của
tính cách nhân vật kịch. Điều này đã mang đến cho nhân vật kịch những đường
nét, màu sắc nổi bật hơn và dễ xác định hơn về mặt bản chất.
2.1.2.4. Ngôn ngữ kịch
“Nguyên tắc xây dựng ngôn từ nghệ thuật của một kịch bản văn học là tất
cả mọi vấn đề xoay quanh hình tượng đều nằm trong ngơn ngữ nhân vật. Ngơn

ngữ nhân vật là hình thái tồn tại duy nhất của ngơn ngữ kịch” [3, tr 273]. Có
nghĩa là khi viết lên kịch bản, những gì tác giả muốn nói được nhân vật nói hộ
mà họ khơng có quyền can thiệp nói như M.Gorki “các nhân vật kịch hình
thành là do những lời lẽ của họ và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ ấy mà thôi!
Nghĩa là tác giả xây dựng nhân vật bằng ngôn ngữ hội thoại chứ không phải
ngơn ngữ miêu tả”.
Kịch khơng có nhân vật người kể chuyện nên khơng có ngơn ngữ người
kể chuyện. Vở kịch được diễn trên sân khấu chỉ có ngơn ngữ nhân vật. Ta có thể
nói đến ba dạng ngơn ngữ nhân vật trong kịch: đối thoại, độc thoại và bàng thoại.
Đối thoại là nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa các nhân vật. Đây là
dạng ngôn ngữ chủ yếu trong kịch. Đây là biện pháp quan trọng nhất nhằm biểu
hiện nội tâm nhân vật nhưng không phải biện pháp duy nhất. Để biểu hiện nội
tâm bên cạnh độc thoại, người ta có thể thay thế bằng những phút yên lặng,
những tiếng vọng, tiếng đế...
Bàng thoại là nói với khán giả. Có khi đang đối đáp với một nhân vật
khác, bỗng dưng nhân vật tiến gần đến và hướng về khán giả nói vài câu để phân
trần, giải thích một cảnh ngộ, một tâm trạng cần được chia sẻ, một điều bí mật:
loại này chiếm tỉ lệ thấp trong ngơn ngữ kịch.
Các dạng ngơn ngữ của kịch địi hỏi phải mang tính khẩu ngữ, động tác
hóa và tính cách hóa. Trước hết, đó là những lời đối thoại thơng thường trong
cuộc sống, phải có tác dụng khắc họa tính cách, nghề nghiệp, tuổi tác, trình độ
văn hóa... của nhân vật. Nó mang sắc thái riêng của từng tính cách, do từ miệng
nhân vật nói ra, chứ khơng phải do tác giả. Ngơn ngữ trong kịch địi hỏi phải gắn
liền mật thiết với động tác, điều này giúp người xem hiểu được những suy nghĩ,
tâm tư nhân vật.
Một nét đặc sắc nổi bật của kịch Lưu Quang Vũ là ngôn ngữ nhân vật
thường không chỉ tự nhiên, gọn sáng mà cịn nhiều sức gợi nghĩ, nó “tự nhiên,
hồn nhiên mà vẫn nhiều lớp lang ý tứ”. Ngôn ngữ xuất hiện trong kịch đổi mới

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”

