Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tieu luan cao học_Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bổ nhiệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.26 KB, 32 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................................................1
1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI....................................................................................................................1
2. MỤC ĐỊCH, NHIỆU VỤ CỦA TIỂU LUẬN...............................................................................3
3. NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ Ý NGHĨA CỦA TIỂU LUẬN............................................................3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN..........................................................................4
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ CỦA ĐẢNG.............................4
1.1.1. Khái niệm chung......................................................................................................................4
1.1.2. Vị trí, tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ.........................................................4
1.2. BẢN CHẤT VÀ NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ.......................7
1.3. NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ, BỔ
NHIỆM CÁN BỘ..............................................................................................................................8
1.3.1. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ.........................................8
1.3.2. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ........................................9
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN
CHỦ TRONG BỔ NHIỆM CÁN BỘ THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY
QUẢN LÝ Ở HUYỆN LỆ THỦY TỈNH QUẢNG BÌNH..............................................................13
2.1. TÌNH HÌNH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN QUẢN LÝ..............14
2.2. THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
TRONG BỔ NHIỆM CÁN BỘ THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN QUẢN LÝ
Ở HUYỆN LỆ THỦY......................................................................................................................15
2.2.1. Những ưu điểm và nguyên nhân............................................................................................15
2.2.2. Những hạn chế yếu kém........................................................................................................18
2.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LƯU Ý TRONG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG
DÂN CHỦ.......................................................................................................................................18
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TỐT NGUYÊN TẮC.....................................................20
TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG BỔ NHIỆM CÁN BỘ THUỘC DIỆN....................................20
BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN UỶ QUẢN LÝ................................................................................20
3.1. THỐNG NHẤT NHẬN THỨC TRONG CÁC CẤP ỦY, TỔ CHỨC ĐẢNG VỀ
NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG BỔ NHIỆM CÁN BỘ..................................20
3.2. HOÀN THIỆN VÀ THỰC HIỆN NGHIÊM TÚC QUY CHẾ, QUY TRÌNH BỔ



0


NHIỆM CÁN BỘ THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUẢN LÝ........................20
3.3. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TOÀN DIỆN, NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ THỰC
HIỆN CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA CÁC CẤP ỦY ĐẢNG............................................................21
3.4. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁC CƠ QUAN THAM MƯU VỀ CÔNG TÁC TỔ
CHỨC– CÁN BỘ............................................................................................................................21
KẾT LUẬN......................................................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................................24

MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Xây dựng đội ngũ cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là khâu quan trọng
có tính quyết định góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của
nước ta. Có thể nói rằng cán bộ và cơng tác cán bộ là khâu then chốt trong
công tác xây dựng Đảng cũng như toàn bộ hoạt động của Đảng ta. Trong sự
nghiệp phát triển đi lên của đất nước hiện nay nếu thực hiện khơng tốt cơng
tác cán bộ, khơng có đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực thì sẽ khó thúc
đẩy tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”;
“công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Hội nghị lần
thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII khẳng định: "Cán bộ là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng”.
Công tác cán bộ bao gồm nhiều khâu, nhiều việc, từ tìm hiểu, tuyển chọn

cán bộ đến đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, điều động, bổ nhiệm, quản lý, đánh
giá, chăm sóc sức khỏe và đời sống, khen thưởng, kỷ luật cán bộ... Các khâu
cơng việc đó liên kết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau nhằm xây dựng đội
ngũ cán bộ có đủ số lượng và chất lượng cao đáp ứng nhiệm vụ cách mạng.
1


Trong các khâu đó, việc bổ nhiệm cán bộ vào chức danh lãnh đạo, quản lý có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả và chất lượng
của các khâu công việc khác.
Để bổ nhiệm đúng cán bộ phải thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ, do tập thể quyết định, đồng thời phát huy trách nhiệm của từng thành
viên lãnh đạo, thực sự coi trọng vai trò, quyền hạn của người đứng đầu các tổ
chức, các cơ quan, đơn vị trong công tác cán bộ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ phải được thể chế
hóa thành các quy chế, quy trình để thực hiện đúng và thống nhất. Những
nhận xét, kết luận về cán bộ và quy trình xem xét bổ nhiệm cán bộ nhất thiết
phải do cấp ủy cơ quan lãnh đạo có có thẩm quyền, quyết định, sau khi đã lắng
nghe đầy đủ ý kiến của các cơ quan có liên quan, ý kiến đóng góp của cán bộ,
nhân dân và việc tự phê bình của cán bộ; kết hợp đúng đắn chế độ tập thể với
trách nhiệm cá nhân, dân chủ thật sự, khơng dân chủ hình thức; huy động mọi
cấp, mọi ngành phối hợp với cơ quan tham mưu giúp cấp ủy làm công tác
quản lý cán bộ. Trong những năm qua, việc thực hiện hệ thống các quy chế,
quy định, quy trình về cơng tác cán bộ của Đảng nói chung, trong bổ nhiệm
cán bộ nói riêng ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình đã đạt được những kết
quả quan trọng. Các quy chế đó đã phát huy dân chủ, thực hiện nhiều hình
thức cơng khai lấy ý kiến của cán bộ cấp dưới, của tập thể, của nhân dân tham
gia xây dựng đội ngũ cán bộ góp phần khắc phục một phần khuyết điểm trước
đây coi công tác cán bộ chỉ là việc riêng của một số người, của cơ quan tổ
chức, tạo ra bước tiến bộ đáng kể trong công tác cán bộ.

