Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TL phan tich chinh sach KTVM phân tích tác động của chính sách thuế, liên hệ thực tế ở cộng hoà dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.08 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
Thuế có vai trị rất quan trọng đối với mọi Nhà nước. Thuế không chỉ là cơ
sở để Nhà nước động viên các nguồn lực tài trợ cho hoạt động thường xun mà
cịn là cơng cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mơ. Một
hệ thống thuế tốt, hợp lý sẽ có tác động tích cực đến q trình tăng trưởng kinh
tế, khuyến khích thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng tích cực và trở thành công cụ tạo nguồn thu chủ yếu cho
NSNN. Ngược lại, một hệ thống thuế được hoạch định và xây dựng thiếu căn cứ
khoa học và thực tiễn, không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong
từng giai đoạn sẽ là một lực cản khơng nhỏ cho việc thực hiện các chủ trương
chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước.
Chính sách thuế có tác động rất lớn đối vói nền kinh tế của một quốc gia,
thuế là công cụ chủ yếu để Nhà nước sử dụng để thu một phần của cải của xã hội
vào trong tay Nhà nước nhằm thực hiện chức năng và vai trò của Nhà nước, đồng
thời để điều tiết thu nhập, giảm khoảng cách phân hoá giàu ngèo trong xã hội.
Chính vì chính sách thuế có ảnh hưởng rất lớn đến tầm vĩ mô nền kinh tế, nên
Nhà nước phải có chính sách thuế hiệu quả và phủ hợp với điều kiện thực tiễn.
Do đó, địi hỏi phải nghiên cứu tìm giải pháp hồn thiện hệ thống thuế phù hợp
với những yêu cầu mới. Đó là lý do đề tài “ Phân tích tác động của chính sách
thuế, liên hệ thực tế ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào” .
Do hạn chế về thời gian nghiên cứu, tầm vóc của đề tài lớn, mặc dù đó cú
rất nhiều cố gắng, song bài viết khụng trỏnh khỏi cú những khiếm khuyết. Rất
mong nhận được sự góp ý chỉ bảo của cỏc thầy cụ giỏo và những người có quan
tâm tới vấn đề này để tơi có thể hiểu vấn đề một cách thấu đào, toàn diện và sâu
sắc hơn.

1


PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ Lí THUYẾT


1.1. Khỏi niệm và vai trị của thuế
1.1.1. Khái niệm
Có nhiều quan niệm về thuế: Theo lý thuyết thuế trao đổi coi thuế như một
cái giá mà người nộp thuế phải trả để đổi lấy sự an ninh và dịch vụ do Nhà nước
cung cấp. Lý thuyết thuế đoàn kết gắn chặt với trào lưu tư tưởng về “khế ước xã
hội”, theo đó giữa người nộp thuế và Nhà nước đã ngầm ký kết một khế ước (hợp
đồng), trong đó người nộp thuế chấp nhận chuyển giao một phần tự do và tài sản
của mình cho Nhà nước để đổi lấy sự an ninh và hưởng thụ các loại dịch vụ công
do Nhà nước cung cấp. Với lý thuyết thuế trao đổi có thể thấy trong xã hội đã
xuất hiện một loại thuế gọi là thuế khế ước . Đó là một loại hợp đồng bảo hiểm
giữa người nộp thuế với Nhà nước. J. Locke-Nhà kinh tế của Pháp thế kỷ XVIIngười đầu tiên đưa ra lý thuyết thuế trao đổi từng viết: “Đối với các cá nhân thuế
là một khoản bù trừ cho việc bảo vệ cuộc sống, tài sản và tự do của họ”Quan
điểm này về sau được nhà tư tưởng Montesquieu của Pháp tán đồng. Trong tác
phẩm “Linh hồn của Luật” ông viết : “Một phần tài sản của cá nhân đem trao đổi
với Nhà nước để đổi lấy sự an tồn và để hưởng sự an tồn đó một cách thoải
mái”. Lý thuyết thuế trao đổi được chấp nhận cho đến ngày nay nhưng có biến
tướng đơi chút dưới tên gọi “Nguyên tắc ngang giá” trong lĩnh vực thuế khoá
hay còn gọi là “ lý thuyết thuế -giá” mà những người theo trường phái Mỹ chấp
nhận.
Như vậy, có thể nói những người theo lý thuyết thuế trao đổi không chấp
nhận đặc trưng cố hữu của thuế là bắt buộc, là cướng chế như quan niệm phổ
biến ngày nay đối với lĩnh vực thuế khoá đồng họ đồng nhất phạm trù thuế với
phạm trù phí, lệ phí là một.
2


Chính sách thuế là hệ thống những quan điểm và đường lối để đạt được
những mục tiêu nhất định trong quản lý một tổ chức hoặc quản lý Nhà nước. Như
vậy, nói đến chính sách là nói đến việc cần làm gì và tại sao phải làm như vậy.
Tức là , có thể hiểu, chính sách thuế là hệ thống những quan điểm, đường lối,

phương châm điều tiết thu nhập của các tổ chức và cá nhân trong xã hội thơng
qua thuế.
1.1.2. Vai trị của thuế trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế
- Thuế là cơng cụ động viên nguồn lực tài chính chủ yếu cho NSNN.
Để có nguồn tài chính ni sống bộ máy nhà nước và trang trải các chi phí
thực hiện các chức năng và nhiệm vụ cộng đồng giao phó, Nhà nước có thể tiến
hành phát hành tiền, vay trong và ngoài nước, bán tài sản quốc gia, đánh thuế.
Phát hành tiền là biện pháp đơn giản nhất, song việc phát hành tiền thiếu cơ sở
vật chất bảo đảm sẽ gây hậu quả khôn lường cho nền kinh tế. Mỗi một khi khối
lượng tiền trong khâu lưu thơng khơng có cơ sở vật chất bảo đảm, nghĩa là tiền
hàng mất cân đối nghiêm trọng, số tiền nhiều không cân xứng với giá trị hàng
hoá, hiện tượng tất yếu sẽ phát sinh là giá cả tăng vọt làm cho đời sống của các
tầng lớp dân cư trở nên khốn đốn.
Vay nợ trong và ngồi nước nói chung phải chịu những điều kiện khắt khe
cả về kinh tế và chính trị. Đặc biệt vay nợ nước ngồi q mức, có thể dẫn đến sự
hy sinh tính độc lập về chính trị, nếu khơng có đều kiện trả nợ tất yếu dẫn đến
tình trạng vỡ nợ, uy tín của quốc gia trên trường quốc tế sẽ giảm sút một cách
nghiêm trọng. Hơn nữa, suy cho cùng có vay thì phải có trả, đó là tính tất yếu
trong quan hệ tín dụng. Nguồn để trả nợ cuối cùng cũng trông cậy vào mức động
viên qua thuế của Nhà nước. Tài sản quốc gia không phải là nguồn vơ hạn. Do đó
việc bán tài sản quốc gia cũng không thể coi là nguồn thu chủ yếu, ổn định, lâu
dài của Nhà nước. Vì vậy ngày nay ở hầu hết các quốc gia, thuế trở thành công cụ
3