(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-12của Lưu Quang Vũ chủ yếu là ngôn ngữ độc thoại và ngôn ngữ đối thoại. Mỗi
loại ngôn ngữ đều phát huy tác dụng của mình trong việc khắc họa bức chân
dung hoàn chỉnh về nhân vật. Với thế giới nhân vật phong phú, đa dạng, ngôn
ngữ nhân vật trong kịch đổi mới của Lưu Quang Vũ là thứ ngôn ngữ đa giọng
điệu vừa gần gũi đời thường, hài hước, dí dỏm lại vừa triết lý sâu sắc,vừa mang
tính chính luận lại vừa giàu chất trữ tình. Thơng qua ngơn ngữ nhân vật, những
đặc điểm thuộc về tính cách, nhân cách của nhân vật được bộc lộ một cách sinh động.
2.2. Dạy học kịch theo đặc trưng thể loại
“Từ điển thuật ngữ văn học” đưa ra khái niệm thể loại như sau: thể loại là
“dạng thức của tác phẩm văn học được hình thành và tồn tại tương đối ổn định
trong quá trình phát triển lịch sử của văn học, thể hiện sự giống nhau về cách
thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu
tả về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống ấy” [8, 299].
Như vậy thực chất thể loại chính là cách nói gộp của hai khái niệm loại và
thể. Loại là khái niệm rộng hơn thể, thể nằm trong loại. Tác phẩm nào cũng có
một “loại” nhất định và có một hình thức “thể” nào đó.
Dạy học kịch theo đặc trưng thể loại đòi hỏi người giáo viên phải hướng
dẫn học sinh nắm được các đặc trưng cốt lõi của thể loại kịch, soi nó vào trong
văn bản cụ thể. Từ đó, các em sẽ hiểu một cách vừa cụ thể, vừa sâu sắc về thể
loại này để định hình cho cách đọc hiểu khi gặp văn bản kịch. Học một văn bản
thuộc thể loại này, các em sẽ có kiến thức cơng cụ, “chìa khóa”, để tìm hiểu các
văn bản khác cùng thể loại.
Khác với việc dạy học tác phẩm tự sự hay trữ tình, dạy học kịch theo đặc
trưng thể loại đòi hỏi người giáo viên phải hướng dẫn học sinh đưa kịch trở về
trạng thái tồn tại nguyên bản của nó: biểu diễn. Cách dạy này vừa giúp học sinh
dễ hình dung ra đặc trưng thể loại kịch, vừa tạo hứng thú trong việc tiếp nhận.
Tuy nhiên, giáo viên cũng cần định lượng việc diễn kịch để vừa cho học sinh

nhận diện ra đặc trưng thể loại nhưng vẫn đảm bảo đặc trưng giờ dạy học Văn.
II. SỬ DỤNG ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI KỊCH TRONG TIẾT ĐỌC VĂN
“HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT” (TRÍCH) CỦA LƯU QUANG VŨ
NHẰM PHÁT HUY NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH LỚP 12.
Khi thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi hướng đến những điểm
mới chủ yếu sau:
1. Tổ chức dạy học hướng đến phát triển năng lực người học
- Nội dung bài học: Nội dung được lựa chọn nhằm đạt được các mục tiêu
năng lực đầu ra. Trong Thiết kế bài học “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, mỗi

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-13phần nội dung đưa vào đã được chú trọng các kỹ năng thực hành, vận dụng vào
thực tiễn. Ví dụ: Ở phần Khởi động, thay vì cho học sinh trả lời lý thuyết theo
cách học thuộc lịng (rất khơ cứng theo kiểu “học vẹt”), chúng tôi cho học sinh
xem một đoạn kịch ngắn – thuộc phân cảnh đầu tiên của vở kịch “Hồn Trương
Ba, da hàng thịt”. Cách này sẽ tạo tâm thế dễ chịu, tạo hứng thú giúp học sinh có
nền tảng để vận dụng vào tiếp thu bài mới…
- Phương pháp tổ chức: Thiết kế bài học, thông qua nhiệm vụ học tập, góp
phần phát triển năng lực học sinh, giúp mơn Văn khơng cịn đơn thuần là kiến
thức về lý thuyết mà mang tính thực hành, phát triển năng lực ở người học, định
hướng nghề nghiệp cho học sinh trong tương lai. Để làm điều đó, thiết kế bài
giảng Hồn Trương Ba, da hàng thịt đã giao nhiệm vụ cho học sinh như sau:
Ở phần tìm hiểu chung (Tiểu dẫn), thay vì cho học sinh đọc sách giáo
khoa và nêu kiến thức lý thuyết như thường thấy ở những cách dạy thông
thường, chúng tôi giao nhiệm vụ cho nhóm học sinh tự tìm hiểu những thơng tin
về tác giả, tác phẩm sau đó các em sẽ chủ động trình bày trước lớp. Qua đó sẽ
hình thành năng lực làm việc chủ động cho học sinh, phát triển năng lực nói,

trình bày trước đám đơng... (Tích hợp với bài học “Trình bày một vấn đề” –
chương trình Ngữ văn lớp 11).
- Về đánh giá: Kế hoạch bài giảng chú trọng khả năng vận dụng kiến thức
đã học vào thực tiễn, nâng cao năng lực của người học. Ví dụ: với thủ pháp
“công đoạn”, người học tự đánh giá và bổ sung những thiếu sót trong bài của
bạn, từ đó tự hồn thiện kiến thức bài học…

(Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt được xây dựng dựa trên
cốt truyện dân gian)

