Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Bài thu hoạch môn chính trị học vai trò của an ninh chính trị ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.09 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
An ninh chính trị là một bộ phận quan trọng của an ninh quốc gia, có
nội dung chính là đảm bảo sự ổn định chính trị và trật tự xã hội, tức đảm bảo
hiệu quả và hiệu lực của quyền lực chính trị trong quốc gia đó. Đại hội XIII
xác định: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn
xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật
tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm,
từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu
tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và
hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”.


2

NỘI DUNG
NHỮNG VẤN ĐỀ AN NINH CHÍNH TRỊ CHỦ YẾU ĐẶT RA
CHO VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ỨNG PHÓ
1. Các vấn đề chung về chủ quyền quốc gia
Khi nước ta tham gia vào các tổ chức quốc tế cũng có nghĩa là chịu các
ràng buộc pháp lý, địi hỏi sự sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật theo hướng
bảo đảm hài hoà với các điều ước quốc tế. Một số nghiên cứu cho rằng, tồn
cầu hóa và hội nhập quốc tế như vậy ảnh hưởng nghiêm trọng đến chủ quyền
quốc gia.
Trong quá trình bổ sung, điều chỉnh này, một số nước có thể lợi dụng
để gây sức ép, buộc Việt Nam phải chấp thuận các điều kiện do họ đặt ra như:
thay đổi nguyên tắc tổ chức nhà nước, xã hội hóa nhiều vai trị của Nhà nước,
đẩy mạnh tư nhân hóa kinh tế và chấp nhận nhiều nguyên tắc pháp lý xa lạ
với bản chất của chế độ, gây bất lợi cho quốc phòng, an ninh của Việt Nam.
Ngồi ra, các thế lực thù địch thơng qua các chương trình, dự án hợp tác giúp


Việt Nam xây dựng pháp luật, đưa các tư tưởng, học thuyết, các giá trị của
mình vào hệ thống pháp luật Việt Nam. Đây có thể coi là tác động trực tiếp, là
con đường ngắn nhất để các thế lực thù địch đạt được mục tiêu cuối cùng là
xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ xã hội chù nghĩa ở Việt Nam.
Mặt khác, bản thân Việt Nam, do cịn trong tiển trình đổi mới, có nhiều
vấn đề lý luận về nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa, về nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về vai trò của Nhà nước trong điều kiện
mới chưa được nghiên cứu một cách bài bản và có hệ thống. Năng lực cán bộ
tham mưu, xây dựng pháp luật cũng cịn rất hạn hẹp, ít về số lượng và thiếu
kiến thức, kinh nghiệm dễ dẫn đến tình trạng bảo vệ lợi ích cục bộ của ngành,
địa phương, chưa thực sự vì lợi ích chung và vì sự thuận lợi cho người dân
2. Các vấn đề an ninh về tư tưởng chính trị
Nhìn từ góc độ an ninh quốc gia, thậm chí có thể thấy an ninh tư tưởng
là an ninh quan trọng nhất cả trong dài hạn và ngắn hạn, vì chính hệ tư tưởng
và giá trị văn hóa truyền thống, đù có nhiều hình thức khác nhau và thậm chí


3

không được hiển ngôn, vẫn là các yếu tố cốt lõi nhất kết nối cộng đồng người
của quốc gia đó thành một khối thống nhất, thông qua sự chia sẻ niềm tin và
giá trị rộng rãi trong toàn bộ hệ thống, hun đúc nên phẩm cách và bản sắc, và
do vậy, tác động đến sự hưng vong trong suốt lịch sử của một dân tộc.
Các vấn đề về hệ tư tưởng
Các nghiên cứu chính trị học của cả cánh tả hay cánh hữu đều thống
nhất với nhau ở tầm quan trọng của hệ tư tưởng đối với quốc gia, mà trước hết
là với tư cách ý thức hệ nó định hình nhận thức xã hội, và từ đó tạo lập hệ giá
trị chính trị, quy định tính chính đáng của quyền lực nhà nước và xác lập trật
tự cho mọi hoạt động chính trị, xã hội. Chỉ cách đây vài trăm năm, khơng ai
có thể coi một nhà nước dân chủ là một nhà nước chính đáng, cịn xa hơn nữa