chủ yếu. ổn định và lâu dài động viên nguồn tài chính cho NSNN. Nguồn tài
chính để Nhà nước động viên qua thuế cho NSNN khơng phải cái gì khác chính
là kết quả lao động sản xuất của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Một nền sản
xuất không có năng suất, hiệu quả, chất lượng, năng lực cạnh tranh thấp, khơng

có sản phẩm thặng dư, cho dù chính sách thuế có tối ưu bao nhiêu thì cũng khơng
thể động viên nguồn tài chính qua thuế được. Do đó, điều quan trọng để có thể
động viên nguồn tài chính qua thuế cho NSNN một cách có hiệu quả, phải tìm
mọi biện pháp nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền sản xuất trong nước. Việc sử dụng công cụ thuế để động viên nguồn tài chính
cho NSNN trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, dân chủ hoá đời sống xã hội và
hội nhập kinh tế thế giới phải có tầm nhìn lâu dài luôn lấy tiêu điểm thúc đẩy sản
xuất làm gốc cho mọi chính sách động viên.
- Thuế là cơng cụ tái phân phối thu nhập bảo đảm công bằng xã hội.
Phân phối kết quả sản xuất theo cơ chế thị thị trường là sự phân phối mang
tính kinh tế. Đó là sự phân phối dựa vào các yếu tố đầu vào của quá trình sản
xuất. Trong nền kinh tế thị trường ai nắm được lực lượng lao động có tay nghề
cao, nắm và áp dụng được những bí quyết khoa học, cơng nghệ, có nguồn lực tài
chính dồi dào, có đầu óc kinh doanh thì hộ được hưởng những thành quả cao hơn.
Xét ở khía cạnh kinh tế, đó là sự phân phối hợp lý mà xã hội chấp nhận.
Tuy nhiên, trong xã hội do những yếu tố tự nhiên, hay các yếu tố xã hội mà
không phải tất cả các thành viên đều nắm giữ các yếu tố đầu vào như nhau, do đó
tất yếu khơng nhận được kết quả sản xuất như nhau, thậm chí những người khơng
có yếu tố đầu vào thì khơng khơng nhận được một phần dù rất nhỏ của kết quả
sản xuất, họ trở nên đói khổ. Xã hội càng phát triển sự phân cực giàu nghèo càng
trở nên sâu sắc. Mỗi một khi xã hội sự phân cực giàu nghèo vượt giới hạn, xã hội
sẽ trở nên rối riêng, trật tự xã hội sẽ đảo lộn, tệ nạn xã hội sẽ phát sinh. Nhà nước
với vai trị xã hội của mình, tất yếu khơng để cho trật tự xã hội bị đảo lộn vì sự
4


chênh lệch giàu, nghèo vượt giới hạn cho phép. Nhà nước một mặt dùng các
chính sách khuyến khích, bắt buộc mọi thành viên trong xã hội có đủ năng lực
vươn lên làm giàu cho mình và cho xã hội, mặt khác phải dùng đến các công cụ
tái phân phối, bảo đảm cho những người khơng có cơ may, gặp nhiều rủi ro do cơ

chế thị trường và do hoàn cảnh xã hội tạo nên có cuộc sống khả dĩ chấp nhận
được. Một trong những công cụ thực hiện tái phân phối đó là thuế. Nhà nước có
thể dùng thuế lấy đi một phần thu nhập của người giàu để tài trợ cho người nghèo
dưới hình thức tài trợ trực tiếp hoặc gián tiếp. Nói chung việc Nhà nước dùng
cơng cụ thuế để tái phân phối thu nhập là điều hợp lý, được xã hội chấp nhận.
Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là mức độ tái phân phối công cụ thuế như thế nào
để bảo đảm hài hoà giữa yêu cầu công bằng xã hội với hiệu quả của q trình
kinh tế.
Trong thực tế, việc giải quyết hài hồ mối quan hệ giữa yêu cầu công bằng
xã hội với hiệu quả kinh tế khi sử dụng công cụ thuế cũng có nhiều quan điểm
khác nhau. Những người thuộc cánh hữu trong các nghị trường của phương Tây
mong muốn một sự can thiệp tối thiểu bằng các công cụ thị trường. Họ cổ vũ cho
sự nỗ lực làm giảm sự đói nghèo tuyệt đối và sử dụng nguồn thu từ thuế đánh
theo tỷ lệ để làm điều đó. Như vậy những người theo cánh hữu trong các nghị
trường phương Tây cũng cho rằng việc sử dụng công cụ thuế tái phân phối là cần
thiết, song theo họ không nên đánh thuế theo tỷ lệ luỹ tiến đối với người giàu mà
nên đánh thuế theo tỷ lệ, nghĩa là điều tiết vừa phải. Trái lại, những người thuộc
cánh tả ủng hộ chủ trương làm giảm mức nghèo khổ cả tương đối và tuyệt đối.
Để đặt được mục tiêu này, theo họ phải sử dụng một hệ thống thuế có tính chất
luỹ tiến đánh theo nhiều tỷ lệ khác nhau căn cứ vào từng bậc thu nhập không
giống nhau và như vậy người càng giàu càng phải đánh thuế càng cao.
Chúng tôi cho rằng, nếu dùng cơng cụ thuế thiên về khía cạnh cơng bằng
xã hội thì có thể làm giảm động lực tạo ra hiệu quả kinh tế và rút cục khi hiệu quả
5


kinh tế sa sút, thì tất yếu ý tưởng dùng công cụ thuế để tái phân phối thực hiện
công bằng xã hội cũng khó đạt được u cầu. Chính vì vậy, trong sử dụng công
cụ thuế để tái phân phối thực hiện công bằng xã hội không thể không quan tâm
đến vấn đề hiệu quả kinh tế.

- Thuế là công cụ góp phần ổn định kinh tế thị trường.
Nhìn nhận kinh tế thị trường có tính ổn định hay khơng ổn định đang có
nhiều quan điểm khác nhau giữa các trường phái kinh tế.
Trường phái kinh tế trọng tiền lập luận rằng nền kinh tế như là một thể ổn
định, với các thị trường vận hành một cách tự do và toàn dụng, như vậy tự bản
thân kinh tế thị trường đã ổn định rồi và do đó sự can thiệp của chính phủ vào
nền kinh tế là khơng cần thiết. Quan điểm kinh tế thị trường với cơ chế vận hành
của nó ln ở thế ổn định đã được các nhà kinh tế khởi xướng và ủng hộ như :
Adam Smith (1723-1790), Rober Malthus (1767-1832) và David Ricardo (17721823)…. Những người này cho rằng: thuế không được làm cản trở các hoạt động
trao đổi và việc thu thuế chỉ nhằm mục tiêu duy nhất là trang trải các chi phí
cơng.
Vào những năm 1929-1933, thế giới chứng kiến một cuộc đại suy thoái
kinh tế và với cuộc đại suy thoái đó cũng là lúc người ta xét lại lý thuyết tự ổn
định của nền kinh tế thị trường do trường phái trọng tiền khởi xướng. Vào đầu
thế kỷ XX, xuất hiện một lý thuyết kinh tế mới mà người khởi xướng là một nhà
kinh tế người Anh tên là John Maynard Keynes. Tác phẩm kinh tế nổi tiếng của
ơng có tựa đề “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ”. Trong tác phẩm
này, ông bác bỏ quan điểm cho rằng nền kinh tế thị trường tự nó đã ổn định,
khơng cần có sự can thiệp của Nhà nước của các trường phái kinh tế trọng tiền và
trường phái kinh tế trọng nông, ông đi sâu nghiên cứu nền kinh tế và cho rằng
nguyên nhân sâu xa của cuộc đại suy thoái kinh tế năm 1929-1933 bắt nguồn từ
cầu thiếu hụt, bản thân cơ chế thị trường tự nó khơng thể điều chỉnh được mà cần
có sự phối hợp của bàn tay hữu hình-Nhà nước. Ơng đưa ra khuyến nghị để khắc
6


