Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

(TIỂU LUẬN) bài THUYẾT TRÌNH LỊCH sử ĐẢNG đề bài quá trình đổi mới quan điểm của đảng về giải quyết các vấn đề xã hội ở nước ta trong thời kì đổi mới từ 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.2 KB, 54 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI THUYẾT TRÌNH LỊCH SỬ ĐẢNG
Đề bài : Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn
đề xã hội ở nước ta trong thời kì đổi mới từ 1986 đến nay.
Lớp học phần : LLDL1102 (121)_04
Giảng viên

: Lê Thị Hồng Thuận

Nhóm 5

: gồm 10 thành viên

Đỗ Thị Oanh
Keosy Phonethana
Nguyễn Thu Phương
Phạm Khắc Quang
Dương Xuân Quỳnh

01/2022
1


LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................3
Chương 1: Cơ sở đổi mới quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội ở nước
ta................................................................................................................................... 4
1.1 Cơ sở lý luận.......................................................................................................4
1.2 . Cơ sở thực tiễn................................................................................................. 12
Chương 2: Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về “Giải quyết các vấn đề xã hội ở
nước ta” qua các thời kỳ từ 1986 đến nay................................................................... 16


2.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI :............................................................. 16
2.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII :............................................................ 18
2.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII: (1996)................................................ 22
2.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX :............................................................. 23
2.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X :.............................................................. 26
2.6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI:.............................................................. 31
2.7. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII: (2016)................................................. 36
2.8. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII............................................................ 38
Chương 3 : Đánh giá................................................................................................... 43
3.1. Thực tiễn quá trình đổi mới :............................................................................ 43
3.2. Hạn chế và nguyên nhân của quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về giải
quyết các vấn đề xã hội ở nước ta trong thời kì đổi mới từ 1986 đến nay :.............45
KẾT LUẬN................................................................................................................ 51
Tài liệu tham khảo:..................................................................................................... 52

2


LỜI MỞ ĐẦU
Gần tám thập kỷ vừa qua, dân tộc ta đã vượt qua một chặng đường đấu tranh cực kỳ
khó khăn, gian khổ, giành được những thắng lợi vẻ vang. Từ thân phận người dân mất
nước, nhân dân ta đã anh dũng vùng lên, lần lượt đánh bại sự xâm lược của nhiều đế
quốc lớn mạnh, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới kỷ nguyên độc lập dân tộc
gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội. Lực lượng lãnh đạo nhân dân ta giành được những
thắng lợi vĩ đại đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước khi Đảng ra đời, đã có rất nhiều
các vấn đề trong xã hội khiến nhân dân chịu khổ cực và uất ức nhưng khơng có ai
đứng ra lãnh đạo giải quyết. Chỉ đến năm 1924, Nguyễn Ái Quốc trở về thống nhất ba
Đảng lúc bấy giờ thành 1 Đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam thì những vấn
đề đó mới ngày càng trở nên cải thiện. Sự ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt

Nam. Từ lúc Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đã có đổi mới quan điểm về các vấn đề
xã hội, nhằm mục đích cho dân, vì dân.
Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về chính sách xã hội và giải quyết các vấn đề
xã hội trong 30 năm "đổi mới" chính là q trình phát triển nhận thức ngày càng sâu
sắc và rõ nét hơn về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã
hội mà trực tiếp là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và xây dựng chính sách xã hội
dựa trên cách tiếp cận về quyền con người.

3


Chương 1: Cơ sở đổi mới quan điểm của Đảng về giải quyết
các vấn đề xã hội ở nước ta
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số khái niệm:
Thời kỳ đổi mới:
Từ giưa thập kỷ 80 thê kỷ XX, dươi tac đông cua cuôc cách mang khoa hoc-kỹ thuật
lân thư hai, đổi mơi đã trở thành xu thê cua thời đai. Liên Xô va cac nươc xã hôi chu
nghĩa đều tiên hành cải tổ, cải cách.
Thời kỳ đổi mới là một chương trình cải cách kinh tế và một số mặt xã hội do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đánh
dấu bước đầu khơi xướng và thực hiện đường lôi đổi mới toàn diện của Đảng.
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thì đổi mới khơng phải là từ bỏ việc
thực hiện chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ quyền lãnh đạo duy
nhất. Đổi mới chỉ là thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề xã hội:
Vấn đề xã hội là tất cả những gì liên quan đến con người, các nhóm người, các cộng
đồng người đến sự tồn tại, phát triển của con người trong một hoàn cảnh xã hội nhất
định được nhận thức như một vấn nạn của xã hội, đụng chạm đến lợi ích của một cộng
đồng. Đó là sản phẩm của con người có ảnh hưởng đến một nhóm người nhất định và

chỉ có thể được khắc phục thông qua hành động xã hội.
Các vấn đề xã hội bao gồm nhiều lĩnh vực như: giải quyết việc làm, thu nhập, bình
đẳng xã hội, khuyến khích làm giàu, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe, cung
ứng dịch vụ công, an sinh xã hội, cứu trợ xã hội, chính sách dân số và kế hoạch hóa
gia đình.
1.1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề xã hội:

4


Trên những căn cứ lý luận và tổng kết thực tiễn, chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu một số
đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Đó
là:
- Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người, tạo mọi điều kiện
để con người phát triển tồn diện.
- Có lực lượng sản xuất phát triển, chế độ công hữu từng bước được xác lập, tổ chức
quản lý hiệu quả, năng suất lao động cao, phân phối theo lao động.
Theo C.Mác, xã hội cộng sản chủ nghĩa phải được phát triển từ chủ nghĩa tư bản và
trên cơ sở những tiền đề do chủ nghĩa tư bản tạo dựng, trong đó về kinh tế là nền đại
công nghiệp. Đến giai đoạn V.I.Lênin, ông rất coi trọng việc cần thiết phải xây dựng
yếu tố cơ sở vật chất - kỹỹ̃ thuật hiện đại của chủ nghĩa xã hội. Ông đã từng khẳng định
“cộng sản chủ nghĩa là chính quyền Xơ viết cộng với điện khí hóa cả nước”, “phải
tiếp thu trật tự đường sắt Phổ cộng với kỹỹ̃ thuật và cách thức tổ chức các tờ rớt của
Mỹỹ̃” “cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội là nền đại cơng nghiệp cơ khí có khả năng
cải tạo cả nông nghiệp”...
Những đề xuất của chủ nghĩa Mác - Lênin về lực lượng sản xuất (LLSX) của chủ
nghĩa xã hội đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Tuy nhiên, ngày nay LLSX đã phát triển
mạnh mẽ thì cơ sở vật chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội hiện đại phải hiểu đó là nền
kinh tế tri thức, văn minh tin học, kỹỹ̃ thuật số, trí tuệ nhân tạo, Cách mạng công
nghiệp 4.0...