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-142. Từ việc đọc hiểu văn bản, học sinh định hình “chìa khóa” đọc – hiểu thể
loại kịch.
Theo “Từ điển Tiếng Việt” (2008), thể loại là “hình thức sáng tác văn
học, nghệ thuật được phân chia theo phương thức phản ánh hiện thực, sự vận
dụng ngôn ngữ, phong cách thể hiện...”
Tiếp nhận văn học là giai đoạn cuối cùng để hồn thành q trình sáng tác
một tác phẩm văn học: nhà văn – tác phẩm – bạn đọc. Hoạt động tiếp nhận thực
chất là quá trình biến tác phẩm của nhà văn thành tác phẩm của bạn đọc. Nói
khác đi, nó là cách chuyển từ bên ngồi vào bên trong.
Q trình dạy học thực chất là hướng dẫn học sinh đọc tác phẩm. Vì thế,
ta khơng thể khơng quan tâm đến vấn đề thể loại. Tiếp cận theo đặc trưng thể
loại không phải là công cụ vạn năng nhưng là công cụ quan trọng để chiếm lĩnh
văn bản văn học. Hoạt động tiếp nhận diễn ra ở mỗi tác phẩm thuộc mỗi thể loại
là khác nhau. Thể loại là khái niệm thuộc về lý luận văn học chỉ quy luật loại
hình của tác phẩm. Cịn hoạt động tiếp nhận văn học bị chi phối bởi cách thức và
phương pháp dạy học. Trong thực tế, hoạt động dạy học và tiếp nhận văn học

nói chung có mối quan hệ biện chứng với nhau. Vấn đề thể loại có ảnh hưởng
mạnh mẽ và tác động trực tiếp đến dạy và học các tác phẩm trong trường trung
học phổ thông.
Đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại, học sinh sẽ huy động kiến thức
sẵn có về thể loại văn học (Kiến thức này các em đã được cung cấp trong
chương trình lớp 11, bài “Một số thể loại văn học: Thơ, truyện” và “Một số thể
loại văn học: Kịch, nghị luận”) để đi sâu vào tìm hiểu một đoạn văn bản theo
thể loại. Từ đó, học sinh soi sáng kiến thức lý thuyết, hình thành cách đọc một
văn bản bất kỳ theo cách “chìa khóa”.
Ví dụ, đọc hiểu văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (trích tác phẩm
cùng tên – Lưu Quang Vũ):
- Ngay trong phần Khởi động, học sinh được gợi nhớ lại kiến thức cơ bản nhất
về thể loại qua trị chơi ghép ơ chữ:
LOẠI
THỂ
TỰ SỰ
TRỮ TÌNH
KỊCH
NGHỊ LUẬN

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-15Sau khi chơi xong trò chơi này, học sinh sẽ có kiến thức “nền” để bước vào bài
học.
- Sau đó trong q trình dạy học, chúng tơi thiết kế hoạch bài giảng theo những
đặc trưng tiêu biểu nhất của thể kịch: xung đột kịch hiện lên qua từng đoạn của
đoạn trích: đối thoại giữa hồn – xác, Trương Ba – người thân, Trương Ba – Đế
Thích. Ở mỗi màn xung đột, nhân vật kịch được khai thác các nét tính cách qua