phục tình trạng suy thối kinh tế, cần có sự can thiệp của Nhà nước bằng cách
tăng chi tiêu công và giảm thuế nhằm đưa nền kinh tế trở về trạng thái ổn định.
Vào thời kỳ đó rất nhiều nước đã vận dụng lý thuyết kinh tế của John Maynard
Keynes, tăng chi tiêu cơng, giảm thuế làm tăng cầu có hiệu quả đưa nền kinh tế

thoát khỏi cơn suy thoái, trở lại trạng thái ổn định và phát triển. Ngày nay, vào
giữa năm 2008 đến nay thế giới lại lâm vào tình trạng suy thối kinh tế cịn tồi tệ
hơn những năm 1929-1933, rất nhiều nước một lần nữa áp dụng lý thuyết của J.
M Keynes bằng cách gia tăng chi tiêu cơng và giảm thuế để kích cầu đầu tư và
cầu tiêu dùng. Như vậy có thể nói, ngày nay lý thuyết kinh tế của J. M Keynes ở
một khía cạnh nào đó vẫn cịn ngun giá trị. Thơng qua những kết quả đạt được
của lý thuyết kinh tế của J. M. Keynes cho thấy thuế thực sự là một cơng cụ quan
trọng góp phần tạo ra sự ổn định của nền kinh tế.
- Thuế công cụ khắc phục những khiếm khuyết của kinh tế thị trường.
Hiện nay kinh tế thị trường đã trở thành mơ hình hoạt động kinh tế được
đánh giá là thích hợp nhất, có khả năng đảm bảo tiến bộ kinh tế toàn cầu và phân
phối tối ưu nguồn lực.
Mục tiêu tối thượng của kinh tế thị trường là lợi nhuận. Vì lợi nhuận mà
kinh tế thị trường xét trên tầm vĩ mơ có thể làm phương hại đến việc sử dụng
nguồn lực của quốc gia. Vì mục tiêu lợi nhuận mà kinh tế thị trường ít quan tâm
đến khía cạnh xã hội, cạnh tranh thiếu lành mạnh “ cá lớn nuốt cá bé”tạo ra hố
ngăn cách ngày càng sâu giữa người giàu và người nghèo. Vì mục tiêu lợi nhuận
mà kinh tế thị trường có thể dẫn đến sự phát triển thiếu bền vững, mất ổn định. Vì
mục tiêu lợi nhuận, nói chung do những đặc điểm của hàng hố, dịch vụ cơng
cộng mà kinh tế thị trường không muốn, không thể và không có khả năng cung
cấp cho xã hội. Ngồi ra cũng vì mục tiêu lợi nhuận sự phát triển của kinh tế thị
trường có thể dẫn đến xu hướng độc quyền-một xu hướng có hại cho q trình
phát triển. Đó chính là những khiếm khuyết cơ bản của kinh tế thị trường.
7


Trong thời đại ngày nay Nhà nước không phải là một nhân tố đối lập với
mơ hình kinh tế thị trường, nhiệm vụ kinh tế quan trọng của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường là phối hợp với sự vận hành của kinh tế thị trường theo quy
luật để khắc phục những khiếm khuyết vốn có của nó. Để khắc phục những

khiếm khuyết của kinh tế thị trường Nhà nước định ra các khuôn khổ kinh tế pháp luật hiến pháp và các quy tắc của trò chơi kinh tế; thiết lập các chính sách
ổn định hố kinh tế vĩ mô để san bằng sự lồi lõm của chu kỳ kinh tế; phân bổ
nguồn lực cho hàng hoá dịch vụ công cộng…. Một trong những công cụ quan
trọng mà nhà nước thường sử dụng để khắc phục những khiếm khuyết của kinh tế
thị trường là thuế. Thuế dùng để tập trung nguồn tài chính nhằm trang trải các chi
phí cung cấp các hàng hố và dịch vụ cơng cộng. Thuế dùng để khắc phục sự lồi
lõm của chu kỳ kinh doanh tạo ra tính ổn định trong phát triển của nền kinh tế.
Thuế dùng để góp phần san bằng hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo
trong xã hội.
Nói chung qua nghiên cứu cho thấy, thuế được coi là một công cụ quan trọng
mà các nước sử dụng để góp phần khắc phục những khiếm khuyết của kinh tế của thị
trường. Mức độ sử dụng công cụ thuế trong vai trị này như thế nào hồn tồn phụ
thuộc vào vai trò can thiệp của Nhà nước trong nền kinh thị trường.
- Thuế công cụ quan trọng trong bảo vệ các quan hệ trao đổi thương mại
lành mạnh và là công cụ ứng xử trong ký kết các hiệp định thương mại.
Quá trình hội nhập, mở cửa nền kinh tế cũng là quá trình thúc đẩy hoạt
động thương mại giữa các nước. Quan hệ thương mại giữa các nước càng phát
triển tạo cơ hội thuận lợi cho việc tăng trưởng kinh tế của các nước. Tuy nhiên,
quan hệ thương mại giữa các nước càng phát triển thì cũng xuất hiện sự cạnh
tranh thiếu lành mạnh. Hiện tượng bán phá giá, trợ cấp xuất khẩu cũng thường
xẩy ra. Bán phá giá, trợ cấp xuất khẩu có thể dẫn đến nguy cơ làm phương hại
đến nền sản xuất trong nước, tạo ra sự cạnh tranh khơng lành mạnh. Để đối phó
8


với việc bán phá giá và chống trợ cấp xuất khẩu, những nước tham gia WTO
được phép sử dụng đến cơng cụ thuế, các nước có thể đưa ra luật thuế chống bán
phá giá, luật thuế chống trợ cấp để đối phó. Như vậy, có thể nói thuế khơng chỉ
có tác động đến việc sản xuất và trao đổi thương mại trong phạm vi nội địa mà
cịn có tác dụng tích cực tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các quốc gia. Ngồi

ra, thuế cịn là cơng cụ quan trọng thể hiện rõ các quan điểm của các quốc gia
trong quá trình đàm phán các hiệp định thương mại, thúc đẩy quan hệ hợp tác
kinh tế đối ngoại bình đẳng giữa các quốc gia.
Vai trị tích cực trên đây của phạm trù thuế đối với quá trình phát triển kinh
tế xã hội hồn tồn khơng phải tự thân của phạm trù thuế, mà phụ thuộc vào cách
thức xây dựng, áp dụng hệ thống thuế của mỗi nước theo những quan điểm nào.
1.2. Nơi dung của chính sách thuế
Nội dung của chính sách thuế bao gồm:
- Mục tiêu của chính sách thuế: xác định mức độ điều tiết qua thuế, những tác
động kinh tế-xã hội của chính sách như thế nào và tại sao lại điều tiết ở mức độ
đó cũng như có tác động kinh tế-xã hội đó.
- Phạm vi tác động của chính sách thuế: chính sách thuế sẽ tác động đến những
tổ chức cá nhân nào trong xã hội. Việc xác định rõ phạm vi tác động của chính
sách thuế cho phép tập trung vào những mục tiêu quan trọng của chính sách,
đồng thời, tránh được những hậu quả khơng mong muốn của chính sách.
- Thời gian hiệu lực: Xác định rõ chính sách thuế được áp dụng trong thời kỳ nào,
xác định rõ thời điểm bắt đầu và kết thúc của chính sách.
- Trách nhiệm thực hiện chính sách thuế: Chỉ rõ tổ chức, cá nhân nào phảI có
trách nhiệm tong thực hiện chính sách, như: Cụ thể hố chính sách thuế thành
pháp luật thuế, tổ chức thực hiện pháp luật thuế…
9