Tuy nhiên, chất lượng thực hiện các quy chế, quy trình bổ nhiệm chưa
cao và chưa đồng đều. Cịn tình trạng trên là do chưa có sự thống nhất cao
trong nhận thức đối với những quan điểm chủ yếu về tiêu chuẩn cán bộ, chưa
thực sự lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo chủ yếu về phẩm chất
và năng lực cán bộ; cách đánh giá cán bộ chung chung, thiếu cụ thể, hình thức,
2


máy móc, thiếu căn cứ xác đáng. Khơng ít cấp ủy, tổ chức đảng và người lãnh
đạo nắm không chắc, đánh giá không đúng cán bộ; thiếu khách quan, thành
kiến hẹp hịi, định kiến với những người trung thực, có tinh thần đấu tranh
thẳng thắn. Một số bước trong quy trình xem xét bổ nhiệm thực hiện chưa thật
chặt chẽ, hoặc hình thức, nặng nề khơng cần thiết. Chưa thực hiện tốt quy
trình dân chủ, cơng khai và minh bạch trong bổ nhiệm cán bộ. Cịn để xảy ra
tình trạng lợi dụng dân chủ tung dư luận xuyên tạc, gây nhiễu thông tin, làm
lẫn lộn trắng đen. Do quản lý cán bộ chưa tốt, một số cấp ủy và cơ quan quản
lý không hiểu đúng cán bộ, không theo dõi kịp thời những diễn biến tư tưởng
và hành động của cán bộ, nên đã bố trí một số cán bộ phẩm chất đạo đức kém
vào những cương vị lãnh đạo quan trọng, dẫn đến vi phạm kỷ luật, thậm chí vi
phạm pháp luật, gây ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và làm giảm sút lịng tin
của nhân dân đối với Đảng.
Trong bối cảnh trên, cần có một sự nghiên cứu toàn diện về việc tổ chức
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, các quy chế, quy định, quy trình
về cơng tác bổ nhiệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở
huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình. Từ những lý do trên, tơi lựa chọn đề tài
"Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bổ nhiệm cán bộ thuộc
diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình
giai đoạn hiện nay". Đây là vấn đề cấp thiết, phù hợp với nhiệm vụ trong
công tác xây dựng Đảng hiện nay và đáp ứng nhu cầu thực tiễn của địa
phương.

2. MỤC ĐỊCH, NHIỆU VỤ CỦA TIỂU LUẬN

Mục đích của tiểu luận là đề xuất những phương hướng, giải pháp góp
phần thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bổ nhiệm cán
bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở huyện Lệ Thủy tỉnh
Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, tiểu luận có những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
3


Trình bày rõ quan niệm về nguyên tắc tập trung dân chủ và việc thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong cơng tác cán bộ của Đảng;
Phân tích những ưu điểm và hạn chế trong thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ khi bổ nhiệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở
huyện Lệ Thủy thời gian qua;
Đề xuất các giải pháp khả thi thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ trong bổ nhiệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
3. NHỮNG ĐĨNG GĨP VÀ Ý NGHĨA CỦA TIỂU LUẬN

Đánh giá khách quan thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong bổ nhiệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở
huyện Lệ Thủy;
Đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm góp phần thực hiện đúng
ngun tắc tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ Huyện ủy quản lý ở huyện Lệ Thủy trong giai đoạn hiện nay;
Tiểu luận có thể được dùng làm tài liệu để các cấp ủy, cơ quan tổ chức cán bộ tham khảo cho việc nâng cao chất lượng bổ nhiệm cán bộ thuộc diện
Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý trong giai đoạn hiện nay.

4



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ CỦA ĐẢNG

1.1.1. Khái niệm chung
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của quản lý,
phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý cũng như yêu cầu và
mục tiêu của quản lý.
Nguyên tắc tập trung dân chủ đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu
giữa tập trung và dân chủ, càng mở rộng dân chủ thì yêu cầu tập trung thống
nhất càng cao, khắc phục tình trạng dân chủ quá mức đưa đến tự do vơ chính
phủ cũng như tập trung q mức dẫn đến chuyên quyền, độc đoán, quan liêu.
Tập trung phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ phải được thực hiện trong khuôn
khổ tập trung. Đây là một nguyên tắc rất quan trọng trong quản lý, nó có tính
khách quan, phổ quát song thực hiện không đơn giản, phụ thuộc vào bản lĩnh,
phẩm chất đạo đức và phong cách của người quản lý.
1.1.2. Vị trí, tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
các đảng cộng sản. Song, nguyên tắc này không chỉ đóng khung trong đảng
cộng sản, mà khi giành được chính quyền, nó đã được thực hiện trong quản lý
và hoạt động của nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) và của nhiều tổ chức
chính trị - xã hội trong chế độ XHCN.
Nguyên tắc tập trung dân chủ được C. Mác và Ph. Ăng-ghen nêu ra lần
đầu vào năm 1847 trong việc tổ chức “Liên minh những người cách mạng”;
sau đó, được tiếp tục khẳng định trong tổ chức “Liên minh cơng nhân quốc tế”
(Quốc tế I) do chính C.Mác sáng lập vào năm 1864 và cùng với Ph.Ăng-ghen
lãnh đạo tổ chức này nhằm đáp ứng nhu cầu của của phong trào công nhân là
phải thống nhất lực lượng trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản,

bảo đảm sự ổn định, nhất trí và tính tổ chức của đội tiên phong.
5


V.I.Lênin là người kế thừa và phát triển sáng tạo nguyên tắc tập trung dân
chủ phù hợp với những điều kiện lịch sử và thời đại mới. Nguyên tắc tập
trung dân chủ được V.I.Lênin đề cập sâu từ năm 1905. Tại Hội nghị Trung
ương Đảng Công nhân dân chủ-xã hội Nga, V.I.Lênin đề nghị đưa nguyên
tắc tập trung dân chủ vào chương trình nghị sự của Hội nghị và được Hội
nghị chấp thuận. Tuy nhiên, tại Hội nghị, nguyên tắc tập trung dân chủ vẫn
chưa được đưa vào Điều lệ của Đảng Cơng nhân dân chủ-xã hội Nga, vì cịn
có những ý kiến khác nhau. Năm 1906, Đảng Công nhân dân chủ-xã hội
Nga họp Đại hội từ ngày 23-4 đến ngày 8-5 để thống nhất lực lượng và
nguyên tắc tổ chức của Đảng. Tại Đại hội này, V.I.Lênin trình bày “Cương
lĩnh hành động” của Đảng. Người viết: “nguyên tắc tập trung trong Đảng
hiện nay được mọi người thừa nhận”. Đại hội nhất trí thơng qua Điều lệ
mới của Đảng. Điều lệ ghi rõ: “Tất cả các tổ chức đảng phải được xây dựng
theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Như vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ
lần đầu tiên được ghi trong Điều lệ của một đảng cộng sản vào năm 1906.
V.I. Lênin thường viết “dân chủ” là tính từ giải nghĩa cho danh từ “tập
trung”, nên khi dịch ra tiếng Việt là “tập trung dân chủ”. Còn Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường viết “dân chủ tập trung”. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II
(năm 1951) của Đảng ta do Người trình bày ghi rõ: “Về tổ chức, Đảng Lao
động Việt Nam theo chế độ dân chủ tập trung”. Đây chỉ là cách viết theo văn
phong khác nhau (phương Tây và Hán ngữ), còn về thực chất quan niệm của
V.I. Lênin và của Hồ Chí Minh là thống nhất.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc xây dựng Đảng đã được kiểm
nghiệm lâu dài và có hiệu quả nhất đối với việc xây dựng tổ chức; là cơ sở
vững chắc cho hoạt động của các đảng cộng sản và đảng công nhân. Nguyên
tắc tập trung dân chủ bắt nguồn từ tính chất của bản thân đảng cộng sản với tư