ngôn ngữ, hành động kịch…
- Ở phần Tổng kết, hoạt động của nhóm 4 xoay quanh những đặc trưng nội
dung, nghệ thuật của kịch, thông qua các câu hỏi:
+ Chỉ ra những đặc trưng nghệ thuật của thể loại kịch được sử dụng thành cơng
trong đoạn trích?
+ Kịch của Lưu Quang Vũ là sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa tính thời sự và
những vấn đề mn thuở của cuộc sống. Vậy đâu là tính thời sự, ý nghĩa phê
phán của vở kịch? Đâu là những thông điệp muôn thuở Lưu Quang Vũ hi vọng
được gửi trao, dâng hiến tới cuộc đời?
- Đến phần Luyện tập, qua bài tập thực hành chúng tôi “cài” câu hỏi để học sinh
nhuần nhuyễn hơn nữa về cách đọc hiểu kịch qua câu hỏi 1: “Đoạn trích trên
được trích từ tác phẩm nào? Thuộc thể loại nào? Giới thiệu vài nét về thể loại
đó?”. Khi giải quyết câu hỏi này, học sinh sẽ được cung cấp kiến thức về thể loại
kịch biểu hiện cụ thể trong văn bản cụ thể.
Qua việc giải quyết yêu cầu đặt ra của giáo viên, học sinh được trở đi trở lại
vấn đề đặc trưng thể loại kịch, từ cấp độ biểu hiện cụ thể (ngôn ngữ, hành động,
xung đột… từng nhân vật) đến khái quát (giá trị nội dung tư tưởng, nghệ thuật
kịch). Từ đó, các em sẽ nhận diện và hình thành lối tư duy khi tiếp cận thể loại
này.
3. Tích cực hóa đối tượng tiếp nhận, sân khấu hóa việc đọc hiểu văn
bản kịch.
Theo “Từ điển Tiếng Việt” (2008) thì đọc là “tiếp nhận nội dung của một
tập kí hiệu bằng cách nhìn vào các kí hiệu”. Trong tiếp nhận tác phẩm văn
chương, đọc là khâu đầu tiên, là hoạt động tiền đề.
GS.TS Trần Đình Sử trong tạp chí “Văn học và tuổi trẻ” (tháng 11/ 2007)
đưa ra khái niệm như sau: “Đọc là tổng hòa của nhiều quá trình, nhiều hành vi
nhằm đạt được mục đích và nắm bắt ý nghĩa của văn bản. Đọc bằng mắt, bằng
miệng (phát âm), đọc nhận biết, tưởng tượng, liên hệ, ghi chép, ghi nhớ, tra
cứu, phân tích, so sánh, trao đổi”. Muốn đọc hiểu văn bản hiệu quả, việc dạy
học buộc phải tích cực hóa đối tượng tiếp nhận. Các phương pháp, kỹ thuật


“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-16nhằm tích cực hóa đối tượng người học giúp việc dạy học hướng tới phát triển
năng lực nhận thức, tư duy, năng lực thực hành, áp dụng việc học vào cuộc
sống, góp phần định hướng nghề nghiệp cho người học trong tương lai.
Ví dụ: Để tích cực hóa đối tượng tiếp nhận trong dạy học bài “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt” (trích – Lưu Quang Vũ), thiết kế bài giảng đã vận
dụng linh hoạt các phương pháp, kỹ thuật dạy học nhằm phát huy tính chủ động,
sáng tạo của học sinh, thu hút các em vào quá trình tự tìm tịi để lĩnh hội tri thức
như: thuyết trình, vấn đáp, thảo luận nhóm, cơng đoạn, mảnh ghép, trị chơi…
Nhờ đó, học sinh phát triển năng lực làm việc nhóm, cách tranh biện đưa ra
quan điểm của mình, kỹ năng thuyết trình, diễn kịch, phỏng vấn…
Cụ thể hơn, kỹ thuật “cơng đoạn”, thảo luận nhóm, thuyết trình… được
dùng ở phần đọc hiểu qua các bước như sau:
* Thao tác 1: Tổ chức cho HS thảo luận theo 4 nhóm để giải quyết nhiệm vụ
học tập
- B1: GV chuyển giao nhiệm vụ:
+ Nhóm 1,3 thảo luận các câu hỏi ở mục 1 trong phiếu học tập.
+ Nhóm 2,4 thảo luận các câu hỏi ở mục 2 trong phiếu học tập
Thời gian thảo luận: 3 phút. Ghi câu trả lời ra bảng phụ
+ Nhóm 1,3: THẢO LUẬN VỀ CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA HỒN VÀ XÁC
1a. Nội dung chính của cuộc đối thoại này là gì?
1b. Đặc trưng của kịch là các mâu thuẫn, xung đột, vậy trong cuộc đối thoại giữa
hồn và xác, mâu thuẫn ấy thể hiện như thế nào? Nhân vật đã giải quyết mâu
thuẫn của mình qua các hành động, ngơn ngữ kịch ra sao?
+ Nhóm 2,4: THẢO LUẬN VỀ CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA TRƯƠNG BA
VỚI NGƯỜI THÂN

“Lý lẽ” của hồn Trương Ba là: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong
sạch, thẳng thắn”. Nhưng theo em, có thật là hồn Trương Ba vẫn bảo lưu được
điều đó khơng? Hãy tìm câu trả lời từ phía những người thân trong gia đình
Trương Ba?
- B2: HS thực hiện nhiệm vụ
- B3: HS báo cáo kết quả
- B4: GV ghi nhận kết quả
* Thao tác 2: GV hướng dẫn HS sử dụng kỹ thuật “công đoạn” để giải quyết
nhiệm vụ học tập.
- B1: GV chuyển giao nhiệm vụ:

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-17+ Nhóm 1,3 chuyển kết quả sang nhóm 2,4 và nhận xét, bổ sung kết quả của
nhóm 2,4 theo các câu hỏi ở mục 2 trong phiếu học tập.
+ Nhóm 2,4 chuyển kết quả sang nhóm 1,3 và nhận xét, bổ sung kết quả của
nhóm 1,3 theo các câu hỏi ở mục 1 trong phiếu học tập.
Thời gian nhận xét, bổ sung: 3 phút. Ghi câu trả lời ra bảng phụ bằng bút đỏ
(phương pháp Khăn trải bàn)
+ Hết thời gian thảo luận, nhóm nào xung phong trả lời nhanh, câu trả lời đúng
sẽ được điểm tốt.
+ Các nhóm khác lắng nghe, bổ sung.
- B2: HS thực hiện nhiệm vụ
- B3: HS báo cáo kết quả
- B4: GV nhận xét, chốt lại vấn đề
Như vậy, khi các nhóm chuyển kết quả thảo luận cho nhau để bổ sung ý
kiến, học sinh cả lớp vừa tự mình chiếm lĩnh được kiến thức, vừa tự học hỏi các
bạn trong lớp để đi đến thống nhất. Giáo viên chỉ đóng vai trị tổ chức, dẫn dắt

học sinh. Học sinh sẽ hứng thú và chủ động hơn vì nhËn ra ý nghÜa, b¶n
chÊt, lÝ lÏ cđa vấn đề b»ng sù vËn dơng trÝ t.
Đặc trưng của kịch “là một phần của kịch... Nhưng kịch bản viết ra chủ
yếu là để diễn cho nên nó liên quan chặt chẽ đến nghệ thuật sân khấu” (Từ điển
văn học). Như vậy, kịch là một loại hình đặc biệt, có hai phần: kịch bản văn học
và nghệ thuật biểu diễn sân khấu. Vì vậy kịch mang tính ngun hợp độc đáo:
kịch bản - hát - múa - nhạc cùng châu tuần, biểu lộ sáng rõ và mạnh mẽ những
cảm nghĩ, những tâm tư mn hình mn vẻ của con người và tác động tới khán
thính giả sâu sắc, truyền cảm.
Tuy nhiên, học sinh trong trường phổ thông học môn Văn chỉ được tiếp
cận với phần kịch bản văn học mà khơng có biểu diễn sân khấu. Kịch lại có tính
ước lệ cao độ. Do vậy, học sinh gặp khó khăn, thiếu hứng thú khi đọc hiểu văn
bản kịch. Do thời lượng và đối tượng tiếp cận của môn Ngữ văn, giảng dạy kịch
trong trường phổ thông không thể quá sa đà vào phần diễn. Tuy nhiên, việc gợi
lại cho học sinh qua hoạt động trực quan, “sân khấu hóa” khi dạy thể loại này
sẽ giúp các em hình dung rõ hơn về đặc trưng thể loại theo lối “nhìn cây thấy
rừng”, tạo sự hứng thú, sáng tạo, phát triển năng lực diễn kịch, làm việc
nhóm… và hiểu bài hơn qua việc đồng cảm được với cuộc sống trong văn bản.
Ví dụ: Khi dạy bài “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, giáo viên động viên
và giao nhiệm vụ cho một nhóm học sinh chọn diễn lại một trong ba màn đối

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-18thoại: “Cuộc đối thoại giữa hồn và xác”/ “Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và
người thân”/ “Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích” (Học sinh chuẩn bị
trước ở nhà)
Khi dạy đến phần mà học sinh chọn diễn, thay vì gọi học sinh đọc bài,
giáo viên u cầu nhóm đó lên diễn lại phân cảnh kịch. Nhờ vậy, giờ học trở nên