- Phương châm chính sách: Chỉ rõ những quy tắc, yêu cầu cần đạt được của
chính sách hoặc của hệ thống quản lý thuế.
Ngồi ra, chính sách thuế có thể bao gồm các nội dung khác như: Bối cảnh
kinh tế-xã hội ra đời chính sách với các yếu tố ảnh hưởng cụ thể và các định
nghĩa về các thuật ngữ sử dụng trong chính sách thuế.
1.3. Các nguyên tắc thiết lập của một hệ thống chính sách thuế
Những nghiên cứu, phân tích trên đây về phạm trù thuế và hệ thống thuế

cho thấy lĩnh vực thuế khoá là một lĩnh vực phức tạp, nó khơng chỉ liên quan đến
khía cạnh kinh tế mà cịn liên quan đến cả khía cạnh chính trị, xã hội, nhất là
trong bối cảnh tự do hố và mở cửa hội nhập, do đó để thiết lập được một hệ
thống thuế khả dĩ được xã hội chấp nhận thì khi thiết lập cần phải tơn trọng một
số nguyên tắc nhất định.
Người đầu tiên đưa ra các nguyên tắc thiết lập một hệ thống thuế của một
quốc gia là A.Smith - một nhà triết học, chính trị học và kinh tế học người Anh.
Ông đưa ra các nguyên tắc cần phải tuân thủ khi thiết lập một hệ thống thuế là:
Bảo đảm cho người dân phải trả thuế theo tỷ lệ phần trăm (%) ứng với khả năng
của họ; Nghĩa vụ thuế của một cá nhân phải rõ ràng, chắc chắn; Việc thiết lập các
sắc thuế phải thuận lợi cho việc thu nộp; Chi phí thu thuế phải ở mức thấp và có
thể chấp nhận được.
Ngày nay những nguyên tắc trên còn nguyên giá trị và được biến tấu thành
các nguyên tắc như:
1.3.1. Nguyên tắc công bằng
Khi nghiên cứu về nguyên tắc công bằng trong lĩnh vực thuế khố có hai
cách tiếp cận khác nhau
- Cách tiếp cận về mặt lợi ích.
Theo cách tiếp cận này, thì quan hệ giữa ngươi trả thuế với chính phủ là
quan hệ trao đổi. Người trả thuế nộp tiền thuế để hưởng các hàng hoá, dịch vụ
10


công do nhà nước cung cấp. Cách tiếp cận này có ưu điểm là có sự gắn bó hữu cơ
giữa việc nộp thuế với việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ cơng cộng. Cách tiếp cận
này cũng địi hỏi việc thiết lập mức thuế phải nộp phải theo tỷ lệ phần trăm (%)
đối với khả năng cụ thể của người trả thuế. Song cách tiếp cận này để bảo đảm
tính cơng bằng trong thuế khố phải tính tốn, xác định được mức độ lợi ích cụ
thể mà từng người nộp thuế nhận được từ việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ cơng
do Nhà nước cung cấp. Điều này rất khó vận dụng vào thực tiễn nhất là ngày nay

khi mà Nhà nước cung cấp nhiều loại hàng hoá và dịch vụ công và như vậy
nguyên tắc công bằng với cách tiếp cận này cũng chỉ mang ý nghĩa tượng trưng.
- Cách tiếp cận theo khả năng chi trả.
Cách tiếp cận này dựa trên định nghĩa thuế của các nước OECD đưa ra
“Thuật ngữ thuế được giới hạn trong khuôn khổ các khoản thanh tốn có tính
chất cưỡng chế, khơng có tính chất bồi hồn lại cho chính phủ”. Dựa vào định
nghĩa này người ta cho rằng để bảo đảm nguyên tắc cơng bằng khi thiết kế chính
sách thuế phải tính đến khả năng chi trả của người nộp thuế. Với cách tiếp cận
này người ta đưa ra hai cách nhìn nhận về công bằng: Công bằng theo chiều
ngang, công bằng theo chiều dọc.
+ Công bằng theo chiều ngang được hiểu là mọi người có khả năng như
nhau thì mức trả thuế phải giống nhau. Khó khăn lớn nhất khi áp dụng nguyên tắc
công bằng theo chiều ngang trong hoạch định chính sách thuế là việc xác định “
khả năng như nhau”. Cho đến nay câu hỏi đặt ra ở đây lấy tiêu chí nào để đo khả
năng như nhau để có cách ứng xử của thuế bảo đảm được yêu cầu cơng bằng
đang là câu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa đáng.
Người ta cho rằng nguyên tắc công bằng theo chiều ngang chỉ áp dụng
trong thực tiễn khi hệ thống kinh tế đặt mọi người đứng trước những lựa chọn
như nhau và do đó giữa họ khơng hề có sự phân biệt. Đó là sự lý tưởng hóa, khó

11


có thể trở thành hiện thực, do đó nguyên tắc công bằng theo chiều ngang chỉ
mang ý nghĩa lý thuyết.
+ Công bằng theo chiều dọc được hiểu là cách đối xử đối với những
người khơng có cùng mức thu nhập theo nguyên tắc người nào có thu nhập cao
hơn phải đóng thuế nhiều hơn. Nhiều nhà kinh tế cho rằng thuế và các khoản chi
tiêu hợp lý nếu chung tối đa hố phúc lợi của những người ít may mắn nhất. Điều
này đòi hỏi số thu từ thuế phải đạt cực đại và nếu thuế suất cao hơn áp đặt với

người có thu nhập cao hơn mà tạo ra nguồn thu cao hơn tài trợ cho người ít may
mắn thì thuế đó là cơng bằng. Ngược lại nếu thuế suất cao nhưng không tạo ra
được số thu lớn tài trợ cho người ít may mắn thì thuế đó khơng cơng bằng. ý
tưởng đánh thuế này ngầm hiểu là việc đánh thuế suất cao đối với người có thu
nhập cao mà không làm cho họ mất động lực tạo ra thu nhập thì đó là loại thuế
hợp lý và cơng bằng.
Tóm lại qua sự phân tích ở trên cho thấy nguyên tắc cơng bằng trong thuế
khố là một ngun tắc phức tạp, nó tuỳ thuộc cách nhìn nhận cơng bằng của cơ
quan lập pháp. Nói cách khác việc áp dụng nguyên tắc cơng bằng trong thuế khố
phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của cơ quan lập pháp.
1.3.2. Nguyên tắc hiệu quả
Hiệu quả theo nghĩa của kinh tế học là tài nguyên được sử dụng vào nơi
mà chúng có thể tạo ra phúc lợi xã hội cao nhất. Việc nhà nước đánh thuế là biểu
hiện sự can thiệp của nhà nước vào sự phân bổ tài nguyên diễn ra theo sự vận
hành của quy luật kinh tế thị trường. Nhà nước sử dụng thuế như là một công cụ
can thiệp vào sự phân bổ tài nguyên do cơ chế thị trường thực hiện có thể dẫn đến
hai tình huống trao ngược nhau:hiệu quả và khơng hiệu quả.
Nói chung việc đánh thuế của Nhà nước có thể làm thay đổi hành vi sử
dụng tài nguyên của người nộp thuế. Nếu thay đổi hành vi sử dụng tài nguyên
của người nộp thuế do nhà nước đánh thuế mà tạo ra được phúc lợi xã hội cao
12