- Chế độ dân chủ tiến bộ, Nhà nước dân chủ mang bản chất giai cấp công nhân, với sự
tham gia đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, nhà nước dân chủ, xã hội cơng dân là những tiêu chí của
tiến bộ xã hội. Nhiệm vụ của giai cấp công nhân và các đảng cộng sản là: “...bước thứ
nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị,
là giành lấy dân chủ”(11). Sau khi trở thành giai cấp thống trị, giai cấp công nhân thiết
lập một chế độ dân chủ mới, toàn diện hơn, triệt để hơn, dân chủ cho đa số nhân dân
lao động.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xơ viết, V.I.Lênin
nhấn mạnh tính ưu việt của chế độ dân chủ vơ sản, tính ưu việt của chính quyền Xơ
viết (một hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa). Đó là nhà nước do đông đảo quần
5


chúng nhân dân lao động - những giai cấp trước kia bị chủ nghĩa tư bản áp bức, quản
lý. Luận giải về bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin một mặt đã khẳng định nhà nước này phải mang bản chất giai cấp công
nhân, đồng thời, do bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi, nhà nước xã hội chủ
nghĩa phải mang tính nhân dân, lơi cuốn đơng đảo nhân dân tham gia quản lý nhà
nước. Tuy nhiên, các ông cũng nhấn mạnh, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nhà nước
chưa thể “tự tiêu vong” hoàn toàn được vì vẫn cịn các giai cấp và sự khác biệt giữa
các giai cấp.
- Xã hội công bằng, bảo đảm bình đẳng giữa các dân tộc :
Ngay trong Tun ngơn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu luận điểm:
“Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc
khác cũng sẽ bị xóa bỏ”. V.I.Lênin đã bổ sung, phát triển những quan điểm của C.Mác
và Ph.Ăngghen khi luận bàn về quan hệ giữa người và người gắn với quan hệ giữa các
dân tộc. Trong Cương lĩnh về vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã chỉ rõ những nội dung
mang tính nguyên tắc cần thực hiện trong khi giải quyết vấn đề dân tộc trong xã hội
xã hội chủ nghĩa: “Các dân tộc hồn tồn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết;

liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại: đó là Cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác,
kinh nghiệm toàn thế giới và kinh nghiệm của nước Nga dạy cho cơng nhân”. Trên cơ
sở đó, V.I.Lênin đã nêu lên những quan điểm mới về mối quan hệ giữa các dân tộc,
trong đó đặc biệt quan tâm đến “các dân tộc bị áp bức” cũng như quá trình hình thành
dân tộc xã hội chủ nghĩa - một hình thức cộng đồng tiến bộ, ưu việt hơn so với dân tộc
tư sản.
Những luận điểm của V.I.Lênin bàn về dân tộc, quyền tự quyết dân tộc là những chỉ
dẫn rất có giá trị giúp cho các Đảng cộng sản, Đảng công nhân vận dụng trong giải
quyết vấn đề dân tộc ở các quốc gia, khu vực, kể cả trong bối cảnh hiện nay.
Thực tiễn cách mạng thế giới đã và đang chứng minh sức sống, giá trị bền vững của
những nguyên lý, những quan điểm về xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là cơ sở
lý luận để các đảng cộng sản nhận thức, vận dụng và bổ sung, phát triển phù hợp với
điều kiện cụ thể của nước mình. Sự ra đời và những thành tựu vĩ đại của nhà nước xã
hội chủ nghĩa Xô viết, của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây cũng như các nước xã
hội chủ nghĩa hiện nay đang chứng minh cho điều đó.
6


1.1.3 Quan điểm của Hồ Chí Minh về xã hội :
1.1.3.1 Mục tiêu về quan hệ xã hội :
Mục tiêu về các quan hệ xã hội: Phải bảo đảm dân chủ, công bằng văn minh. Chế độ
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là chế độ "dân làm chủ", "dân là chủ" nên
theo Hồ Chí Minh, với tư cách làm chủ, là chủ của đất nước, nhân dân phải làm tròn
nhiệm vụ của người chủ để xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó mọi người đều có
quyền làm việc; có quyền nghỉ ngơi; có quyền học tập; có quyền tự do thân thể; có
quyền tự do ngơn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình; có quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào; có quyển bầu cử, ứng cử. Mọi cơng dân đều
bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công dân,
nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chú để xâm phạm đến lợi ích của
Nhà nước, của nhân dân. Những tư tưởng trên biểu hiện xã hội xã hội chủ nghĩa mà

nhân dân ta xây dựng là xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, tôn trọng con người,
chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và đảm bảo cho nó được thỏa mãn để
mỗi người có điều kiện cải thiện đời sống riêng của minh, phát huy tính cách riêng và
sở trường riêng của mình trong sự hài hịa với đời sống chung, lợi ích chung của tập
thể.
1.1.3.2 Quan điểm Hồ Chí Minh về phát triển xã hội sau khi giành được độc lập:
(1)

Xã hội chỉ có điều kiện phát triển tồn diện trong chủ nghĩa xã hội và các

tiêu chí phát triển xã hội có ý nghĩa định hình giá trị xã hội xã hội chủ nghĩa trong
từng nấc thang phát triển đất nước.
Theo Hồ Chí Minh, các chế độ bóc lột khơng thể đưa lại phát triển xã hội thật
sự, không thể giải phóng triệt để các tiềm năng, sức mạnh của con người. Ngay từ khi
chuẩn bị thành lập Đảng, Người đã phân tích sâu sắc rằng, các cuộc cách mạng dân
chủ tư sản chỉ nhằm thay thế một chế độ bóc lột này bằng chế độ bóc lột khác hồn bị
hơn. Với niềm tin mãnh liệt vào bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh
cho rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp bức,
bất công, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; tạo điều kiện cho con người
phát triển toàn diện cả với tư cách cá nhân con người và cộng đồng xã hội. Chủ nghĩa
7


xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa xã hội năng động, phát triển,
hướng đến nhu cầu chính đáng của nhân dân, khác với mơ hình chủ nghĩa xã hội giáo
điều, xơ cứng, xa lạ với nhu cầu thiết thực của đời sống nhân dân. Người lấy tiêu chí
quan trọng bậc nhất của chủ nghĩa xã hội là phát triển con người, phát triển xã hội,
thông qua cách diễn đạt bình dị, gần gũi, phản ánh các nhu cầu thiết yếu về chất
lượng sống mà bất cứ người dân nào cũng cảm nhận được. Đó là một chế độ xã hội
mà “ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thơng thái và có đạo đức. Đó là một xã

hội tốt đẹp vẻ vang”; đó là xã hội “dân giàu nước mạnh”, “nâng cao đời sống vật chất
và văn hóa của nhân dân”. Người cho rằng, “Khơng có chế độ nào tơn trọng con
người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa
mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa”. Vì thế, phát triển xã hội chỉ đạt được các giá trị
đích thực trong chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội khơng có mục đích nào
khác là đem lại sự phát triển xã hội toàn diện, lấy con người làm trung tâm của sự phát
triển.
(2)