sinh động, học sinh được trải nghiệm, nhập vai vào tình huống, hóa thân, khóc –
cười cùng nhân vật. Nhân vật, thông điệp kịch bỗng trở nên sống động, thực tế;
giảm bớt khoảng cách không gian, thời gian, sự ước lệ; khơng khí lớp học vui
vẻ, nhẹ nhàng hơn; học sinh hiểu tác phẩm sâu hơn, được rèn kỹ năng giao tiếp.
Đọc phải gắn liền với hiểu. Bởi lẽ, nếu chỉ đọc tác phẩm, thấy rằng tác
phẩm hay, ý nghĩa những khơng chỉ ra, khơng giải thích được cái hay cái ý
nghĩa, đó mới chỉ là hiểu lờ mờ, hiểu chưa sâu. Muốn “đồng cảm được với cuộc
sống trong văn bản” thì phải hiểu sâu, cảm sâu. Hiểu văn bản văn học không chỉ
là hiểu nội dung xã hội mà còn thấy được cái hay, cái tài, cái tình trong nghệ
thuật, hiểu dụng ý sâu xa của văn bản. Khơng những vậy, hiểu ở đây cịn là diễn
đạt được điều mình muốn nói một cách chính xác, thuyết phục được người nghe.
“Sân khấu hóa” việc đọc hiểu văn bản kịch đã làm được điều đó.

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-19MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA VỀ VỞ KỊCH HỒN TRƯƠNG BA, DA
HÀNG THỊT MÀ HỌC SINH DIỄN TRONG GIỜ HỌC:

Hồn Trương Ba: “Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, khơng có ý nghĩa gì hết, khơng
có tư tưởng, khơng có cảm xúc!”

Xác hàng thịt: “Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị
khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao?”

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "



-20III. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
1. Mục đích thực nghiệm
Kiểm tra, đánh giá tính khả thi của việc dạy học Văn bản văn học theo
đặc trưng thể loại để phát tiển năng lực học sinh. Trên cơ sở đó, có cái nhìn
khách quan về tính khả thi của đề tài nhằm điều chỉnh, bổ sung những vấn đề
chưa phù hợp, góp phần vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở
trường trung học phổ thông.
Bước đầu đánh giá hiệu quả của quy trình dạy học theo đặc trưng thể loại
trực tiếp qua một bài đọc văn: Hồn Trương Ba, da hàng thịt (trích) – Lưu
Quang Vũ). Bởi đây là hướng dạy học phát huy tối đa tính tích cực trong hoạt
động học tập, phát huy năng lực của học sinh. Từ đó, chúng tơi có sự nhìn nhận
đúng đắn trong việc vận dụng phương pháp dạy học thích hợp để đem lại hiệu
quả cao trong dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn ở trường trung học phổ
thơng nói riêng.
2. Nội dung thực nghiệm
Chúng tơi tiến hành: Giảng dạy bằng giáo án thực nghiệm tại lớp 12E.
Tiết 87, 88, 89

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
(Trích – Lưu Quang Vũ)

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức
- Nhận biết: Hiểu được bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh: phải
sống nhờ, sống vay mượn, sống tạm bợ và trái với tự nhiên khiến tâm hồn nhân
hậu, thanh cao bị nhiễm độc và tha hóa bởi sự lấn át của thể xác thô lỗ, phàm
tục.
- Thông hiểu: Thấy được kịch Lưu Quang Vũ đặc sắc trên nhiều phương diện:
sự hấp dẫn của kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu, sự kết hợp giữa tính
hiện đại với các giá trị truyền thống, sự phê phán mạnh mẽ, quyết liệt và chất trữ

tình đằm thắm, bay bổng.
- Vận dụng thấp: Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động
trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống
đích thực và khát vọng hồn thiện nhân cách.
- Vận dụng cao: Nắm được đặc trưng của thể loại kịch qua việc tìm hiểu một
trích đoạn tiêu biểu. Từ đó, học sinh được hình thành “chìa khóa” để có kỹ năng
đọc hiểu những tác phầm kịch khác cũng như khám phá năng lực bản thân.

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-212. Kỹ năng
- Biết làm: Kỹ năng phân tích văn bản văn học, đặc biệt là văn bản kịch; phỏng
vấn, diễn kịch (làm quen).
- Thông thạo: Kỹ năng đọc diễn cảm, đọc hiểu văn bản.
3. Thái độ
- Hình thành thói quen: Đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại.
- Hình thành tính cách: Tự tin, sáng tạo khi cảm thụ văn học, hiểu mình hơn…
- Hình thành nhân cách: Tình u với ngơn ngữ và văn hóa dân tộc…
4. Định hướng các năng lực cần phát triển
- Năng lực tư duy, sáng tạo
- Năng lực phân tích, phỏng vấn, diễn kịch
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ, giao tiếp
- Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về các kiến thức trọng tâm của tác
phẩm
B. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Giáo viên
1.1 Phương pháp và kỹ thuật dạy học
- Phương pháp: Đọc diễn cảm, đàm thoại gợi mở, nêu vấn đề, làm việc