hơn thì việc đánh thuế đó có hiệu quả. Ngược lại nếu việc đánh thuế làm cho
thay đổi hành vi sử dụng tài nguyên của người nộp thuế mà làm giảm phúc lợi xã
hội thì việc đánh thuế đó khơng hiệu quả. Đó là cách tiếp cận hiệu quả thuế nhìn
dưới góc độ phúc lợi xã hội. Ngồi ra người ta cũng có cách tiếp cận khác về hiệu
quả của thuế. Đó là cách xem xét hiệu quả dựa trên sự phân tích quan hệ giữa số
thuế thu được (T) với chi phí bỏ ra để thu thuế (C).
Nếu thì người ta gọi việc đánh thuế có hiệu quả ngược lại nếu thì việc

thu thuế khơng có hiệu quả
Như vậy, khi nhìn nhận nguyên tắc hiệu quả của thuế vừa phải nhìn nhận
từ khía cạnh phúc lợi xã hội vừa phải nhìn nhận chi phí bỏ ra để thu thuế và kết
quả số thuế thu được.
1.3.3. Nguyên tắc chắc chắn
Nguyên tắc chắc chắn của thuế được hiểu trên hai giác độ: chắc chắn về
nghĩa vụ đối với người nộp thuế và chắc chắn đối với việc tổ chức thu thuế của
chính phủ.
Chắc chắn đối với nghĩa vụ của người nộp thuế có nghĩa là người trả thuế
trước hết phải tính được số lượng thuế mà họ sẽ nộp và cơ quan thuế khơng được
phép có quyền quyết định thay đổi một cách tùy tiện.
Chắc chắn đối với việc tổ chức thu thuế của Chính phủ có nghĩa là nếu như
số thu về thuế trong năm được dự đoán được một cách chính xác. Nói chung việc
dự đốn được một cách chính xác số thu về thuế trong năm được coi là hồn hảo
nếu bộ tài chính và các bộ ngành liên quan dự báo chính xác những biến động
của các yếu tố liên quan đến số thuế sẽ thu trong năm. Để quán triệt nguyên tắc
chắc chắn điều quan trọng là phải quy định một cách rõ ràng, đơn giản các điều
luật của luật thuế từ đối tượng nộp thuế, thuế suất đến chế độ miễn, giảm…
2.2.3.4. Nguyên tắc đơn giản, rõ ràng
13


Quán triệt nguyên tắc đơn giản, rõ ràng khi xây dựng luật thuế có ý nghĩa
quan trọng giúp cho người nộp thuế nhận rõ nghĩa vụ của mình một cách rõ ràng,
tự giác chấp hành, hạn chế được tình trạng trốn thuế, lậu thuế. Nguyên tắc đơn
giản, rõ ràng đòi hỏi trong mỗi luật thuế không nên đưa ra nhiều mức thuế suất
làm rối rắm cách tính tốn thuế và dễ gây ra sự thông đồng giữa người nộp thuế
và người thu thuế, các điều khoản miễn, giảm phải quy định một cách dễ hiểu,
chặt chẽ để người nộp thuế và người thu thuế chỉ thống nhất một cách hiểu khơng
có sự tranh chấp khi thực hiện. Mặt khác, chi phí thu thuế phải đảm bảp ở mức

hợp lý.
Chi phí thuế bao gồm hai loại: chi phí quản lý thuế của chính phủ và chi
phí chấp hành mà người nộp thuế phải chịu.
Chi phí quản lý thuế của chính phủ bao gồm: chi phí về nguồn nhân lực,
chi phí đầu tư các phương tiện phục vụ cho các công tác thu thuế, các chi phí nẩy
sinh trong q trình phối hợp lực lượng thu thuế… Tuỳ theo những điều kiện cụ
thể mà tỷ trọng các khoản chi phí đó có sự khác nhau. Xu hướng chung với việc
đẩy mạnh cải cách hành chính thuế, chuyển mơ hình thu thuế theo từng sắc thuế
hoặc theo từng đối tượng nộp thuế sang mơ hình thu thuế theo chức năng với cơ
chế tự khai, tự nộp thì nói chung các chi phí quản lý thuế của nhà nước có thể
giảm, song chi phí chấp hành của người nộp thuế có thể gia tăng. Trong những
điều điều kiện cụ thể sự tăng giảm chi phí quản lý thuế và chi phí nộp thuế có thể
khác nhau. Song yêu cầu chung là phải giảm chi phí hành thu một cách hợp lý.
Việc giảm chi phí hành thu một cách hợp lý phụ thuộc vào: tính phức tạp hay đơn
giản của luật thuế và công tác hành chính thuế. Để đảm bảo chi phí thu thuế một
cách hợp lý một mặt phải xây dựng các luật thuế một cách đơn giản, rõ ràng,
minh bạch mặt khác phải đẩy mạnh cơng cuộc cải cách hành chính thuế thu hẹp
đầu mối, đổi mới mơ hình thu thuế, áp dụng rộng rãi công cụ tin học trong quản
lý thuế.
14


2.2.3.5. Ngun tắc có tính linh hoạt và ổn định
Ngun tắc linh hoạt và ổn định phải được giải quyết hài hồ trong q
trình ban hành luật thuế, bởi lẽ thơng thường nếu nghiêng về phía linh hoạt thì
mức độ ổn định các khoản thu thuế có thể bị suy yếu.
Trong bối cảnh hiện nay nền kinh tế có nhiều biến động, thiểu phát và lạm
phát đan xen với nhau tạo ra sự diễn biến phức tạp của nền kinh tế. Nhà nước với
chức năng kinh tế là tạo ra sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Thuế là một
trong những công cụ để Nhà nước thực hiện vai trị can thiệp của mình vào q