thì ngay cả nhà nước thế tục (vơ thần) cũng đã là một tư tưởng xứng đáng bị
kết án tử bởi nhà thờ và các lãnh tụ tôn giáo. Xã hội ln rối loạn mỗi khi có
một khoảng trống ý thức hệ.
Thách thức về an ninh tư tưởng ở Việt Nam tập trung chủ yếu trong
khái niệm “diễn biến hòa bình”, vì Việt Nam ln coi đây là một nguy cơ an
ninh quan trọng và luôn nhấn mạnh qua nhiều kỳ Đại hội Đảng về nhiệm vụ:
“Đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hịa bình”, hoạt động phá hoại,
gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch” .
Thuật ngữ “diễn biến hịa bình” được Ngoại trưởng Mỹ Dulles sử dụng
trong thời kỳ Chiến tranh lạnh để chỉ một chiến lược ứng phó với Liên Xơ và
khối các nước xã hội chủ nghĩa. Mặc dù sau Chiến tranh lạnh, Mỹ không
dùng thuật ngữ này trong các văn bản chính thức, nhưng xét về bản chất và
các nội dung triển khai trong chính sách đối ngoại thực tế, có thể thấy chiến
lược này vẫn được triển khai, và khơng chỉ bởi Mỹ.
Về bản chất, “diễn biến hịa bình” là biểu hiện của cuộc cạnh tranh tư
tưởng, và trong những thời điểm nhất định, mức độ cạnh tranh có thể bi đẩy
lên rất cao như là một cuộc chiến tranh tư tưởng, đặc biệt trong thời kỳ Chiến
tranh lạnh. Trong quan niệm của Việt Nam, chủ thể của “diễn biến hịa bình”
là các thế lực đế quốc, thù địch nhắm đến đối tượng là các quốc gia không đi


4

theo con đường tư bản chủ nghĩa phương Tây, bao gồm cả các nước xã hội
chủ nghĩa, với mục tiêu là xóa bỏ các chế độ chính trị “khơng thân thiện” đó,
mà cụ thể ở Việt Nam là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, để xác lập sự thống
trị của hệ tư tưởng và mơ hình nhà nước tư bản chủ nghĩa trên toàn thế giới.
Cùng với sự tấn công vào hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, ở Việt Nam cịn
có một thách thức đặc thù khác là sự tấn cơng tư tưởng Hồ Chí Minh, mà bộ
phận tư tưởng chính trị là cốt lõi nhất. Các thảo luận khoa học cũng như các

khác biệt trong nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh là một phần tất yếu trong
quá trình phát triển nhận thức, và đương nhiên không phải là “tấn công ý thức
hệ” mà chúng ta đề cập đến ở đây. “Sự tấn công” ở đây có hàm ý về việc sử
dụng các thủ thuật ngụy biện “giả khoa học” để làm lệch lạc, hạ thấp ý nghĩa,
hoặc thậm chí xóa bỏ tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, hạ thấp vả phủ nhận vai
trị lãnh đạo của Đảng hiện nay.
Đặc trưng của các thách thức về an ninh tư tưởng có thể tổng kết thành
5 nhóm:
* Tính phi vũ trang: Sử dụng các biện pháp dân sự và các công cụ phi
bạo lực tác động đến nhận thức và giá trị. “Quyền lực mềm” là thuật ngữ
chuyển tải sự ảnh hưởng thông qua các cơng cụ và hình thức khơng áp đặt
như các chính sách về ngoại giao, kinh tế và đặc biệt là văn hóa và giáo dục.
* Tính nội bộ: Lấy chuyển hóa từ bên trong quốc gia là trọng tâm. Khác
với các thách thức mang tính quân sự, chiến lược “diễn biến hịa bình” đặt
chuyển hóa nội bộ, mà trước hết là ý thức của các cá nhân và sau đó là ý thức
của xã hội khiến cho nội bộ tự diễn biến và tự chuyển hóa, từ đó chuẩn bị cơ
sở để gặp thời cơ sẽ tạo ra sự sụp đổ thể chế, và các cuộc cách mạng “nhung”
không tiếng sủng trên bình diện rộng của tồn bộ quốc gia.
* Tính tồn diện: Tác động ý thức, tư tưởng ln là sự tác động tồn
diện khơng chỉ trực tiếp đả phá hệ tư tưởng chính trị, mà cịn khéo léo lồng cả
trong các tất cả các lĩnh vực như kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục.
* Tính đa dạng và tinh xảo trong hình thức: Các hình thức đề tác động đến
tư tưởng ln có tính tinh xảo để gây dựng niềm tin và thậm chí ln phải khốc


5

chiếc áo khách quan khoa học, thiện tâm. Cũng như việc cải đạo, người cải đạo
luôn phải thấy rằng sự thay đổi là do chính mình tự nguyện, mà khơng thấy rằng
mình chỉ đi từ hệ thống tuân phục này sang một hệ thống tn phục khác.