Phát triển xã hội trên cơ sở nền kinh tế vững mạnh, gắn với cơ cấu kinh tế

nhất định là một cơ cấu xã hội tương ứng.
Đây là điểm rất quan trọng, có ý nghĩa định hướng phát triển xã hội gắn với điều
kiện cụ thể của Việt Nam. Do hoàn cảnh chiến tranh, dù phải dành nhiều tâm lực, trí
lực lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, nhưng Hồ Chí Minh
vẫn ln chú trọng xây dựng nền kinh tế quốc gia vững mạnh vừa bảo đảm sức mạnh
của hậu phương cho tiền tuyến, vừa nâng cao đời sống của nhân dân. Nhận thức rõ
đặc điểm “to nhất” của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một nước
nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, kinh tế kém phát triển, Hồ Chí Minh chủ trương sớm
tiến hành cơng nghiệp hóa trên miền Bắc nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra
của cải vật chất ngày càng dồi dào, cải thiện tốt hơn đời sống nhân dân. Người gọi cơ
cấu kinh tế đó là “hai chân” cơng nghiệp và nơng nghiệp..
Những chỉ dẫn nêu trên của Hồ Chí Minh vẫn nguyên giá trị cho hiện nay khi chúng ta
phải xử lý khơng ít các vấn đề xã hội nảy sinh từ nền kinh tế thị trường, đặc biệt là các
quan hệ chồng xếp giữa chủ - thợ, giữa nhà quản lý - người lao động, chứa đựng cả mặt
hợp tác để phát triển doanh nghiệp đem lại lợi ích cho cả người sử dụng lao động lẫn
người lao động, và mặt đấu tranh buộc người sử dụng lao động thực hiện đúng quy định
pháp luật, bảo đảm quyền của người lao động, không ngừng mở rộng phúc
8



lợi cơng ty. Điều đó cũng đặt ra những nhận thức mới về quan hệ giai cấp trong nền
kinh tế thị trường khi chính quyền đã về tay nhân dân, Đảng Cộng sản trở thành Đảng
cầm quyền, giai cấp công nhân và nhân dân lao động có nhiều cơng cụ để thực hiện
quyền làm chủ của mình.
(3)

Phát triển xã hội theo nguyên lý không loại trừ, bảo đảm quyền cùng phát

triển của mọi thành viên trong xã hội.
Hồ Chí Minh quan niệm bất cứ người dân Việt Nam nào có đóng góp cho tiến bộ
và phát triển của quốc gia - dân tộc gắn với điều kiện lịch sử - cụ thể đều là thành viên
của quảng đại “nhân dân” rộng lớn, được Đảng và Nhà nước bảo đảm quyền phát
triển. Đó là các chính sách xây dựng giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân, đội ngũ trí
thức,... cùng các tầng lớp xã hội khác. Người rất coi trọng chăm lo phát triển giai cấp
công nhân vững mạnh xứng đáng với vai trò giai cấp lãnh đạo cách mạng; có đủ năng
lực làm chủ nhà máy, cơng xưởng, hầm mỏ; tạo nhiều của cải vật chất cho xã hội; thật
sự tiên phong về phương thức sản xuất, lối sống, nếp sống, kỷ luật lao động gắn với
xây dựng tổ chức Cơng đồn. Cùng với phát triển giai cấp cơng nhân, Hồ Chí Minh
dành nhiều tình cảm và quan tâm đặc biệt với nơng dân thơng qua các chính sách đưa
lại quyền làm chủ ruộng đất, khuyến khích xây dựng hợp tác xã, tổ hợp tác để nông
dân hợp lực khắc phục khó khăn, phát huy sức mạnh tập thể, không ngừng mở mang
phúc lợi xã hội nông thôn, xây dựng xóm làng văn minh, đẩy lùi các hủ tục. Hiểu rõ
những đóng góp, hy sinh, thiệt thịi của nơng dân trong kháng chiến, Người ln nhắc
nhở chính quyền các cấp khơng chỉ biết huy động sức dân, mà cịn phải ra sức bồi
dưỡng sức dân và di huấn sau khi nước nhà thống nhất cần miễn thuế cho nông dân.
Xuất phát từ thực tiễn một quốc gia đa tộc người, Hồ Chí Minh quan niệm đa tộc người là
vốn quý của dân tộc ta; phải bảo đảm trên thực tế quyền bình đẳng, đồn kết, tơn trọng,
giúp nhau cùng phát triển giữa các tộc người thông qua hỗ trợ của Nhà nước và sự nỗ lực
tự vươn lên của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi tộc người. Điều này đối lập với tư tưởng

phân biệt chủng tộc, với tư tưởng dân tộc lớn, với chính sách “chia để trị” của chủ nghĩa
thực dân. Hồ Chí Minh chủ trương tộc người có điều kiện phát triển hơn phải tương trợ,
giúp đỡ các tộc người chậm phát triển cùng vươn lên. Người đặc biệt coi trọng thúc đẩy
sự phát triển nhanh, mạnh các vùng có đơng đồng bào các tộc
9


người thiểu số, miền núi, căn cứ địa cách mạng. Sự phát triển các vùng này khơng chỉ
có ý nghĩa bảo đảm an ninh, quốc phòng, mà cao hơn là thực hiện quyền cùng phát
triển giữa các vùng, các tộc người.
Là quốc gia đa tín ngưỡng, tơn giáo, Hồ Chí Minh đề cao tinh thần tơn trọng tự do tín
ngưỡng, tôn giáo; đánh giá khách quan về giá trị văn hóa, đạo đức của các tơn giáo;
bày tỏ tình cảm trân trọng đối với những người sáng lập các tôn giáo; có nhiều chủ
trương, chính sách để đồn kết tơn giáo, đồn kết lương - giáo, làm cho các tơn giáo
đồng hành cùng dân tộc. Phát triển xã hội vì thế bao hàm cả chăm lo đời sống vật chất
và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo, làm cho đồng bào các tôn giáo gắn kết với dân
tộc, đồng hành cùng sự nghiệp giải phóng và phát triển dân tộc. Người phê phán và
đấu tranh không khoan nhượng với mọi biểu hiện kỳ thị tôn giáo, vi phạm quyền tự do
tơn giáo, tín ngưỡng của nhân dân cũng như các hành vi lợi dụng tôn giáo để làm
những điều trái với lợi ích dân tộc, gây tổn hại cho sự nghiệp cách mạng.
Các tầng lớp, nhóm xã hội thiếu cơ hội phát triển, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội,
được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Đối với phụ nữ, tầng lớp vốn chịu nhiều thua
thiệt về cơ hội phát triển do những trói buộc của tư tưởng phong kiến lạc hậu, Người
chủ trương phải tiến hành cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ, thực hiện nam - nữ bình
quyền, tạo mơi trường thuận lợi cho phụ nữ có cơ hội tham gia cơng việc xã hội, học
tập, phấn đấu cũng như hoàn thành thiên chức làm mẹ, làm vợ. Người cho rằng, chưa
giải phóng được phụ nữ thì mới chỉ giải phóng được một nửa quần chúng, chưa thể
hiện bình đẳng nam nữ và nam nữ bình quyền thì mới chỉ là một nửa chủ nghĩa xã
hội... Đối với trẻ em, Người xem như “búp non trên cành”, ln động viên, khuyến
khích các em học tập, tu dưỡng để có ích cho gia đình và xã hội, bảo đảm vốn con