trình vận hành của nền kinh tế thì trường. Khi nền kinh tế có nhiều biến động địi
hỏi Nhà nước phải sử dụng cơng cụ thuế một cách linh hoạt có thể tăng giảm mức
động viên, xác định lại chế độ miễn, giảm. Khi thực hiện công cụ thuế một cách
linh hoạt như vậy tất yếu dẫn đến sự mất ổn định về nguồn thu của NSNN và
cũng có thể dẫn đến sự mất ổn định về kế hoạch sản xuất, kinh doanh của đối
tượng nộp thuế. Do đó, để đảm bảo yêu cầu hai hồ giữa linh hoạt và ổn định địi
Nhà nước phải biết dụng áp tính linh hoạt của thuế dựa vào sự phân tích, dự báo
tình huống diễn biến của nền kinh tế một cách chính xác, nhanh nhạy, kịp thời
nhằm sử dụng cơng cụ thuế một cách có hiệu quả, khơng q lạm dụng tính linh
hoạt của thuế mà hy sinh sự ổn định nguồn thu của NSNN và sự ổn định của sản
xuất kinh doanh của đối tượng nộp thuế.
Tóm lại, hệ thống các nguyên tắc nêu trên cũng có thể coi như là những
chuẩn mực khi xem xét hệ thống chính sách thuế của một quốc gia. Tuy nhiên, hệ
thống các ngun tắc đó khơng phải khơng có những xung khắc với nhau. Do đó
khi áp dụng đương nhiên là có sự đánh đổi, sự đánh đổi đó tuỳ thuộc vào quan
điểm sử dụng thuế của nhà nước trong từng giai đoạn phát triển. Cụ thể chẳng
hạn như giữa việc áp dụng nguyên tắc công bằng và nguyên tắc hiệu quả trong
việc xây dựng hệ thống chính sách thuế. Nếu chúng ta quan tâm đến tính cơng
bằng thì tất yếu phải có hy sinh đến tính hiệu quả, nếu chúng ta quan tâm đến
khía cạnh linh hoạt thì tất yếu phải có sự hy sinh đến khía cạnh ổn định. Chính vì
15


vậy, khi áp dụng các nguyên tắc của hệ thống thuế cần phải quan đến yêu cầu sử
dụng hài hoà giữa các ngun tắc, đồng phải phân tích những hồn cảnh, tình
huống cụ thể của tình hình kinh tế, xã hội để áp dụng cho thích hợp.
Như phần trên đã chỉ ra, nói đến hệ thống thuế của một quốc gia theo quan
điểm của tác giả bản luận án là khơng chỉ nói đến hệ thống các chính sách thuế
mà còn phải bàn đến hệ thống các phương pháp, biện pháp tổ chức cơng tác thu
nộp.

II. PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH THUẾ Ở CHDCND LÀO
2.1. Thực trạng hệ thống ở CHDCND Lào qua các giai đoạn
2.1.1. Hệ thống ở CHDCND Lào trong giai đoạn trước năm 1995
Hệ thống chính sách thu thuế trong giai đoạn này là dựa chủ yếu vào Nghị
quyết của Hội đồng Bộ trưởng. Có các nghị quyết sau:
- Năm 1988 Hội đồng Bộ trưởng đã có Nghị quyết số 02/HĐBT, ngày
30/1/1988 quy định về chính sách thuế, trong nghị quyết này quy định các sắc
thuế sau: thuế nông nghiệp, thuế doanh thu, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế
thu nhập và thuế tài nguyên.
- Ngày 26/3/1989 Hội đồng Bộ trưởng có Nghị quyết số 47/HĐBT quy
định về chính sách thu thuế của Nhà nước, Nghị quyết này thay thế cho Nghị
quyết số 02/HĐBT, ngày 30/1/1988, theo Nghị quyết số 47/HĐBT chính sách thu
bao gồm có 7 sắc thuế sau:
+ Thuế nơng nghiệp
+ Thuế đất
+ Thuế tài nguyên
+ Thuế doanh thu
+ Thuế XNK
+ Thuế lợi tức
+ Thuế thu nhập
16


Trong chính sách thu cả hai nghị định trên Nhà nước đã có sự phân biệt
thuế giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, DNNN
thường được ưu ái hơn rất nhiều do với doanh nghiệp tư nhân. Sự ưu ái đó chủ
yếu là bằng hình thức miễn, giảm, hỗ trợ …
Đến năm 1991 Hội đồng Bộ trưởng có Nghị quyết số 12/HĐBT, ngày
26/2/1991 về ban hành sắc thuế tiêu thụ đặc biệt, loại tuế này chỉ đánh vào một số
hàng hố có tính chất xa xỉ như: rượu, bia, thuốc lá, nước ngọt, nước hoa, đồ

trang điểm, xăng dầu các loại.
Năm 1992 Thủ tướng Chính phủ đã có Nghị định số 02/TTg, ngày
23/1/1992 về thu phí và lệ phí, nghị định này thay cho quy định về phí và lệ phí
năm 1984. Trong Nghị định này bao gồm có: phí đường bộ, đường thủy, bầu trời,
thị thực...
2.1.2. Hệ thống ở CHDCND Lào trong giai đoạn từ 1995 đến nay
Ngày 14/10/1995 Quốc hội nước CHDCND Lào đã thông qua và ban hành
Luật thuế đầu tiên, trong Luật thuế này bao gồm các sắc thuế sau:
- Các sắc thuế được ban hành dưới hình thức luật
 Thuế xuất khẩu ( 14/7/1994)
 thuế nhập khẩu(18/7/1994)
 Thuế doanh thu (14/10/1995)
 Thuế tiêu thụ đặc biệt(14/10/1995)
 Thuế lợi tức (14/10/1995)
 Thuế tối thiểu (14/10/1995)
 Thuế thu nhập cá nhân (14/10/1995)
 thuế đất đai(12/4/1997)
 Thuế tài nguyên(12/10/2002)
- Các sắc thuế ban hành dưới hình thức pháp lệnh
17


Các loại thuế khác mang tính chất phí và lệ phí như: thuế mơn bài, thuế sát
sinh, thuế chuyển quyền sở hữu đất, lệ phí trước bạ, lệ phí đăng ký kinh doanh và
các loại phí như: học phí, viện phí.
Thời gian thực hiện Bộ luật thuế năm 2005 đã khơng cịn phù hợp với tình
hình thực tiễn, nên đến ngày 20/12/2011, Nhà nước đã ban hành Bộ luật Thuế
một lần nữa để cho phù hợp với tình hình thực tế trong nước. Bộ luật thuế mới
này bao gồm các loại thuế như sau:
* Bộ luật thuế trong nước: gồm có thuế trực thu và thuế gián thu

- Thuế gián thu: gồm có 2 loại thuế:
+ Thuế giá trị gia tăng (VAT)
+ Thuế tiêu dùng (thuế tiêu thụ đặc biệt)
- Thuế trực thu: gồm có 5 loại thuế:
+ Thuế lợi tức (thuế thu nhập doanh nghiệp)
+ Thuế thu nhập cá nhân
+ Thuế khốn
+ Thuế tài ngun
+ Các loại phí và lệ phí
- Luật thuế xuất, thuế nhập khẩu
- Luật thuế đất đai
2.2. Tác động của chính sách thuế ở CHDCND Lào
Trước năm 1995 chính sách kinh tế tài chính của Lào được xây dựng chủ
yếu là phục vụ cho nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp cho nên có những
cái cứng nhắc, xa rời thực tiễn, có những chính sách chỉ đưa ra nhưng khơng thực
hiện được trong thực tiễn... Vì vậy, chính sách kinh tế - tài chính trong thời kỳ
này khơng phát huy được hiệu quả, có tác dụng ngược lại đối với nền kinh tế.
Những khó khăn trong việc xây dựng đất nước giàu mạnh, đem lại hạnh
phúc ấm no cho nhân dân các bộ tộc Lào đã giúp Đảng nhìn thấy vai trị của
chính sách phát triển kinh tế - tài chính là rất quan trọng, muốn đưa đất nước
18


thoát ra khỏi lạc hậu, nâng cao đời sống nhân dân thì việc đổi mới chính sách
kinh tế tài chính là cấp bách và phải phù hợp với tình hình thực tiễn của Lào. Vì thế,
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV năm 1986 Đảng NDCM Lào đã khẳng
định: "Đổi mới tư duy, đổi mới chính sách và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - tài
chính có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước"
[67, tr.63].
Nhìn chung, chính sách thuế ở CHDCND Lào trong thời gian qua đã tác