* Tính tồn cầu: Sức mạnh của thuyết phục tư tưởng cũng nằm trong
chính số lượng của những người theo tư tưởng đó. “Tất cà đều tin vào Chúa”
đã từng là lý lẽ quan trọng nhất để định hình giá trị và hành vi cho hàng tỷ
người trên thế giới ở các nền văn hóa và khu vực địa lý khác nhau, và các thách
thức về an ninh tư tưởng cũng vậy: Cuộc cạnh tranh tư tưởng ln có phạm vi
tồn cầu, và ln khốc chiếc áo “giá trị phổ qt” của tồn nhân loại.
Chỉ nhìn nhận đúng các đặc trưng này mới có thể thấy rõ và đối phó
hữu hiệu với các thách thức về an ninh tư tưởng ở nước ta hiện nay. Trong
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Đảng
đã đưa ra chín biểu hiện đặc trưng của “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”
trong nội bộ, bao gồm cả các biểu hiện rất cụ thể như: “đòi thực hiện đa
nguyên đa đảng”, “phi chính trị hóa qn đội”, “phủ nhận nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu tồn dân về đất đai”, “địi
tam quyền phân lập”...
Các vấn đề về văn hóa, tơn giáo và dân tộc
Văn hóa thường được ví như bộ mã di truyền, xác định căn tính, bản
sắc của dân tộc, là yếu tố bền vững, dài hạn thẩm thấu mọi lĩnh vực hoạt động
xã hội. Vì là nền tảng tinh thần, nền văn hóa ảnh hưởng đến cả tư tưởng chính
trị, cụ thể hơn là ảnh hưởng đến sự phù hợp, sức sống của các chế độ chính trị
trong lịch sử dân tộc. Vì vậy, vấn đề về an ninh văn hóa cũng thường được
gắn với an ninh tư tưởng chính trị, dù tính chất và mức độ đe dọa trực tiếp có
các khác biệt lớn. Luật An ninh quốc gia cũng xác định nhiệm vụ “bảo vệ an
ninh về tư tưởng và văn hóa, khối đại đồn kết tồn dân tộc” bên cạnh các
nhiệm vụ an ninh chính trị khác như bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước
Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân.


6


Thách thức an ninh trên lĩnh vực văn hóa đến từ các hoạt động nhằm
xóa bỏ văn hóa, lối sống và các giá trị xã hội chủ nghĩa, truyền bá lối sống tư
sản phương Tây. Các hoạt động này đả kích, chế nhạo quan điểm “xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, coi đó là cổ hủ, lạc
hậu và ngược lại với các chuẩn mực “văn minh, hiện đại” của “xã hội toàn
cầu” hiện nay. Các thách thức này không chỉ đến từ việc đả kích các chủ
trương, đường lối, chính sách văn hóa như vậy, mà cịn kết hợp với việc tác
động, lôi kéo giới văn nghệ sĩ đưa ra các tác phẩm có tính chống phá chế độ,
cổ vũ lối sống thực dụng, ích kỷ, đẩy cái tơi đến “thái cực” dưới vỏ bọc “giá
trị hiện đại và toàn cầu”.
Trên lĩnh vực tôn giáo cũng tương tự, những sự khác biệt giữa người có
đạo với người khơng theo đạo cũng được sử dụng để cường điệu thành mâu
thuẫn giữa cộng sản vô thần với nhân dân, khiến một bộ phận các tôn giáo trở
thành lực lượng đối lập.
Trên lĩnh vực dân tộc, khối đại đồn kết dân tộc cũng có các thách thức
nghiêm trọng đến từ hoạt động gây chia rẽ giữa dân tộc Kinh với các dân tộc
thiểu số, đặc biệt tại các vùng biên cương trọng yếu. Sự nuôi dưỡng, cổ vũ và
cung cấp phương tiện cho các phong trào “ly khai” ở những vùng chiến lược
như Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Bắc, với tính chất và đặc thù khác
nhau nhưng đều có khả năng gây các điểm nóng, mất ổn định chính trị - xã
hội nghiêm trọng, dẫn đến hoạt động phá rối an ninh và thậm chí bạo loạn, lật
đổ chính quyền địa phương.
Vấn đề tôn giáo và dân tộc, cùng với vấn đề giai cấp có thể nói là ba
vấn đề trụ cột nhất mà bất cứ nhà nước nào cũng phải thiết kế các cơ chế giải
quyết. Ở những nước mà cơ cấu dân tộc và tôn giáo tương đối thuần nhất, các
vấn đề này trong quá khứ ít được đưa thành trọng tâm. Với tồn cầu hóa và
cách mạng khoa học - cơng nghệ hiện đại, tình hình trở nên rất khác. Bên
cạnh các cuộc di dân (hợp pháp và bất hợp pháp), sự dịch chuyển lao động
toàn cầu cũng như sự giao tiếp qua các phương tiện hiện đại đã khiến ngay cả