cách là một một tổ chức chính trị thống nhất về cả tư tưởng, đường lối, tổ chức
và hành động. V.I. Lênin viết: “Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền,
6


giai cấp vơ sản khơng có vũ khí nào hơn là sự tổ chức”.
Tại Việt Nam, thuật ngữ “nguyên tắc tập trung” xuất hiện lần đầu tiên vào
năm 1929. Trong Điều lệ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (gọi tắt là
Thanh niên) - một trong các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội (tháng 51929) ghi: “Hội tổ chức theo nguyên tắc tập trung”.Tiếp đó, tháng 6 - 1929,
Đơng Dương Cộng sản Đảng họp Đại hội lần thứ nhất (Đại hội thành lập),
thơng qua Điều lệ Đảng, trong đó ghi: “Đảng Cộng sản tổ chức theo lối dân
chủ tập trung”. Tại Đại hội lần thứ nhất (Đại hội thành lập, tháng 11- 1929),
An Nam Cộng sản Đảng thông qua Điều lệ Đảng, trong đó ghi: “Đảng tổ chức
theo dân chủ tập trung”. Trong “Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam”
được thông qua Hội nghị thành lập Đảng ngày 03-02-1930 chưa ghi nguyên
tắc tập trung dân chủ. Tháng 10-1930 Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ
nhất, quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương và thơng
qua “Điều lệ Đảng Cộng sản Đơng Dương”, trong đó ghi: “Đảng Cộng sản
Đông Dương cũng như các chi bộ của Quốc tế Cộng sản phải tổ chức theo lối
dân chủ tập trung”. Điều lệ Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 31935), Điều lệ Đại hội II Đảng Lao động Việt Nam (tháng 2-1951) đều ghi
nguyên tắc tổ chức của Đảng là “dân chủ tập trung”. Điều lệ Đảng được thông
qua tại Đại hội III (năm 1960), Đại hội IV (năm 1976), Đại hội V (năm 1981),
Đại hội VI (năm 1986), Đại hội VII (năm 1991), Đại hội VIII (năm 1996), Đại
hội IX (năm 2001), Đại hội X (năm 2006) đều ghi: “Đảng tổ chức theo nguyên
tắc tập trung dân chủ” và xác định tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ
bản của Đảng. Về mặt nhà nước, Điều 6, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam năm 1992, ghi: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác
của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”,
Điều 8, Hiến Pháp năm 2013, ghi “Nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến
pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện

7


nguyên tắc tập trung dân chủ”
Đảng ta nhận thức rõ việc tổ chức sinh hoạt nội bộ của Đảng trên cơ sở
tập trung dân chủ là sự bảo đảm có tính chất quyết định trong việc vạch ra
đường lối, chiến lược, sách lược; trong việc hình thành các cơ quan lãnh đạo
và tạo ra những tiền đề cần thiết để bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được
đúng hướng và phát triển.
Trong Đảng đều có chung nhận thức là, thực hiện tập trung dân chủ đúng
đắn sẽ dẫn đến sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thể hiện sự sinh
hoạt chặt chẽ và đoàn kết nội bộ; Đảng được xây dựng và hoạt động trên cơ sở
nguyên tắc thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Cơ quan lãnh đạo cao
nhất là Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Trong thời gian giữa hai Đại hội,
sự lãnh đạo của Đảng tập trung vào Ban Chấp hành Trung ương. Những nghị
quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng là sản phẩm kết tinh trí tuệ của
tồn Đảng. Khi nghị quyết của Đại hội Đảng và nghị quyết của Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng đã được thơng qua thì trở thành “pháp lệnh” đối
với các tổ chức đảng và đảng viên. Nghị quyết đó chính là thành quả của một
q trình thảo luận đóng góp dân chủ trong Đảng. Nghị quyết đúng và đi vào
cuộc sống là sự thể hiện một cách đầy đủ nguyên tắc (chế độ) tập trung dân
chủ trong Đảng và trong sinh hoạt của Đảng. Vì vậy, nếu xem nhẹ, buông lỏng
hoặc thực hiện không đúng nguyên tập trung dân chủ sẽ gây những thiệt hại
nghiêm trọng đến năng lực hoạt động của Đảng, đến vai trò lãnh đạo và ảnh
hưởng của Đảng trong xã hội, thậm chí dẫn đến Đảng bị tan rã.
Một trong những đặc trưng cơ bản của đảng vô sản kiểu mới là thừa nhận
và thực hiện triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt nội
bộ và toàn bộ hoạt động của mình. Đây khơng chỉ là một ngun tắc tổ chức
cơ bản đối với đảng vô sản chân chính, mà cịn là một quy luật và nhu cầu của
quá trình phát sinh, phát triển và trưởng thành của đảng.