người cho tương lai đất nước, cần có những chính sách phát triển tồn diện các mặt
thể lực, trí lực, đạo đức và thẩm mỹỹ̃. Đối với người cao tuổi, Hồ Chí Minh tơn trọng,
tin tưởng, đề cao và u cầu có chính sách chăm lo, động viên kịp thời, phát huy kinh
nghiệm, vốn sống và trách nhiệm nêu gương cho con cháu, trước hết trong gia đình,
dịng tộc, làng xóm. Đối với thương binh, liệt sỹ, người có cơng với nước - những
người vì độc lập dân tộc mà chịu hy sinh, mất mát trong kháng chiến - nên phải được
chăm lo đặc biệt thông qua chính sách ưu đãi xã hội. Trong Di chúc, Người căn dặn
10


sau ngày cách mạng thắng lợi, công việc đầu tiên đối với con người là chăm lo cho
thương binh và người có cơng với nước; xây dựng vườn hoa, bia tưởng niệm ghi nhớ
công ơn các anh hùng, liệt sĩ; chăm lo nơi ăn, chốn ở, mở lớp dạy nghề để thương
binh, bệnh binh và con cái họ có thể “tự lực cánh sinh”.
(4)

Phát triển xã hội trên quan điểm thúc đẩy công bằng về cơ hội phát triển

giữa các thành viên trong xã hội, bảo đảm hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ, giữa cống
hiến và hưởng thụ.
Đây là luận điểm rất quan trọng chi phối đến thiết kế các chính sách kinh tế và
chính sách xã hội hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Theo Hồ Chí Minh, cơ hội
phát triển của mỗi con người trước hết là phải được sống trong hịa bình, độc lập, tự
do, an ninh và an toàn. Một đất nước mất độc lập, chủ quyền thì nhân dân khơng thể
có tự do và do đó khơng có cơ hội phát triển. Dân tộc độc lập, mơi trường hịa bình, xã
hội an tồn là cơ hội cho con người phát triển, là điều kiện cơ bản để từng thành viên
trong xã hội nỗ lực, phấn đấu vì sự phát triển chung. Cơ hội phát triển có được cịn
nhờ mở rộng hệ thống phúc lợi xã hội, tạo nền tảng cho con người phát triển tồn
diện, nhất là giáo dục, văn hóa, y tế, trợ giúp xã hội. Những chính sách của Hồ Chí
Minh về xóa mù chữ, tập hợp trí thức trong nước và trí thức người Việt Nam ở nước

ngồi trở về xây dựng nền giáo dục quốc dân phục vụ sự nghiệp “trồng người” cũng
nằm trong tầm nhìn chiến lược đó. Cơ hội cho sự phát triển được Người đặc biệt chú ý
với những đối tượng chịu nhiều thiệt thòi, kém may mắn trong xã hội như trẻ em,
thương binh, gia đình liệt sĩ, phụ nữ, các tộc người thiểu số.
(5)

Cốt lõi của phát triển xã hội là giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất

công, phát triển con người tồn diện, tơn trọng quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp
của nhân dân; tạo dựng xã hội an ninh, an toàn, bảo đảm cho con người trưởng
thành lành mạnh.
Hồ Chí Minh cho rằng, phát triển xã hội chính là giải phóng con người thốt
khỏi mọi áp bức, bất cơng, có điều kiện phát triển tồn diện cả về thể lực, trí lực, thẩm
mỹỹ̃ và đạo đức. Thủ tiêu các cơ sở kinh tế của chế độ bóc lột chính là giải phóng lao
động, đem lại tự do cho con người. Phát triển kinh tế khơng có mục tiêu tự thân mà
cũng hướng tới cải thiện đời sống vật chất, phát triển thể chất, nâng cao nhu cầu
11


hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Nền văn hóa mới, đạo đức mới được xây dựng giúp
con người hình thành nhân cách sống hài hòa với xã hội, với cộng đồng, với tự nhiên
và với chính mình. Hệ thống giáo dục tiến bộ phải có khả năng khơi dậy, phát huy cao
nhất những năng lực, phẩm chất vốn có của con người để hồn thiện chính mình và
đóng góp hữu ích cho xã hội. Thể chế chính trị dân chủ phải tạo mơi trường cho con
người có tự do, phát huy cao nhất năng lực làm chủ trong mọi phương diện của đời
sống xã hội. Mục tiêu phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa hay xã hội đều hướng tới
thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, đáp ứng quyền và lợi ích chính đáng,
hợp pháp của người dân.
1.2 . Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình quốc tế :

* Tình hình thế giới những năm 80 thế kỷ XX:
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển
mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc.Các nước
xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu những năm 1990, chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế.
Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở hai khối
đối lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu (trật tự thế giới hai cực) tan rã, mở ra thời kỳ
hình thành một trật tự thế giới mới.
Một trong những đặc điểm lớn nhất của thời đại là sự phát triển "kiểu dịng thác" chưa
từng có trong lịch sử lồi người đó chính là thành tựu của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ được tiến hành từ giữa thế kỉ XX
đã tạo ra những lực lượng sản xuất to lớn và mới về chất, góp phần thúc đẩy nhiều q
trình hiện đại của xã hội loài người như: cấu trúc lại các nền kinh tế, thay đổi, chuyển
hướng các kết cấu hạ tầng của sản xuất, tăng cường xu thế toàn cầu hóa trên nhiều
lĩnh vực quan trọng của các quốc gia, ảnh hưởng to lớn đến các thiết chế xã hội, đến
văn hóa, lối sống các dân tộc…

12


Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc ( Chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô, Trật tự thế giới hai cực tan rã ). Chiến tranh lạnh (1947 – 1991) giữa Mỹỹ̃ và
Liên xô gây ra những hậu quả tiêu cực cho toàn thế giới. Liên Xô và các nước Xã hội
chủ nghĩa phải tăng ngân sách quốc phòng , củng cố khả năng phịng thủ. Thế giới
ln trong tình trạng căng thẳng, con người phải chịu đựng khó khăn, ơ nhiễm mơi
trường.
Bên cạnh đó, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, thế giới đang đứng trước những vấn đề
toàn cầu và việc giải quyết những vấn đề đó địi hỏi phải có sự nỗ lực chung của toàn
nhân loại, ở các quốc gia với những chế độ chính trị khác nhau. Đó là vấn đề bảo vệ
hịa bình, chống chiến tranh hạt nhân hủy diệt, đó là vấn đề bảo vệ tài ngun thiên

nhiên mơi trường, phịng chống bệnh hiểm nghèo, vấn đề bùng nổ dân số, sự nghèo
đói.
Sau hơn 70 năm tồn tại, đến cuối thập niên 80 của thế kỉ XX, toàn bộ hệ thống xã hội
chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện và sâu sắc. Đứng trước sự thử thách, nhiều
nước xã hội chủ nghĩa đã tìm cách thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng bằng nhiều cách
khác nhau. Trước hết, phải kể đến công cuộc “cải cách, mở cửa” với những thành tựu
rõ rệt của Trung Quốc - một nước xã hội chủ nghĩa láng giềng và cuộc “cải tổ” ở Liên
Xô - một cường quốc xã hội chủ nghĩa đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới
với những diễn biến phức tạp, đầy sóng gió. Những thành tựu của Trung Quốc đã thu
hút sự quan tâm chú ý của nhiều nước trong đó có Việt Nam. Tiếp đó, cơng cuộc cải tổ
khơng thành cơng dẫn tới sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là bài học
phản diện cho Việt Nam những kinh nghiệm không thể cải tổ theo kiểu “phủ định sạch
trơn”, giải quyết không biện chứng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
1.2.2. Tình hình trong nước :
1. 2.2.1 Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội thời kỳ trước đổi mới:
Giai đoạn 1945 – 1954: Sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống
Pháp, chính sách xã hội của Đảng được thực hiện theo tinh thần:

13


Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học
hành. Và với chủ trương: làm cho người nghèo thì đủ ăn, ngươi đủ ăn thì khá giàu,
người khá giàu thì giàu thêm. Chủ trương này đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và đạt
được những hiệu quả thiết thực.
Các vấn đề xã hội trong giai đoạn này giải quyết trong điều kiện xây dựng Nhà nước
dân chủ nhân dân. Chính phủ có chủ trương và hướng dẫn để các tầng lớp nhân dân
chủ động và tự tổ chức giải quyết các vấn đề xã hội của chính mình; chính sách tăng
gia sản xuất (tự túc, tự cấp), chủ trương tiết kiệm, khuyến khích mọi tầng lớp nhân
dân, mọi thành phần xã hội phát triển kinh tế. Thực hiện chính sách điều hồ lợi ích

giữa chủ và thợ.
Giai đoạn 1954 – 1975: Các vấn đề xã hội được giải quyết theo mơ hình xây dựng
chủ nghĩa xã hội theo đường lối cũ, trong hồn cảnh đất nước có chiến tranh. Chế độ
phân phối về thực chất là theo chủ nghĩa bình quân. Nhà nước và tập thể đáp ứng nhu
cầu thiết yếu của xã hội, bằng chế độ bao cấp và dựa vào viện trợ của nước ngoài.
Giai đoạn 1975 – 1985: Các vấn đề xã hội được giải quyết theo cơ chế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu, bao cấp, trong hoàn cảnh đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế –
xã hội nghiêm trọng, nguồn viện trợ giảm dần, đất nước bị bao vây, cô lập và cấm
vận.
1.2.2.2 Đánh giá việc thực hiện đường lối :
Chính sách xã hội trong 9 năm “kháng chiến, kiến quốc”, tiếp đó là thời kỳ thực hiện
cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp (1954 – 1985), tuy có nhiều
hạn chế nhưng đã bao hàm được sự ổn định của xã hội, đồng thời đạt được thành tựu
phát triển đáng tự hào trên một số lĩnh vực: Văn hóa, giáo dục, y tế, lối sống, đạo đức
kỷ cương và an ninh xã hội, hoàn thành nghĩa vu hậu phương lớn đổi mới tiền tuyến
lớn.
Những thành tựu đó nói lên bản chất tốt đẹp của chế độ mới – chế độ xã hội chủ nghĩa
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, giải quyết mâu thuẫn xã hội trong điều kiện chiến
tranh kéo dài, kinh tế chậm phát triển.
14


1.2.2.3 Hạn chế và nguyên nhân :
Trong xã hội đã hình thành tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể trong cách
giải quyết, các vấn đề xã hội; chế độ phân phối trên thực tế là bình qn – cào bằng,
khơng khun khích được những đơn vị và cá nhân làm tốt, làm giỏi: đã hình thành
nên một xã hội đóng, ổn định nhưng kém năng động chậm phát triển về mọi mặt.
Nguyên nhân cơ bản của hạn chế trển là do chúng ta đặt chưa đúng tầm chính sách xã
hội trong quan hệ với các chính sách thuộc các lĩnh vực khác, đồng thời lại áp dụng và
duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan lieu bao cấp.

=> Đứng trước xu hướng thế giới, yêu cầu khắc phục sai lầm, vượt qua khủng
hoảng, Đảng và nhà nước phải tiến hành đổi mới.

Chương 2: Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về “Giải quyết
các vấn đề xã hội ở nước ta” qua các thời kỳ từ 1986 đến nay.
2.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI :
Đại hội VI của Đảng (12/1986) khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh
đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học, giương cao ngọn cờ chủ nghĩa
Mác - Lênin, tiến bước theo con đường do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra, động viên
tồn Đảng, tồn dân, tồn qn phấn đấu hết sức mình vì độc lập, tự do và chủ nghĩa
xã hội. Tại đây, lần đầu tiên nêu lên khái niệm “Chính sách xã hội”. Đây là sự đổi mới
về tư duy về giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong tổng thể đường lối phát triển
của Đất nước, đặc biệt là giải quyết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách
xã hội. Đại hội cho rằng trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện
chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động
kinh tế. Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế ở
chỗ đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và lấy việc phục vụ con
người làm mục đích cao nhất. Coi nhẹ chính sách xã hội cũng là coi nhẹ yếu tố con
người trong xây dựng chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
15


bảo vệ Tổ quốc. Và có thể coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các
chính sách xã hội, đồng thời thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế.
Công tác bảo trợ xã hội đối với toàn dân phải được tiến hành theo phương
châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm"; trước mắt, sắp xếp lại và phát triển các cơng
trình sự nghiệp bảo trợ xã hội, vận dụng đúng đắn các chính sách phù hợp với từng
vùng và tình hình kinh tế - xã hội của đất nước.
Bảo đảm việc làm cho người lao động, trước hết ở thành thị và cho thanh niên,

là nhiệm vụ kinh tế - xã hội hàng đầu trong những năm tới. Tạo thêm việc làm, sử
dụng tốt lực lượng lao động xã hội, kế hoạch hoá phát triển dân số là những yêu cầu
kinh tế-xã hội cực kỳ quan trọng. Nhiệm vụ đặt ra là giảm cho được tỷ lệ tăng dân số,
giải quyết công việc làm với mức cố gắng lớn nhất, thực hiện phân bố lại lao động,
gắn lao động với khai thác đất đai, phát triển ngành, nghề, vận động định canh, định
cư, tinh giản biên chế hành chính nhà nước, nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất
lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội. Nhà nước cố gắng tạo thêm việc làm và
có chính sách để người lao động tự tạo ra việc làm chính đáng. Tiến hành phân cơng
và phân bố hợp lý lao động trên từng vùng và trong cả nước. Ban hành và thực hiện
Luật lao động. Phấn đấu hạ tỷ lệ phát triển dân số đến năm 1990 xuống 1,7%. Phải
thực hiện đồng bộ các biện pháp như: đầu tư xây dựng các cơ sở dịch vụ y tế xã, các
trung tâm hướng dẫn sinh đẻ ở huyện, đồng thời sửa đổi và ban hành các chính sách
có liên quan nhằm bảo đảm được kế hoạch phát triển dân số. Phải gây thành ý thức xã
hội rộng khắp về thực hiện kế hoạch hố gia đình; đảng viên và đoàn viên thanh niên
phải gương mẫu đi đầu thực hiện.
Thực hiện công bằng xã hội phù hợp với điều kiện thực tế; đảm bảo an tồn xã
hội, nhanh chóng khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Thực hiện sống và làm việc theo pháp luật. Nghiêm trị các phần tử làm ăn phi pháp.
Đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát triển tồn
diện nhân cách xã hội của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có văn hóa, có kỹỹ̃ thuật,
có kỹỹ̃ thuật, có kỷ luật và giàu tính sáng tạo, đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu
cầu phân công lao động xã hội.
16