nhóm (phương pháp Khăn trải bàn, diễn kịch, thảo luận, trả lời câu hỏi…),
phương pháp dạy học trực quan. Tổ chức giờ dạy học theo hướng lấy học sinh
làm đối tượng trung tâm.
- Kỹ thuật: kỹ thuật dạy học tích cực (cơng não, công đoạn, mảnh
ghép…).
1.2. Phương tiện
- SGK, SGV
- Thiết kế bài học, tư liệu liên quan đến bài học, máy chiếu, loa, bút màu,
bút dạ, bảng nhóm…
- Học sinh: SGK, tài liệu tham khảo. Tìm hiểu, soạn bài qua câu hỏi SGK.
C. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC BÀI HỌC HỌC
I. Ổn định tổ chức lớp
II. Nội dung bài mới:
Lời vào bài: Là con người ai cũng mang sẵn trong mình cả phần linh hồn
và thể xác nhưng có khi sống đến trọn cuộc đời mình, mấy ai đặt ra câu hỏi:
Liệu ta đã được sống là chính mình hay chưa? Làm thế nào để dung hòa hai
phần thể xác và linh hồn ấy nhằm vươn tới sự cao khiết về linh hồn và khỏe
mạnh về thể xác? Vấn đề này đã được Lưu Quang Vũ đặt ra từ những tập niên

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-2280 của thế kỉ XX. Nhưng có lẽ đến nay, chúng ta vẫn chưa có câu trả lời thỏa
mãn. Chính vì vậy Hồn Trương Ba, da hàng thịt vẫn cịn là vở kịch trăn trở
lòng người. Bằng nghệ thuật kịch độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đã đem
đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc.
HOẠT ĐỘNG 1: KHỞI ĐỘNG
* Mục tiêu/ Phương pháp/ Kỹ thuật dạy học
- Mục tiêu:

+ Thu thập thơng tin
+ Kích hoạt tri thức nền
+ Tạo tình huống, tâm thế, hứng thú cho bài học
- Phương pháp/ kỹ thuật: Vấn đáp/ kỹ thuật cơng não, mảnh ghép.
* Hình thức tổ chức hoạt động
Hoạt động của thầy và trò
Kiến thức cần đạt

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-23- Bước 1: GV giao nhiệm vụ
Hướng dẫn HS chơi trị chơi
ghép ơ chữ (những mảnh
ghép đã được GV chuẩn bị
sẵn):
Nhóm 1 (4 học sinh): Điền cột
“Tự sự”, “Trữ tình”
Nhóm 2 (4 học sinh): Điền cột
“Kịch”, “Nghị luận”
Mỗi HS điền một ô, tiếp sức
nhau đến hết
GV gọi HS khác nhận xét
GV chốt, cho điểm

LOẠI
TỰ SỰ
TRỮ
TÌNH

KỊCH
NGHỊ
LUẬN

THỂ

LOẠI
(loại, chủng loại,
loại
hình
tác
phẩm)
Phương thức tồn
tại chung
TỰ SỰ Dùng lời kể, lời
miêu tả để xây
dựng cốt truyện,
khắc họa tính cách
nhân vật, dựng lên
những bức tranh về
đời sống.
TRỮ
Lấy cảm xúc, suy
TÌNH nghĩ, tâm trạng con
người làm đối
tượng thể hiện chủ
yếu.

KỊCH


NGHỊ
LUẬN

THỂ
(thể tài, thể
loại,
kiểu,
dạng văn học)
Hiện thực hóa
của loại
Truyện (ngắn,
vừa, dài, tiểu
thuyết…),
ký…

Thơ ca (thơ
trữ tình, thơ tự
sự, thơ trào
phúng,
thơ
cách luật, thơ
tự do, thơ văn
xi…), khúc
ngâm…
Thơng qua hành Chính kịch, bi
động và lời thoại kịch,
hài
của các nhân vật kịch…
mà tái hiện những
xung đột xã hội.