Với tư cách là một đảng cầm quyền, vai trò, năng lực và sức chiến đấu
8


của Đảng ta một phần cơ bản và quyết định bởi mức độ nhận thức và khả năng
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là một trong những nhân tố quyết
định sự sống còn của Đảng gắn với sự thành bại của công cuộc đổi mới xây
dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Đây
cũng chính là một trọng tâm chống phá của kẻ thù nhằm thúc đẩy sự tự tan vỡ
của Đảng.
Mặc dù trên thế giới có ý kiến khác nhau, nhưng Đảng ta trước sau như
một khẳng định, Đảng được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc TTDC.
1.2. BẢN CHẤT VÀ NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ

Dù diễn đạt là “tập trung dân chủ” hay “dân chủ tập trung” thì đây vẫn là
một nguyên tắc hồn chỉnh chứ khơng phải là sự lắp ghép cơ học giữa hai
thành tố “tập trung” và “dân chủ”.
V.I. Lênin viết: “Chế độ tập trung hiểu theo nghĩa thực chất dân chủ, đã
bao hàm khả năng - khả năng này do lịch sử tạo ra lần đầu tiên - phát huy một
cách đầy đủ và tự do không những các đặc điểm của địa phương mà cả những
sáng kiến của địa phương, tính chủ động của địa phương, tính chất mn hình
mn vẻ của các đường lối, của các phương pháp và phương tiện để đạt mục
đích chung”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập
trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá
nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải
phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”.
Rõ ràng, nguyên tắc tập trung dân chủ là một chỉnh thể thống nhất,
nguyên tắc này hướng tới sự tập trung thống nhất, nhưng là tập trung trên cơ
sở dân chủ, mang tính chất dân chủ; bảo đảm, củng cố và tăng cường tập trung

phải đặt trên cơ sở giữ vững, mở rộng và phát huy dân chủ. Đến lượt mình,
dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ được thực hiện đúng đắn và
đầy đủ bằng sự bảo đảm và chế ước bởi tập trung; mở rộng và phát huy dân
9


chủ khơng có mục đích gì khác ngồi việc hướng tới củng cố sự tập trung
trong Đảng.
Nói cụ thể, tập trung trên cơ sở dân chủ, mang tính chất dân chủ là sự tập
trung trí tuệ ý chí và quyền lực của đa số, thiểu số phải phục tùng; là sự tập
trung gắn liền giữa cấp trên và cấp dưới, cấp trên lắng nghe và tôn trọng cấp
dưới, kiểm tra cấp dưới và cấp dưới tự giác phục tùng cấp trên, giám sát cấp
trên. Đồng thời, tập trung trên cơ sở dân chủ, được quyết định bởi nền tảng
dân chủ là sự tập trung do toàn thể đảng viên kiến lập nên, khơng phải do một
ai đó ban phát hoặc một nhóm nào có quyền thâu tóm; là sự tập trung của ý
chí, trí tuệ, quyền lực của đa số tạo nên một cách thống nhất và tự giác chứ
không phải là thứ tập trung được thiết lập một cách độc đốn, cưỡng bức nào
đó. Nó khác hẳn, đối lập với mọi thứ: tập trung quan liêu, độc đoán chuyên
quyền; tập trung nhằm trấn áp cấp dưới, trấn áp đảng viên, thoát ly cơ sở, xa
rời thực tiễn, tập trung theo kiểu hình hành “đẳng cấp” trong Đảng.
1.3. NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ,
BỔ NHIỆM CÁN BỘ

1.3.1. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác
cán bộ
Nội dung khái quát của nguyên tắc TTDC trong công tác cán bộ được
Đảng ta khẳng định:
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ,
đồng thời đề cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và người
đứng đầu tổ chức. Cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền phải chủ trì và chịu trách

nhiệm về công tác tổ chức cán bộ theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể
quyết định; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và trách nhiệm cá nhân, nhất là
trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ.
Nội dung cụ thể của nguyên tắc này là:
10


Một là, Đảng đề ra đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách và quy
chế quản lý cơng tác cán bộ; lãnh đạo và kiểm tra các cấp, các ngành tổ chức
thực hiện; trực tiếp quản lý cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong các tổ chức của hệ
thống chính trị như cán bộ lãnh đạo các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang,
đoàn thể nhân dân, tổ chức kinh tế - xã hội; quản lý cán bộ theo chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và điều lệ của đoàn thể.
Hai là, Đảng thực hiện đường lối, chính sách cán bộ thơng qua các tổ
chức đảng (ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy...) và đảng viên trong cơ
quan nhà nước và các đoàn thể nhân dân, thực hiện đúng quy trình, thủ tục,
pháp luật của Nhà nước và điều lệ của các đoàn thể và tổ chức xã hội.
Ba là, phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp ủy và các tổ
chức đảng, đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ
của các ngành, các cấp, coi đây là một trong những công việc quan trọng bậc
nhất của lãnh đạo công tác cán bộ.
Bốn là, những vấn đề về chủ trương, chính sách, đánh giá, bố trí, sử
dụng điều động, đề bạt, khen thưởng, xử lý kỷ luật cán bộ nhất thiết phải do
cấp ủy có thẩm quyền quyết định theo đa số.
Sáu là, mọi tổ chức đảng và cán bộ đảng viên phải “nghiêm túc chấp
hành các nghị quyết của cấp uỷ về cán bộ và công tác cán bộ; cá nhân phải
chấp hành quyết định của tập thể; tổ chức đảng cấp dưới phải chấp hành quyết
định của tổ chức đảng cấp trên”.
Bảy là, nguyên tắc TTDC trong cơng tác cán bộ phải được thể chế hóa,
cụ thể hóa thành các quy chế, quy định, quy trình. Những nhận xét, kết luận về

cán bộ nhất thiết phải do cấp ủy có thẩm quyền quyết định sau khi đã lắng
nghe đầy đủ ý kiến của các cơ quan có liên quan, ý kiến đóng góp của nhân
dân và tự phê bình của cán bộ. Kết hợp đúng đắn chế độ tập thể với trách
nhiệm cá nhân, dân chủ với tập trung, khơng dân chủ hình thức. Huy động mọi
cấp, mọi ngành phối hợp với cơ quan tham mưu giúp cấp ủy làm tốt công tác
11


cán bộ.
Các cấp ủy, tổ chức đảng theo thẩm quyền cần cụ thể hóa để các quy
định, quy chế, quy trình của cơng tác cán bộ mà Trung ương đã xác định phù
hợp với thực tiễn của từng địa phương, ngành đáp ứng yêu cầu xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý; xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong hệ
thống chính trị (HTCT) tham gia, phối hợp trong công tác cán bộ làm cơ sở để
thực hiện tốt các khâu trong công tác cán bộ
1.3.2. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán
bộ
Cần nói ngay rằng, từ khi trong tồn Đảng đều đã thực hiện công tác
quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, việc bổ nhiệm cán bộ khác căn bản với
khi chưa có quy hoạch cán bộ. Hiện nay, nói chung, cán bộ được xem xét bổ
nhiệm phải trong diện quy hoạch cả nguồn tại chỗ và cán bộ ở nơi khác, đã có
thời gian bồi dưỡng, thử thách; khơng phải khi có nhu cầu bổ nhiệm mới giới
thiệu cán bộ bất kỳ, chưa được dự kiến. Trường hợp điều động, luân chuyển
kết hợp bổ nhiệm (không phải trong quy hoạch từ nguồn tại chỗ) có quy định
riêng, nhưng nói chung cán bộ đó cũng trong quy hoạch bổ nhiệm giữ chức vụ
cao hơn ở nơi công tác cũ. Vì vậy, khâu xem xét bổ nhiệm được bắt đầu từ các
cán bộ trong quy hoạch cho từng chức danh.
Nguyên tắc TTDC thể hiện trong quá trình xem xét bổ nhiệm cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở những nội dung chủ yếu sau:
Một là: Người đứng đầu và các thành viên cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh

đạo cơ quan, đơn vị đề xuất nhân sự đề nghị bổ nhiệm và nêu nhận xét, đánh
giá về cán bộ được đề xuất.
Người lãnh đạo, quản lý đề cao trách nhiệm của mình trong việc đề
xuất, nhận xét, đánh giá cán bộ, giúp tập thể cấp ủy xem xét, quyết định.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX trình Đại hội
X đã xác định: Thực hiện chế độ trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ
12


lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực tiếp giới
thiệu để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Hai là: Cá nhân, tập thể đề nghị bổ nhiệm cán bộ phải có ý thức xây
dựng cao, chịu trách nhiệm về đề nghị của mình.
Đây là biện pháp cần thiết để quy trách nhiệm cho những cá nhân và tổ
chức đề xuất cán bộ bổ nhiệm, nhằm nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người
lãnh đạo đối với việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, tránh tình trạng dựa
dẫm, đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau, khi bổ nhiệm cán bộ sai thì khơng ai chịu
trách nhiệm, đề phòng nguy cơ tư lợi trong công tác cán bộ.
Trong trường hợp người lãnh đạo, quản lý không đề xuất, bồi dưỡng
được cán bộ dự nguồn để bổ nhiệm thì họ cũng phải chịu trách nhiệm như
những trường hợp đề xuất bổ nhiệm không đúng, gây hậu quả không tốt.
Ba là: Tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị thảo luận
nhận xét, đánh giá cán bộ một cách dân chủ, công khai trước khi biểu quyết
(bằng phiếu kín) đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định bổ nhiệm.
Quyết định bổ nhiệm cán bộ cùng với nhận xét, đánh giá chính thức về
cán bộ đề nghị bổ nhiệm do tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan,
đơn vị xem xét, thảo luận quyết định theo đa số đúng theo Quyết định số 68QĐ/TW ngày 04-7-2007 của Bộ Chính trị. Trường hợp khơng thuộc thẩm
quyền theo phân cấp quản lý thì tập thể cấp ủy lãnh đạo cơ quan, đơn vị đề
nghị lên cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Bốn là: Cấp ủy, tổ chức đảng và tập thể lãnh đạo các cơ quan có thẩm

quyền xem xét, quyết định bổ nhiệm một cách dân chủ trên cơ sở phát huy đầy
đủ trách nhiệm và quyền hạn của từng thành viên, nhất là của người đứng đầu
cơ quan, đơn vị.
Việc đánh giá, lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ phải do tập thể cấp ủy và tổ
chức đảng, tập thể lãnh đạo các cơ quan có thẩm quyền thảo luận dân chủ và
quyết định theo đa số.
13


Trường hợp người đứng đầu cơ quan, đơn vị và tập thể lãnh đạo có ý
kiến khác nhau thì cần báo cáo đầy đủ lên cấp có thẩm quyền xem xét, quyết
định. Trường hợp tập thể lãnh đạo giới thiệu hai người có số phiếu ngang nhau
thì chọn nhân sự do người đứng đầu giới thiệu để quyết định bổ nhiệm hoặc
trình cấp có thẩm quyền bổ nhiệm.
Năm là: thực hiện quy trình bổ nhiệm chặt chẽ qua các bước sau:
- Trước hết, khi cơ quan, đơn vị có nhu cầu, cấp ủy tổ chức đảng phải
trình cơ quan có thẩm quyền về yêu cầu, số lượng và dự kiến phân công công
tác đối với cán bộ sẽ được bổ nhiệm. Sau khi được cơ quan có thẩm quyền
đồng ý về chủ trương mới thực hiện các bước tiếp theo.
- Người đứng đầu và các thành viên cơ quan, đơn vị đề xuất nhân sự dự
kiến bổ nhiệm.
Căn cứ quy hoạch cán bộ, những người có trách nhiệm đề xuất nhân sự,
tiến hành đánh giá, nhận xét đầy đủ về cán bộ được dự kiến bổ nhiệm làm căn
cứ để lấy ý kiến cán bộ trong cơ quan, đơn vị.
- Tổ chức lấy ý kiến cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị.
Cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ tiến hành các bước lấy ý kiến cán bộ,
công chức trong cơ quan, đơn vị về cán bộ dự kiến bổ nhiệm.
- Tập thể lãnh đạo xem xét, quyết định bổ nhiệm hoặc trình lên cấp trên
bổ nhiệm theo quy định phân cấp quản lý cán bộ.
Tập thể lãnh đạo (cấp ủy đảng, lãnh đạo đơn vị) căn cứ ý kiến đề xuất

của các cá nhân có trách nhiệm, sự tín nhiệm của tập thể xem xét, đánh giá và
thảo luận một cách tồn diện, sau đó quyết định theo ý kiến của đa số các
thành viên trong lãnh đạo. Trường hợp có ý kiến khác nhau giữa tập thể lãnh
đạo và người đứng đầu cơ quan, đơn vị, thì báo cáo lên cấp trên xem xét,
quyết định.
Đối với những cán bộ thuộc diện của Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý
thì quy trình nêu trên được bổ sung thêm những yêu cầu cao hơn.
14


Khi cần thiết, cơ quan có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm cán bộ gặp,
trao đổi ý kiến hoặc uỷ quyền cho cơ quan tham mưu về công tác tổ chức - cán
bộ gặp, trao đổi ý kiến với nhân sự trước khi quyết định.
Quy trình xem xét bổ nhiệm lại cũng cơ bản như quy trình xem xét bổ
nhiệm lần đầu, gồm các bước chính:
- Cán bộ làm báo cáo tự nhận xét, đánh giá về việc thực hiện chức trách,
nhiệm vụ trong thời hạn giữ chức vụ.
- Tập thể cán bộ, công chức trong đơn vị tham gia ý kiến bằng phiếu kín.
- Cán bộ đứng đầu cơ quan, đơn vị trực tiếp sử dụng cán bộ nhận xét,
đánh giá và đề xuất ý kiến có bổ nhiệm lại hay không.
- Tập thể lãnh đạo xem xét, quyết định hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền
quyết định theo phân cấp quản lý cán bộ.