Mở rộng mạng lưới và nâng cao chất lượng công tác y tế và thể dục thể thao ,
nhất là ở cơ sở, đáp ứng tốt hơn nhu cầu bảo vệ sức khỏe của nhân dân. Nhiệm vụ hết
sức quan trọng của tất cả các ngành, các cấp là bảo đảm được mức cần thiết và ổn
định của nhân dân về lương thực và thực phẩm. Khắc phục tình trạng ở một số nơi
bình quân chung về lương thực thì cao, nhưng vẫn còn một bộ phận dân cư thiếu ăn,

làm cho tình hình xã hội thiếu ổn định. Thuốc chữa bệnh đang là một vấn đề xã hội
gay gắt. Năm năm tới, phải tăng quỹỹ̃ thuốc thông thường, thuốc kháng sinh, thuốc
chống dịch, thanh toán dần các bệnh sốt rét, bạch hầu, bại liệt, ho gà, sởi... Mạng lưới
y tế cơ sở, nơi hằng ngày trực tiếp chăm sóc sức khỏe của người lao động phải được
củng cố và chấn chỉnh.Khôi phục và tăng thêm số giường bệnh, chủ yếu cho tuyến cơ
sở và một số nơi đang quá thiếu ở thành phố, thị trấn, khu công nghiệp; tu bổ và thay
đổi dần trang bị cho các bệnh viện lớn. Mỗi xã có vườn dược liệu gắn liền với trạm y
tế để phục vụ tại chỗ. Dành một diện tích cần thiết để trồng dược liệu tập trung phục
vụ nhu cầu cả nước. Đẩy mạnh phong trào tập luyện thể dục, thể thao trong mọi lứa
tuổi, nhất là trong thanh niên, học sinh.
Thực hiện tốt chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình cán bộ,
chiến sĩ chiến đấu ngồi mặt trận, gia đình có cơng với cách mạng, công nhân, viên
chức về hưu; xây dựng và thực hiện từng bước chính sách bảo trợ xã hội xã hội chủ
nghĩa đối với toàn dân theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Đối với công nhân, viên chức, có chế độ tiền lương hợp lý, phúc lợi xã hội cần
thiết để đảm bảo đời sống vật chất và văn hóa cho người lao động và gia đình.
Đối với nơng dân, giải quyết tốt quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ đóng góp
cho đất nước. Sốt lại các chính sách có liên quan đến nơng dân, bãi bỏ những chính
sách khơng đúng.
Đối với trí thức, điều quan trọng nhất là đánh giá đúng năng lực và tạo điều
kiện cho các khả năng sáng tạo được sử dụng đúng và phát triển.
Thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng. Tăng cường đầu tư và có chính
sách cụ thể về mặt kinh tế - xã hội để phát huy khả năng của miền núi về xây dựng
kinh tế, văn hóa và chăm lo đời sống của đồng bào các dân tộc. Cùng với đó là tạo
điều kiện thuận lợi để người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài xây dựng khối cộng
17


đồng vừa hòa nhập vào xã hội sở tại, vừa liên hệ mật thiết, gắn bó với quê hương, góp
phần ngày càng nhiều vào công cuộc xây dựng đất nước.

Như vậy, chủ trương của Đại hội VI về lĩnh vực xã hội, tập trung vào các vấn
đề: lao động và việc làm; ổn định và nâng cao đời sống nhân dân; thực hiện kế hoạch
hố gia đình, chăm lo người có cơng với cách mạng, phịng chống các tệ nạn xã hội...
Trong đó, tư duy mới của Đảng thể hiện thơng qua các chủ trương: giải quyết chính
sách xã hội là nhiệm vụ gắn bó hữu cơ với đổi mới kinh tế; vấn đề lao động, việc làm
được giải quyết gắn với phát triển nhiều thành phần kinh tế; nâng cao đời sống của
nhân dân gắn với thực hiện ba chương trình kinh tế lớn.
2.2. Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII :
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại
Thủ đô Hà Nội từ ngày 24 đến ngày 27/6/1991 với nội dung chủ trương là Đổi
mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa.
+

Có bước đột phá mới trong nhận thức về khái niệm CNH hiện đại hóa

+

Rút ra năm kinh nghiệm trong tiến hành công cuộc đổi mới:

(1) Phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới.
(2) Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách
làm phù hợp.
(3) Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đơi với tăng cường vai trị quản lý
của Nhà nước về kinh tế - xã hội.
(4) Phát huy ngày càng sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
(5) Quan tâm dự báo tình hình, kết hợp phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề
mới nảy sinh, tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Phương hướng mục tiêu nhiệm vụ : Đại hội VII đề ra Kế hoạch 5 năm 1991-1995
và quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội của Kế hoạch là:

+

Đẩy lùi và kiểm soát lạm phát

+

Ổn định phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội
18


+ Bước đầu ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân
dân lao động.
+

Bắt đầu có tích lũy từ nội.
Tại đại hội VII, mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát

triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người.
Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện
tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Thứ nhất là đổi mới chính sách tiền lương và thu nhập, khuyến khích mọi
người tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; bảo hộ
các nguồn thu nhập hợp pháp; điều tiết hợp lý thu nhập giữa các bộ phận dân cư, các
ngành và các vùng. Đấu tranh ngăn chặn thu nhập phi pháp. Cải cách cơ bản chính
sách tiền lương và tiền công theo các nguyên tắc: tiền lương và tiền công phải dựa
trên số lượng và chất lượng lao động, bảo đảm tái sản xuất sức lao động; tiền tệ hóa
tiền lương, xóa bỏ chế độ bao cấp ngồi lương dưới hình thức hiện vật; thực hiện mối
tương quan hợp lý về tiền lương và thu nhập của các bộ phận lao động xã hội. Từ năm
1992, cải cách chính sách tiền lương với bước đi hợp lý gắn với tinh giản bộ máy, biên
chế và tìm thêm việc làm cho số lao động dôi ra. Đối với chiến sĩ lực lượng vũ trang,

thực hiện tốt chế độ cung cấp đủ tiêu chuẩn hiện vật theo định lượng. Có chế độ phụ
cấp giúp sĩ quan và quân nhân xuất ngũ có thêm điều kiện tạo lập cuộc sống mới.
Thứ hai, đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội theo hướng: mọi người lao động
và đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều góp vào quỹ bảo hiểm xã hội. Từng
bước tách quỹỹ̃ bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức nhà nước khỏi ngân sách
và hình thành quỹỹ̃ bảo hiểm xã hội chung cho người lao động thuộc mọi thành phần
kinh tế. Quan tâm, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có cơng với
cách mạng vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn dân, sớm
ban hành chế độ tồn dân đóng góp vào quỹỹ̃ đền ơn, trả nghĩa để chăm lo đời sống
thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có cơng với cách mạng.
Hình thành các tổ chức của người tàn tật và vì người tàn tật, các hội từ thiện, tổ chức
việc giúp đỡ người già cô đơn và trẻ mồ côi, những người cơ nhỡ, bất hạnh trong cuộc