Là một thể loại văn Nghị luận văn
học đặc biệt, dùng học, nghị luận
lý lẽ, phán đoán, xã hội.
chứng cứ để bàn
luận về một vấn đề
nào đó (chính trị,
xã hội, văn học
nghệ thuật, triết
học, đạo đức…)

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-24HOẠT ĐỘNG 2: HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
*Mục tiêu/ Phương pháp/ Kỹ thuật dạy học
- Mục tiêu:
+ Đọc và tái hiện được đặc điểm của hình tượng Trương Ba
+ Phát hiện, phân tích được tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đặc trưng của
kịch (xung đột, đối thoại,…) trong việc khắc họa hình tượng Trương Ba
+ Phối hợp hiệu quả với các thành viên khác trong nhóm
+ Biết trình bày trao đổi ý kiến cá nhân
+ Giải quyết nhiệm vụ học tập một cách sáng tạo
+ Cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng
+ Thấy được cái riêng trong phong cách viết của tác giả
- Phương pháp/ kỹ thuật:
+ Phương pháp: Hợp tác (hoạt động nhóm, diễn kịch…), vấn đáp, khăn trải
bàn….
+ Kỹ thuật: vấn đáp, cơng đoạn…
* Hình thức tổ chức hoạt động

Hoạt động của thầy và trò
Nội dung cần đạt
THẢO LUẬN NHĨM:
TÌM HIỂU CHUNG
Nhóm 1: Trình bày phần
thuyết minh về tác giả Lưu
Quang Vũ và sự nghiệp sáng
tác
(Chuẩn bị ở nhà)
Nhóm 2: Trình bày phần
thuyết minh về tác phẩm “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt”.
(Chuẩn bị ở nhà)
Nhóm 1: trình bày
TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả Lưu Quang Vũ (1944 – 1988)
a. Cuộc đời
- Quê gốc: Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong
một gia đình trí thức, cha là nhà viết kịch Lưu
Quang Thuận.
=> Ảnh hưởng đến năng khiếu kịch của Lưu

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "


-25-

Câu hỏi: Anh/Chị đánh giá như
thế nào về những đóng góp của

Lưu Quang Vũ cho nền văn
học nước nhà?
(Mặc dù đã trải qua lớp bụi
thời gian nhưng đến ngày nay
tác phẩm của Lưu Quang Vũ
vẫn nhận được sự quan tâm rất
lớn từ độc giả. Bởi những gì
ơng gửi gắm vào tác phẩm luôn
mang giá trị nhân văn và là bài
học sâu sắc trong cuộc sống).

Nhóm 2 trình bày

Câu hỏi:
So sánh cốt truyện tóm tắt
trong phần Tiểu dẫn (SGK) với
bản truyện cổ tích dân gian,
phát hiện những sáng tạo của
Lưu Quang Vũ?

Quang Vũ.
- Cuộc đời Lưu Quang Vũ từng có lúc thăng
trầm, buồn nản, thất vọng
- Tình yêu với thi sĩ Xn Quỳnh cùng những
biến chuyển mạnh mẽ trong khơng khí và đời
sống xã hội đã thổi bùng lên nhiệt hứng sáng
tạo ở Lưu Quang Vũ.
- Ông qua đời trong một tai nạn ô tô cùng
người bạn đời Xuân Quỳnh và con trai Lưu
Quỳnh Thơ.

b. Sáng tác
- Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ,
viết kịch, vẽ tranh, viết văn, phê bình sân khấu.
- Kịch Lưu Quang Vũ dữ dội, sắc sảo, giàu
trăn trở, triết lý về cuộc sống, con người, đặt ra
nhiều vấn đề có ý nghĩa tư tưởng, giá trị nhân
văn sâu sắc.
=> Lưu Quang Vũ là nhà soạn kịch tài năng
nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam
hiện đại. Năm 2000, ông được tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt
a. Hoàn cảnh sáng tác
- Tác phẩm được sáng tác năm 1981, ra mắt
công chúng năm 1984 trong khơng khí đổi mới
tư duy, ý thức dân chủ trong đời sống, phong
trào đấu tranh chống tiêu cực trong xã hội.
- Tác phẩm đã được công chiếu nhiều lần trên
sân khấu trong và ngoài nước.
b. Nguồn gốc và sự sáng tạo của vở kịch.
- Nguồn gốc: Bắt nguồn từ một câu chuyện
dân gian.
- Sáng tạo của Lưu Quang Vũ:
+ Thêm nhân vật
=> Chính họ là những phía đối lập của xung

“Sử dung đặc trưng thể loại kịch trong tiết đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
(trích) – Lưu Quang Vũ, nhằm phát huy năng lực cho học sinh lớp 12 "



×