động tích cực đến nền kinh tế-xã hội của Lào đáng kể: bảo đảm được nguồn thu
chủ yếu của NSNN và tăng liên tục qua các năm, không chỉ bảo đảm cung cấp
đủ cho các khoản chi thường xuyên, mà cịn góp phần vào tích luỹ vốn NSNN để
phát triển kinh tế, giảm bội chi ngân sách, kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, giá
cả; phát huy được tác dụng phục vụ yêu cầu quản lý và điều tiết vĩ mơ nền kinh
tế, giải phóng mọi tiềm năng sản xuất kinh doanh và tạo được sự cạnh tranh lành
mạnh giữa các thành phần kinh tế, từng bước thúc đẩy hạch toán kinh tế, sắp xếp
lại tổ chức kinh doanh, tăng cường trang thiết bị để mở rộng hoạt động sản xuất
với năng suất, chất lượng ngày càng tăng, thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư
nước ngoài, mở rộng quá trình hợp tác kinh tế khu vực, thế giới, thực hiện bình
đẳng, cơng bằng xã hội, nâng dần đời sống nhân dân.
Nhìn tổng qt, hệ thống chính sách thuế của Lào qua nhiều lần bổ sung, sửa
đổi về cơ bản là phù hợp với đường lối, chủ trương chung của Đảng, Nhà nước
qua từng thời kỳ và cơ bản phù hợp với xu thế cải cách thuế thế giới. Nhờ đó,
thuế đã bảo đảm được số thu ngày càng tăng và đáp ứng được nhu cầu cơ bản về
chi của NSNN, phát huy được tác dụng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, thực
hiện cơng bằng, bình đẳng xã hội.

19


III. NHỮNG TỒN TẠI CỦA TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH THUẾ Ở
CHDCND LÀO VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
3.1.

Những tồn tại

Tuy vậy, nhìn chung nội dung các loại thuế vừa chồng chéo, thu trùng lắp
vừa chưa bao quát được hết các nguồn thu cần bồi dưỡng, khai thác, động viên
phát sinh qua kinh tế thị trường, chế độ quản lý thu thuế cịn nhiều mặt phức tạp,

gây phiền hà khơng cần thiết với đối tượng nộp thuế, công tác quản lý chủ yếu
cịn theo phương pháp thủ cơng nên cơng việc vừa gặp nhiều khó khăn, vừa đạt
hiệu quả thấp. Một số chính sách, chế độ quản lý thu thuế chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế, chưa đủ hấp dẫn để thu hút đầu tư nước ngoài và thúc đẩy hội
nhập thuận lợi.
Tuy nhiên, với tiêu chuẩn của một hệ thống thuế hiện đại, hệ thống thuế
của cả nước còn nhiều nhược điểm và có những mặt chưa phù hợp với biến động
kinh tế, xã hội trong nước cần được nghiên cứu, hồn thiện.
3.2.

Các giải pháp nhằm hồn thiện chính thuế ở CHDCND Lào

Xây dựng hệ thống chính sách thuế của Lào theo xu hướng cải cách thuế
của quốc tế và phủ hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của Lào.
- Đối với quy trình xây dựng hệ thống chính sách thuế
Về phương diện pháp lý cho đến nay ở Lào quy trình xây dựng, bổ sung hệ
thống chính sách thuế chưa được nghiên cứu ban hành một cách chuẩn tắc, có
tính pháp lý cao, nhất quy trình lấy ý kiến tham gia đóng góp của các tổ chức, các
đoàn thể, các tầng lớp dân cư và các đối tượng nộp thuế chưa được quan tâm
đúng mức, chưa quy định thủ tục, bước đi cụ thể. Các văn bản hiện có cịn nêu
chung chung, các bước tiến hành chưa cụ thể ở từng khâu cơng việc. Vì vậy để
khắc phục những hạn chế, Quốc hội cần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh quy định về
quy trình, thủ tục ra các văn bản pháp lý cho các cơ quan các cấp. Trong đó quy
20


định rõ thẩm quyền ra văn bản và cách thức trình tự ra văn bản, xác định rõ các
loại văn bản thuộc thẩm quyền các cấp ban hành.
Trên cơ sở đó Bộ Tài chính và Tổng cục thuế cụ thể hồ trong lĩnh vực
thuế. Một hệ thống chính sách thuế tốt, có tính khả thi cao, được xã hội chấp

nhận là một hệ thống chính sách thuế vừa phản ánh được yêu cầu động viên của
NSNN vừa thích ứng với những diễn biến của tình hình kinh tế xã hội, phản ảnh
những yêu cầu của công tác quản lý kinh tế, xã hội quản lý thuế trong từng giai
đoạn phát triển. Chính vì vậy, để nắm bắt được u cầu đó trong q trình hồn
thiện, đổi mới hệ thống chính sách thuế cần thiết phải có q trình điều tra khảo
sát thực tế, nắm bắt những diễn biến và những yêu cầu của thực tiễn một cách cụ
thể, sát thực.
Ngoài ra, khi hệ thống chính sách thuế được khởi thảo cần có sự tham khảo
ý kiến rộng rãi của các tổ chức, đoàn thể, từng lớp dân cư cũng như các đối
tượng. Khi chính sách thuế được Quốc hội phê chuẩn phải kịp thời phổ biến rộng
rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc phải tiến hành tập huấn, phổ
biến trong các hội nghị có liên quan đến cơng tác thuế.
Tóm lại, vấn đề hồn thiện, đổi mới hệ thống chính sách thuế là một vấn đề
quan trọng, song hết sức phức tạp liên quan nhiều đến vấn đề lợi ích trong nền
kinh tế quốc dân. Do đó, việc hồn thiện, đổi mới hệ thống chính sách thuế hiện
có, ban hành chính sách mới khơng thể tiến hành một cách tuỳ tiện mang tính chủ
quan mà phải có quy trình thực hiện một cách chặt chẽ.
- Xây dựng và triển khai một số sắc thuế mới
+ Nghiên cứu xây dựng Luật thuế nhà
Do điều kiện khó khăn về nhà ở, trong một thời gian qua ở Lào không áp
dụng thuế nhà để khuyến khích đầu tư vào nhà ở của người dân. Nay tình hình
nhà ở ở Lào đã có bước cải thiện đáng kể, do đó cần khẩn trương xây dựng Luật
thuế nhà một mặt nhằm tăng nguồn thu cho NSNN, mặt khác nhằm tăng cường
quản lý quỹ nhà ở của Nhà nước. Đối với Lào, đây là một sắc thuế mới cần được
21


nghiên cứu kỹ theo điều kiện thực tế về kinh tế - xã hội ở thành thị và nông thôn
của Lào hiện nay trước khi ban hành.
+ Xây dựng thuế bảo vệ môi trường