19


sống. Nhà nước dành một phần quỹỹ̃ dự phòng của ngân sách để chủ động cứu giúp
những người gặp tai nạn do thiên tai.
Thứ ba, bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực của nhân dân phải trở thành hoạt
động tự giác của mỗi người, với sự quan tâm của Nhà nước và của toàn xã hội . Phát
triển các hoạt động y tế bằng khả năng của Nhà nước và của nhân dân theo hướng dự
phịng là chính; kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc. Sắp xếp lại hệ
thống y tế, củng cố y tế cơ sở, đặc biệt là ở miền núi. Xây dựng kế hoạch bảo vệ sức
khỏe theo vùng lãnh thổ. Từng bước khắc phục về cơ bản các bệnh nhiễm trùng và ký
sinh trùng, khống chế bệnh sốt rét, hạn chế đến mức thấp nhất bệnh bướu cổ, ngăn
ngừa và chống bệnh SIDA. Bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em, thực hiện tốt dự phịng
tích cực ngay trong thời kỳ thai nhi. Bảo đảm nhu cầu về thuốc chữa bệnh. Mở rộng
công nghiệp trang thiết bị y tế, tích cực chuẩn bị xây dựng cơng nghiệp hố dược và
kháng sinh, phát triển nuôi trồng cây, con làm thuốc. Phát triển bảo hiểm khám chữa
bệnh, tăng ngân sách cho hoạt động khám chữa bệnh. Phát triển khoa học y dược học,

xây dựng các mũi nhọn y dược học, y tế Việt Nam, chú trọng đào tạo cán bộ, tiếp nhận
tiến bộ khoa học thế giới ứng dụng thích hợp vào nước ta trên cơ sở đông - tây y kết
hợp.
Công tác thể dục, thể thao cần coi trọng nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong
các trường học; tổ chức hướng dẫn và vận động đông đảo nhân dân tham gia rèn luyện
thân thể hằng ngày; nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng vận động viên,
nâng cao thành tích một số mơn thể thao. Cải tiến tổ chức, quản lý các hoạt động thể
dục, thể thao theo hướng kết hợp chặt chẽ các tổ chức nhà nước và các tổ chức xã hội.
Tạo các điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất và khoa học, kỹỹ̃ thuật để phát triển nhanh
một số mơn thể thao Việt Nam có truyền thống và có triển vọng.
Thứ tư là chính sách giải quyết dân số và việc làm được coi là một mục tiêu rất
quan trọng trong kế hoạch 5 năm tới. Giảm tốc độ tăng dân số là một quốc sách, phải
trở thành cuộc vận động rộng lớn, mạnh mẽ và sâu sắc trong tồn dân. Tăng kinh phí,
phương tiện, cán bộ, đồng thời thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục, hành chính
để đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Củng cố các tổ chức chuyên trách
công tác dân số và kế hoạch hố gia đình. Phương hướng quan trọng nhất để giải
20


quyết việc làm là thực hiện tốt Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, coi trọng cả phát
triển sản xuất và dịch vụ. Kết hợp giữa giải quyết việc làm tại chỗ với phân bố lại lao
động theo vùng lãnh thổ, xây dựng các khu kinh tế mới, hình thành các cụm kinh tế kỹỹ̃ thuật - dịch vụ nhỏ ở nông thôn, ở các thị trấn, thị tứ, đồng thời mở rộng xuất khẩu
lao động. Đa dạng hóa việc làm và thu nhập để thu hút lao động của mọi thành phần
kinh tế. Giải quyết việc làm là trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp, mọi đơn vị thuộc
mọi thành phần kinh tế, của từng gia đình, từng người, với sự đầu tư của Nhà nước,
các đơn vị kinh tế và nhân dân. Có chương trình đồng bộ giải quyết việc làm. Sớm
ban hành Luật lao động và các quy chế cụ thể để bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm và
nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động.
Thứ năm là về giáo dục, nhiệm vụ của 5 năm tới là tiếp tục đổi mới, ổn định,
phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Coi trọng chất lượng giáo dục

chính trị, đạo đức cho học sinh và sinh viên; hiện đại hoá một bước nội dung, phương
pháp giáo dục; dân chủ hoá nhà trường và quản lý giáo dục; đa dạng hóa loại hình đào
tạo và loại hình trường lớp; từng bước hình thành những trường bán cơng, dân lập, tư
thục (dạy nghề), phát triển loại trường vừa học vừa làm. Mở rộng đào tạo nghề; bồi
dưỡng nhiều người giỏi về khoa học, công nghệ, kinh doanh, về quản lý kinh tế, xã
hội và nhiều công nhân lành nghề; nâng cao trình độ văn hố, khoa học, kỹỹ̃ thuật cho
người lao động.
Củng cố, ổn định trường lớp hiện có của giáo dục mầm non. Tập trung thực hiện
chương trình phổ cập giáo dục cấp I và chống mù chữ; phát triển cấp II, cấp III phù
hợp với yêu cầu và khả năng của từng địa phương. Củng cố và phát triển trường phổ
thơng cho trẻ em có tật. Sắp xếp lại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề. Mở rộng một cách hợp lý quy mô đào tạo đại học, mở rộng và
nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học. Tiếp tục cải tiến chế độ tuyển sinh và chế độ
học bổng. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thực nghiệm giáo dục, thể chế hoá cơ cấu
của hệ thống giáo dục quốc dân. Tăng đầu tư cho miền núi và vùng dân tộc thiểu số,
mở rộng các trường nội trú, quy hoạch đào tạo cán bộ và trí thức người dân tộc. Trong
những năm tới, cần tổng kết cuộc cải cách giáo dục vừa qua, chuẩn bị tiến hành cuộc
cải cách giáo dục mới theo hướng đào tạo một đội ngũ lao động có trí tuệ thích ứng
với nền kinh tế hàng hố.
21