15


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN
CHỦ TRONG BỔ NHIỆM CÁN BỘ THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ
HUYỆN ỦY QUẢN LÝ Ở HUYỆN LỆ THỦY TỈNH QUẢNG BÌNH

Lệ Thuỷ là huyện cực Nam của tỉnh Quảng Bình, phía Nam giáp huyện
Vĩnh Linh (Quảng Trị), phía Bắc giáp huyện Quảng Ninh, phía Tây giáp nước
CHDCND Lào, phía Đơng giáp biển Đơng. Địa hình đa dạng bao gồm biển,
đồng bằng, trung du, núi cao. Diện tích tự nhiên là 141.413ha. Tồn huyện có
28 xã, thị trấn, trong đó 13 xã thuộc diện khó khăn, đặc biệt khó khăn (03 xã
miền núi: Ngân Thuỷ, Lâm Thuỷ, Kim Thuỷ; 4 xã bãi ngang: Ngư Thuỷ Nam,
Ngư Thuỷ Bắc, Ngư Thuỷ Trung, Sen Thuỷ và 4 xã thuộc diện khó khăn: Thái
Thuỷ, Hồng Thuỷ, Hưng Thuỷ).
Là huyện có tiềm năng, lợi thế đa dạng, lực lượng lao động dồi dào; quá
trình tổ chức thực hiện công cuộc đổi mới đội ngũ đúc rút được nhiều bài học
kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo. Hệ thống kết cấu hạ tầng được đầu tư
nâng cấp, từng bước hoàn thiện; các tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơng nghệ
mới, những hơ hình điển hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả ngày càng cao.
Tuy nhiên là một huyện nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp,
thường xuyên chịu tác động bất lợi của thiên tai, thời tiết. Chất lượng nguồn
lao động còn thấp, địa bàn khơng có cửa khẩu, bến cảng và xa các trung tâm
kinh tế lớn, không thuận lợi cho việc thu hút đầu tư, nhất là các lĩnh vực
thương mại, dịch vụ, công nghiệp để tạo sự bứt phá trong phát triển kinh tế xã
hội.
Hiện nay, Đảng bộ Huyện Lệ Thuỷ có 10760 đảng viên , 65 TCCS
Đảng với 07 loại hình, trong đó có 38 đảng bộ (có 10 đảng bộ khối cơ quan, 28
đảng bộ xã, thị trấn), 27 chi bộ cơ sở; có 399 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở.
Trong đó: 338 chi bộ trực thuộc đảng ủy xã, thị trấn; 61 chi bộ trực thuộc đảng
16


ủy cơ quan; 27 đảng bộ bộ phận, 111 chi bộ trực thuộc đảng ủy bộ phận. Mơ
hình tổ chức đảng trên địa bàn huyện Lệ Thủy cơ bản phù hợp, ổn định, đang
phát huy tốt vai trò là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
Ban Thường vụ Huyện ủy đã tập trung chỉ đạo đổi mới về công tác cán

bộ, tạo chuyển biến tích cực về “đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Xây dựng được đội ngũ cán bộ có
bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh; có
tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng bộ và nhân dân.
Những năm qua, Đảng bộ huyện luôn coi trọng công tác cán bộ, nhất là
trong bổ nhiệm cán bộ đã được cấp uỷ lãnh đạo thực hiện đúng quy trình, thủ
tục, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ. Qua đó từng bước xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành có đủ tiêu chuẩn, góp phần
xây dựng tổ chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị vững mạnh.
2.1. TÌNH HÌNH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN
QUẢN LÝ

Đội ngũ cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý ở huyện Lệ Thủy phần lớn
được thử thách, rèn luyện, trưởng thành từ cơ sở và các cơ quan chun mơn,
tổ chức đồn thể. Nhìn chung, đội ngũ này có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin
tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng. Đại bộ phận cán bộ có ý thức tổ chức
kỷ luật tốt, đồn kết thống nhất, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống lành
mạnh, gắn bó với quần chúng; có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn; tận tụy
với công việc, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, khắc phục khó khăn
vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Xuất phát từ yêu cầu thực tế nhiệm vụ của cơ
sở, đảng ủy các xã, thị trấn đã có chuyển biến trong nhận thức về công tác cán
bộ, xác định rõ công tác cán bộ là trách nhiệm của cấp ủy nên đã quan tâm
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ. Việc bố trí, đề bạt cán bộ đều do tập thể có
thẩm quyền quyết định theo phân công, phân cấp quản lý. Việc lựa chọn, bố trí
17


cán bộ thời gian qua cơ bản là đúng người, đúng việc, thực hiện đúng quy
trình, đảm bảo nguyên tắc TTDC. Từ năm 2011 đến nay, đã phối hợp với
Trường Chính trị tỉnh mở 08 lớp đào tạo Trung cấp lý luận chính trị cho 281