Đây là một loại thuế mới, cho nên Lào cần phải nghiên cứu kỹ và tìm hiểu
kinh nghiệm của các nước, đây là loại thuế đánh vào các hoạt động gây ô nhiễm
môi trường ( đất, nước, khơng khí, mơi trường sinh thái...), phát sinh từ chất
thải công nghiệp, y tế, sinh hoạt, gây tác hại đến sự phát triển kinh tế, sức khoẻ
của cộng đồng nhân dân. Sự có mặt của loại thuế này góp phần tạo quỹ bảo vệ
môi trường, chống chuyển dịch công nghiệp rác thải vào Lào và cải tạo môi sinh,
môi trường.
+ Xây dựng thuế chống bán phá giá
Theo quy định của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT)
1994 thì "bán phá giá" là hành vi bán hàng hố ra thị trường nước ngồi thấp hơn
giá bán của chính hàng hố đó hoặc hàng hố cùng loại tại thị trường trong nước.
Phần chênh lệch đó gọi là biên độ phá giá.
Có thể khẳng định rằng bán phá giá là hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong thương mại quốc tế. Việc bán phá giá đã làm cho các ngành sản xuất các
mặt hàng tương tự của nước nhập khẩu gặp khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm. Vì vậy, một biện pháp chống bán phá giá hiệu quả là "thuế chống bán
phá giá" được các nước sử dụng để đánh vào các mặt hàng nhập khẩu đã được
xác định là bán phá giá nhằm triệt tiêu những tác động bất lợi đối với ngành sản
xuất trong nước do hàng nhập khẩu đem lại. Thuế chống bán phá giá được coi là
một công cụ bảo vệ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh thiếu lành mạnh
trong thương mại quốc tế và công cụ này được Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) cho phép áp dụng.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang tạo ra những thách thức to lớn đối
với khả năng cạnh tranh của hàng hố Lào, trong đó có các biện pháp thương mại
22


khơng lành mạnh mà các nước khác có thể áp dụng như việc bán phá giá đối với
hàng hoá của họ xuất khẩu vào Lào. Nếu không điều chỉnh bằng các biện pháp phù
hợp với thông lệ quốc tế sẽ gây bất lợi lớn cho sản xuất trong nước. Các biện pháp

đó chính là hệ thống các văn bản quy định về thuế chống bán phá giá và hiện nay
Lào vẫn chưa có quy định gì về điều đó.
Trước hết, cần nghiên cứu kỹ và ban hành văn bản có tính pháp lý cao về các
loại thuế này. Nội dung cần phù hợp với các quy định của WTO mặc dù Lào chưa
phải là thành viên nhưng cũng nên lấy quy định đó làm căn cứ nghiên cứu, soạn
thảo, đồng thời phải phù hợp với đặc thù của Lào.
Hiện nay các hàng hoá nhập khẩu vào Lào đều phải chịu sự điều chỉnh của
thuế xuất, nhập khẩu, chưa có các quy định gì về bán phá giá. Bởi vì trên thực tế
khi khối lượng, số lượng hoặc giá trị hàng hoá gia tăng đột biến một cách tuyệt
đối hoặc tương đối so với khối lượng, số lượng hoặc giá trị hàng hoá tương tự
hoặc hàng hoá cạnh tranh trực tiếp được sản xuất trong nước sẽ gây ra hoặc đe
doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hố trong nước. Mặc
dù điều đó chưa xảy ra tại Lào, nhưng trong quá trình hội nhập Lào cũng nên
chuẩn bị trước các biện pháp cần thiết để chống bán phá giá một cách thật rõ ràng
và phù hợp theo thông lệ quốc tế. Trong tương lai thuế chống bán phá giá có thể
chuyển vào thành một chương hồn chỉnh trong luật thuế xuất, nhập khẩu, thuận
tiện cho việc tra cứu và thực hiện thống nhất.
Đối với thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp trước hết phải nghiên cứu xây
dựng các văn bản pháp lý về chống bán phá giá, chống trợ cấp, tổ chức bộ máy quản
lý, điều tra, theo dõi, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm nước ngồi.
Đối với thuế chống ơ nhiễm mơi trường trước hết phải xây được luật bảo
vệ và quản lý môi trường, tổ chức hệ thống các cơ quan bảo vệ và quản lý môi
trường; đầu tư các công cụ cần thiết cho việc bảo vệ và quản lý môi trường. Khi

23


các điều kiện đó được thực hiện thì việc áp dụng thuế chống ơ nhiễm mơi trường
mới có hiệu quả.
Tóm lại, trên đây là những đề xuất các giải pháp hồn thiện các chính sách

thuế hiện hành và có những định hướng chính cho việc áp dụng một số chính
sách thuế mới. Chính sách thuế dù có được hồn thiện tốt, song khơng gắn với
q trình đổi mới cơng tác tổ chức quản lý thu thuế thì hệ thống chính sách đó
khó đạt được hiệu quả trong thực tiễn.

24


PHẦN KẾT LUẬN
Thời gian qua, việc hoạch định chính sách cơng ở Việt Nam đó cho ra đời
nhiều chính sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện cụ
thể là đó gúp phần vào phỏt triển kinh tế - xó hội của đất nước trong hơn 20 năm
thực hiện công cuộc đổi mới.
Tổng hợp và đánh giá thực trạng thuế của nước CHDCND Lào từ 1995
đến nay, trong đó có chia ra hai giai đoạn: từ 1995 đến 2005 đến nay, bao gồm
bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội, các đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
và chủ trương xây dựng hệ thống thuế, đồng thời có sự đánh giá kết quả hình
thành hệ thống thuế, những ưu, nhược điểm của hệ thống thuế của Lào trong thời
gian qua.
Từ thực trạng của hệ thống chính sách thuế của nước CHDCND Lào hiện
nay, đối chiếu với tình hình, nhiệm vụ trong giai đoạn mới đang mở rộng hội
nhập, phấn đấu tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong thời gian
gần đây, bản luận án đã đề cập đến những mục tiêu, yêu cầu cơ bản của việc hoàn
thiện hệ thống chính sách thuế, gắn với một số quan điểm về hiệu quả, về công
bằng, về nuôi dưỡng nguồn thu, về tính thích nghi với những đặc điểm về kinh tế
- xã hội trong nước cùng với những tác động phức tạp, cả thuận lợi và khó khăn
trong xu thế hội nhập mới. Trên cơ sở đó, mạnh dạn đề xuất một số phương
hướng, giải pháp phục vụ cho việc nghiên cứu xây dựng được một hệ thống thuế
phù hợp nhất, có khả năng đạt hiệu quả cao, cả về phần hồn thiện, sửa đổi, bổ
sung những sắc thuế hiện có và việc nghiên cứu, ban hành các sắc thuế mới.

Tuy nhiên, đề tài về hệ thống thuế mang tầm vĩ mơ với nội dung rất lớn
lao, phức tạp, nên khó tránh khỏi hạn chế, thiếu sót. Tác giả chỉ mới đề xuất được
một số vấn đề trọng tâm và xem đây chỉ là một sự tập dượt về phương pháp nghiên
cứu, chủ yếu về lý luận và các giải pháp đề xuất cũng chỉ mang tính định hướng, gợi

25


×