Những điểm mới của đại hội VII với đại hội VI: Trước hết là đã nêu ra được
những đổi mới về chính sách tiền lương và thu nhập, cùng với đó là chính sách bảo
hiểm y tế đảm bảo lợi ích cho người lao động.
2.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII: (1996)
- Khuyết điểm và yếu kém:
Tình hình xã hội cịn nhiều vấn đề tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết. Nạn tham
nhũng, buôn lậu, lãng phí của cơng chưa ngăn chặn được. Tiêu cực trong bộ máy nhà
nước, Đảng và đoàn thể, trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là trên các lĩnh vực

nhà đất, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế, xuất nhập khẩu... nghiêm trọng kéo
dài. Việc làm đang là vấn đề gay gắt. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng thành thị
và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh.
- Nhiệm vụ và mục tiêu:
Chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội theo quan điểm: tăng trưởng kinh tế gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt q trình phát
triển: khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xóa đói giảm nghèo. Thu hẹp dần
khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng
lớp dân cư, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “đền
ơn đáp nghĩa”, “nhân hậu thủy chung”.
Phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo. Đảng chủ trương phát triển
mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Coi trọng cả quy mô, chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo.
2.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX :
Đại hội IX đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch của 5 năm (1996-2000) : Văn
hóa, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; chủ
trương các chính sách xã hội phải hướng vào phát triển và làm lành mạnh hố
xã hội, thực hiện cơng bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển
sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ
xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp.
22


Yếu kém, khuyết điểm: Một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc chậm được
giải quyết.
Nhiệm vụ và mục tiêu:
Các chính sách xã hội phải hướng vào phát triển và làm lành mạnh hóa
xã hội.
Thực hiện cơng bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển

sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội.
Thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã
hội. Khuyến khích nhân dân làm giàu hợp
pháp.
Đề ra, “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010” nhằm: Đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của
nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội,
thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng
năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích
nhân dân làm giàu hợp pháp.
Giải quyết việc làm là một chính sách xã hội cơ bản. Bằng nhiều giải pháp, tạo
ra nhiều việc làm mới, tăng quỹỹ̃ thời gian lao động được sử dụng, nhất là trong nông
nghiệp và nông thôn. Các thành phần kinh tế mở mang các ngành nghề, các cơ sở sản
xuất, dịch vụ có khả năng sử dụng nhiều lao động. Chăm lo cải thiện điều kiện làm
việc, bảo đảm an toàn và vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp
cho người lao động. Khôi phục và phát triển các làng nghề, đẩy mạnh phong trào lập
nghiệp của thanh niên và đào tạo lao động có nghề. Tổ chức, quản lý chặt chẽ hoạt
động xuất khẩu lao động và bảo vệ quyền lợi người lao động ở nước ngoài. Khẩn
trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực
hiện chính sách bảo hiểm đối với người lao động thất nghiệp.
23


Cải cách cơ bản chế độ tiền lương cán bộ, cơng chức theo hướng tiền tệ hố
đầy đủ tiền lương; điều chỉnh tiền lương tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã

hội; hệ thống thang bậc lương bảo đảm tương quan hợp lý, khuyến khích người có tài,
người làm việc giỏi. Khắc phục tình trạng bất hợp lý về trợ cấp của người nghỉ hưu,
thương binh, bệnh binh và những người có hồn cảnh khó khăn. Các doanh nghiệp
được tự chủ trong việc trả lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất lao động và hiệu
quả của doanh nghiệp. Nhà nước và xã hội tôn trọng thu nhập hợp pháp của người
kinh doanh.
Thực hiện chương trình xố đói, giảm nghèo thơng qua những biện pháp cụ
thể, sát với tình hình từng địa phương, sớm đạt mục tiêu khơng cịn hộ đói, giảm mạnh
các hộ nghèo. Tiếp tục tăng tổng nguồn vốn xóa đói, giảm nghèo, mở rộng các hình
thức tín dụng trợ giúp người nghèo sản xuất, kinh doanh. Có chính sách trợ giá nơng
sản, phát triển việc làm và nghề phụ nhằm tăng thu nhập của các hộ nơng dân. Thực
hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao
gồm bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế, cứu trợ xã
hội những người gặp rủi ro, bất hạnh.
Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và vận động toàn dân tham gia các hoạt
động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những
người có công với nước, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, thương binh và cha mẹ, vợ con
liệt sĩ, người được hưởng chính sách xã hội.
Đẩy mạnh việc xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng ở nơng thơn như
trường học, trạm y tế, điện, nước sạch, chợ và đường giao thơng. Đầu tư nhiều hơn
cho những xã đặc biệt khó khăn. Có chính sách thiết thực khuyến khích cán bộ khoa
học, kỹỹ̃ thuật đến công tác tại các vùng sâu, vùng xa.
Chính sách dân số nhằm chủ động kiểm sốt quy mô và tăng chất lượng dân số
phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản - kế hoạch hố gia đình; giải quyết tốt mối quan hệ
giữa phân bố dân cư hợp lý với quản lý dân số và phát triển nguồn nhân lực.
Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, nhằm
giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi. Củng cố
24



và hoàn thiện mạng lưới y tế, đặc biệt là ở cơ sở. Xây dựng một số trung tâm y tế
chuyên sâu. Đẩy mạnh sản xuất dược phẩm, bảo đảm các loại thuốc thiết yếu đến mọi
địa bàn dân cư. Thực hiện cơng bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe; đổi mới cơ chế
và chính sách viện phí; có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo, tiến
tới bảo hiểm y tế toàn dân. Nhà nước ban hành chính sách quốc gia về y học cổ
truyền. Kết hợp chặt chẽ y học hiện đại với y học cổ truyền từ khâu đào tạo đến khâu
khám bệnh và điều trị.
Chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo
điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát triển hài
hoà về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức; trẻ em mồ cơi, bị khuyết tật, sống trong
hồn cảnh đặc biệt khó khăn có cơ hội học tập và vui chơi.
Phát động phong trào toàn dân tập luyện thể dục, thể thao, nâng cao sức khoẻ
và tầm vóc người Việt Nam; phổ biến rộng rãi kiến thức về tự bảo vệ sức khoẻ. Tăng
đầu tư của Nhà nước cho lĩnh vực thể thao thành tích cao.
Tăng cường lãnh đạo và quản lý phong trào tồn dân đấu tranh phịng chống tội
phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất
là nạn mại dâm, ma tuý; ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi đại dịch HIV/AIDS. Xây dựng lối
sống văn minh, lành mạnh.
Các chính sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hố, đề cao trách
nhiệm của chính quyền các cấp, huy động các nguồn lực trong nhân dân và sự tham
gia của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội.
Giáo dục: Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung,
phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện
"chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá". Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân
bằng những hình thức giáo dục chính quy và khơng chính quy, thực hiện "giáo dục
cho mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học tập". Củng cố thành tựu xóa mù
chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, phấn đấu để ngày càng có nhiều trường tiểu học đủ
điều kiện học hai buổi mỗi ngày tại trường, được học ngoại ngữ và tin học. Thực hiện
công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội học tập, tiếp

tục phát triển các trường phổ thông nội trú dành cho con em dân tộc thiểu số, chú
25


×