học viên, cử 27 cán bộ tham gia học Cao cấp lý luận chính trị; mở 01 lớp bồi
dưỡng nghiệp vụ công tác tổ chức xây dựng đảng cho 89 học viên là Phó Bí
thư cấp ủy cơ sở, UVTV trực đảng, bí thư, phó bí thư chi bộ cơ sở và cán bộ
khơng chun trách công tác tổ chức của đảng ủy cơ sở; mở 01 lớp cho 44 học
viên (3 xã miền núi), phối hợp với Đảng ủy xã Lộc Thủy và Liên Thủy mở 2
lớp (trên 150 học viên) bồi dưỡng công tác đảng cho các đồng chí bí thư, phó
bí thư và cấp ủy viên dưới cơ sở.
Ban Thường vụ Huyện ủy đã tập trung chỉ đạo đổi mới về công tác cán
bộ, tạo chuyển biến tích cực về “đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Xây dựng được đội ngũ cán bộ có
bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh; có
tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng bộ và nhân dân.
Đến nay, cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý cơ bản
đạt chuẩn theo quy định. Trong đó: Bí thư đảng ủy xã, thị trấn có trình độ
chun mơn từ trung cấp trở lên có 26 đồng chí, chiếm 92,9%; Chủ tịch
UBND xã, thị trấn có trình độ chun mơn từ trung cấp trở lên có 27 đồng chí,
chiếm 96,4%; có 100% Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã, thị trấn có trình
độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên trừ 2 xã miền núi Ngân Thủy và Lâm
Thủy (đồng chí Chủ tịch UBND xã Ngân Thủy đang học Trung cấp và đồng
chí Bí thư Đảng ủy xã Lâm Thủy có trình độ sơ cấp); cán bộ các phịng ban
của huyện đạt trình độ trên đại học tỉ lệ ngày được nâng lên. Đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã, thị trấn được sắp xếp, bố trí đạt chuẩn theo quy định. Nhìn
chung, đội ngũ cán bộ, cơng chức cơ sở đã từng bước được chuẩn hóa về các
mặt, đảm bảo đủ năng lực, trình độ để hoàn thành tốt nhiệm vụ trên các lĩnh
vực được phân công phụ trách.
18


2.2. THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN
CHỦ TRONG BỔ NHIỆM CÁN BỘ THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN

QUẢN LÝ Ở HUYỆN LỆ THỦY

Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là vấn đề rất quan trọng
trong công tác cán bộ của Đảng. Sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba
Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, các cấp ủy và cán bộ, đảng viên ở
huyện Lệ Thủy đã nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung
dân chủ trong cơng tác cán bộ, đồng thời thể chế hóa ngun tắc này thành các
quy chế, quy trình, quy định cụ thể để tổ chức thực hiện nên đã lựa chọn được
đội ngũ cán bộ có đức, có tài để gánh vác trọng trách mà Đảng và nhân dân
giao phó.
Trong những năm qua, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong công tác bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện BTVHU quản lý
trên địa bàn huyện đã đạt được những kết quả tích cực đồng thời có những hạn
chế sau:
2.2.1. Những ưu điểm và nguyên nhân
Ưu điểm:
BTV Huyện uỷ và các cấp cấp uỷ đảng đã quán triệt sâu sắc chủ trương,
nghị quyết của Đảng, quy định, hướng dẫn của Trung ương, của Tỉnh uỷ về
công tác bổ nhiệm cán bộ, tạo nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trị của cơng
tác bổ nhiệm cán bộ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh
đạo cá nhân phụ trách trong công tác bổ nhiệm cán bộ.
Huyện uỷ chỉ đạo các cấp uỷ đảng, các tổ chức, đơn vị và cơ quan tham
mưu tiến hành rà soát đội ngũ cán bộ thuộc phạm vi quản lý để có kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng; tham mưu giúp BTV Huyện uỷ kiểm tra, đánh giá, phân
loại hiện trạng đội ngũ cán bộ, qua đó giúp BTV Huyện uỷ quản lý chặt chẽ
hơn đội ngũ cán bộ, kịp thời bổ sung, bố trí, sắp xếp lại cán bộ đối với những
ngành, đơn vị có yêu cầu bổ nhiệm và bổ nhiệm lại những chức danh còn
19



thiếu, hết nhiệm kỳ, bãi nhiệm, miễn nhiệm cán bộ khơng đạt u cầu, tìm
những cán bộ có triển vọng phát triển cao hơn để quy hoạch vào chức danh
chủ chốt của huyện.
Công tác bổ nhiệm cán bộ diện BTV Huyện uỷ quản lý luôn giữ vững
nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của người đứng đầu và các tổ chức thành
viên của hệ thống chính trị. Qua đó, việc bổ nhiệm cán bộ đã bảo đảm đúng
người, đúng việc, tạo được động lực mới thúc đẩy cán bộ hăng say học tập,
công tác; khắc phục được tư tưởng cục bộ địa phương, bảo thủ, trì trệ. Các
đồng chí được bổ nhiệm đều phấn khởi, tự giác thực hiện quyết định của tổ
chức, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Các tổ chức, cơ quan, đơn vị và cơ
sở có cán bộ được bổ nhiệm đều có sự chuyển biến, tiến bộ rõ rệt trong thực
hiện nhiệm vụ chính trị.
Cơng tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ lãnh đạo, quản lý và giới thiệu
cán bộ ứng cử được thực hiện theo nguyên tắc, quy định của Đảng, tiêu chuẩn
cán bộ được thực hiện theo quy định của Nghị quyết TW3 khóa VIII; thủ tục,
trình tự bổ nhiệm, bổ nhiệm lại và giới thiệu cán bộ ứng cử thực hiện chặt chẽ,
dân chủ, công khai và do cấp ủy, tổ chức đảng biểu quyết theo đa số. Cán bộ
được đề bạt, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại đều xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ, được
đánh giá tín nhiệm từ cơ quan, đơn vị. Nhìn chung, cán bộ được đề bạt, bổ
nhiệm, giới thiệu ứng cử đều đảm bảo tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo
đức lối sống, trình độ, năng lực và tín nhiệm của quần chúng, sau bổ nhiệm đã
phát huy được vai trị, hồn thành chức trách, nhiệm vụ được giao; đối với cán
bộ được bổ nhiệm lại qua đánh giá đều hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời
gian giữ chức vụ, còn đủ tiêu chuẩn và sức khỏe để đảm đương nhiệm vụ
trong thời gian tới.
Do nắm vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ, thời
gian qua công tác này của Lệ Thủy luôn đảm bảo quy trình, đúng quy định,
20



các cơ quan tham mưu, nhất là cơ quan làm công tác tổ chức cán bộ kịp thời
tham mưu cho cấp uỷ trong thẩm tra, xác minh, đánh giá, kết luận nhân sự
được đề xuất, cung cấp thơng tin chính xác để Ban Thường vụ đưa ra những
quyết định đúng; các cấp uỷ đảng cơ sở trực thuộc và tổ chức, cơ quan, đơn vị
thể hiện rõ ý thức, trách nhiệm trong tham gia vào q trình thực hiện cơng tác
bổ nhiệm cán bộ, phát huy được vai trò của cấp uỷ và người đứng đầu trong
cơng tác nhân sự.
Chính nhờ sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của cấp uỷ đảng và chủ
động tổ chức lấy ý kiến nhận xét, đánh giá, lấy phiếu tín nhiệm trong cán bộ,
đảng viên, công chức cơ quan và của cấp uỷ, quần chúng nhân dân nơi cư trú;
gắn với thẩm tra, xác minh chuẩn xác của cơ quan tham mưu về nhân sự đã
giúp cho BTV Huyện uỷ có cơ sở thảo luận, quyết định bổ nhiệm cán bộ được
chuẩn xác hơn, góp phần giữ gìn đồn kết thống nhất nội bộ.
Ngun nhân:
Thứ nhất: Nhờ có các quan điểm của Đảng, các nghị quyết của Trung
ương về công tác tổ chức và cán bộ đúng đắn; nguyên tắc tập trung dân chủ
của Đảng đã được thể chế hóa thành các quy chế, quy định, quy trình trong tổ
chức thực hiện; có sự hướng dẫn chặt chẽ, cụ thể của Tỉnh ủy về công tác cán
bộ, cùng với ý thức trách nhiệm và sự nỗ lực của cấp ủy cấp huyện.
Thứ hai: Các cấp ủy, tổ chức đảng ở huyện Lệ Thủy đã kiên trì khẳng
định và thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và
người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị, nguyên tắc tập trung dân
chủ và quyết định tập thể về cán bộ. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng
chức nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý diện BTV Huyện ủy quản lý nói
riêng đã được các cấp ủy các huyện xác định phải xuất phát từ đường lối của
Đảng, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, trên cơ sở tiêu
chuẩn là chính, có cơ cấu hợp lý, lấy hiệu quả công việc làm thước đo, được
21



cán bộ, đảng viên và quần chúng tín nhiệm trước khi xem xét bổ nhiệm. Việc
lựa chọn nguồn cán bộ quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, bổ nhiệm cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong hệ thống chính trị diện BTV Huyện ủy quản lý phải thực
hiện theo đúng quy chế, quy trình chặt chẽ, đúng quy định của Điều lệ Đảng,
điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội và pháp luật của Nhà nước. Đây
chính là yếu tố quan trọng bảo đảm vai trò của Đảng cầm quyền, giữ vững sự
ổn định, tạo được sự đoàn kết, thống nhất cao trong đội ngũ cán bộ.
Thứ ba: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ, đảng viên nói
chung có ý thức chính trị, tính tổ chức kỷ luật cao được trưởng thành trong
quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được đào tạo bồi dưỡng về chính trị và
kiến thức về Đảng ở các mức độ khác nhau, do đó tham gia một cách có trách
nhiệm, có chất lượng vào các khâu của quy trình bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo,
quản lý.
Thứ tư: Để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới, cấp ủy đã
quan tâm, tập trung nâng cao chất lượng quy hoạch; đẩy mạnh công tác đào
tạo, bồi dưỡng “chuẩn hóa” đội ngũ cán bộ kế cận; từng bước gắn việc bố trí, sử
dụng bổ nhiệm với việc quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời tiến hành trẻ
hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trên cơ sở kết hợp giữa các độ tuổi, các lớp
cán bộ, chú ý đến đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ làm công tác tổ chức - cán bộ của cấp ủy địa phương.
2.2.2. Những hạn chế yếu kém
Việc quản lý, đánh giá, quy hoạch, bố trí cán bộ một số trường hợp chưa
sát đúng, đặc biệt là cán bộ chủ chốt một số phịng ban, địa phương năng lực
hạn chế, có khuyết điểm nhưng khơng kịp thời thay thế.
Khơng ít cán bộ, đảng viên chưa hiểu rõ về sự cần thiết phải thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ. Một số cấp uỷ viên và
một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện xi chiều, ngại va chạm, không
22



dám bày tỏ chính kiến cá nhân.
Trong một số trường hợp chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa trách
nhiệm cá nhân và vai trò của tập thể cấp uỷ đảng. Việc lấy ý kiến nhận xét của
cấp uỷ và nhân dân nơi cư trú chưa được quan tâm đúng mức.
2.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LƯU Ý TRONG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP
TRUNG DÂN CHỦ

Một là, kiên quyết giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác cán bộ
và quản lý đội ngũ cán bộ trong thực hiện bổ nhiệm cán bộ, phát huy dân chủ,
tạo sự thống nhất trong nội bộ đảng và cơ quan, đơn vị. Cấp uỷ đảng phải giữ
vai trò lãnh đạo trong bổ nhiệm cán bộ, phải mở rộng dân chủ, thảo luận công
khai trong cấp ủy đảng và ban lãnh đạo cơ quan, đơn vị để bổ nhiệm được cán
bộ đủ tiêu chuẩn, có chất lượng, tín nhiệm cao, đáp ứng u cầu cơng việc.
Hai là, giải quyết hài hoà, bảo đảm nguyên tắc giữa người đứng đầu với
tập thể lãnh đạo trong thảo luận, đề xuất, quyết định bổ nhiệm cán bộ. Tránh
khuynh hướng quá đề cao dân chủ tập thể hoặc người đứng đầu quyết định
vượt quá thẩm quyền. Vì vậy, cần có quy định thật cụ thể, hợp lý để vừa phát
huy được trách nhiệm của người đứng đầu, vừa đảm bảo được dân chủ tập thể
lãnh đạo trong đề xuất nhân sự và quyết định bổ nhiệm cán bộ.
Ba là, thực hiện đồng bộ các khâu của công tác cán bộ từ đánh giá, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển... đảm bảo nguyên tắc tập trung dân
chủ. Đây là cơ sở quyết định chất lượng của công tác bổ nhiệm cán bộ.
Bốn là, tập trung xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng trong sạch,
vững mạnh, giữ gìn đồn kết thống nhất nội bộ, kỷ luật nghiêm minh; đồng
thời tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao năng lực tồn diện cho
cán bộ, tạo mơi trường để cán bộ rèn luyện, phấn đấu.

23



24


×