7

các quốc gia vốn tương đối thuần nhất về cơ cấu sắc tộc và tôn giáo cũng phải
thay đổi quan niệm.
Sự mất ổn định chính trị và sự nổi lên của các đảng cực hữu của nhiều
nước châu Âu, mà điển hình là Anh, Pháp và Đức chính là phát sinh từ mâu
thuẫn gay gắt trong cách thức giải quyết vấn đề dân tộc này. Thách thức an
ninh về dân tộc và tôn giáo lại càng phức tạp gấp bội khi chúng hòa quyện với
nhau như ở Việt Nam, và hòa quyện với các vấn đề giai cấp, tức các vấn đề về
kinh tế. Các giải pháp nếu chỉ hướng đến vấn đề kinh tế (tạo công ăn việc
làm, thu nhập...) dù rất quan trọng lại luôn chưa đủ và thậm chí kém hiệu quả
nếu khơng quan tâm đến đúng đối tượng để thay đổi nhận thức, như câu
chuyện về nhà nước có thể đầu tư lớn để làm tồn bộ hệ thống cung cấp điện
nhưng người dân sẽ luôn nhớ và tin theo người cho bóng đèn thắp sáng. Do
vậy, về hình thức, người truyền đạo làm điều tốt đẹp, nhưng về mục đích bên
trong, các hành động như vậy nhắm tới việc tạo nên sự chênh lệch về kinh tế
và vãn hóa giữa các cộng đồng dân tộc, từ đó tác động tới nhận thức của đồng
bào dân tộc với chính quyền, đặc biệt là chính quyền địa phương.

An ninh tư tưởng và an ninh mạng
Các vấn đề về an ninh tư tưởng gắn chặt với vấn đề an ninh mạng vì
mạng xã hội chính là mơi trường truyền bá tư tưởng quan trọng nhất trong xã
hội hiện đại. Việc cơng kích, bơi nhọ nhằm hạ uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà
nước ngày càng tinh vi và có tổ chức chặt chẽ theo từng “chiến dịch”, theo
từng sự kiện. Hệ quả là đã có các tác động tiêu cực tới tư tưởng, nhận thức
của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân; gây tâm lý hoang mang, nghi
ngờ, làm suy giảm lòng tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo
của Đảng, Nhà nước.

Hơn thế nữa, các hoạt động tấn công mạng khơng chỉ gây các tác động
tư tưởng, mà có thể trở thành vũ khí nguy hiểm, có sức tàn phá nặng nề khi
được sử dụng song hành cùng các loại vũ khí truyền thống nếu xung đột vũ


8

trang xảy ra, ứng phó với các thách thức này, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã
ban hành Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 16-9-2013 về tăng cường công tác bảo
đảm an tồn thơng tin mạng; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chi thị số
15/CT-TTg, ngày 17-6-2014 về tăng cường cơng tác bảo đảm an ninh và an
tồn thơng tin mạng trong tình hình mới. Gần đây nhất, ngày 8-1-2018, Thủ
tướng đã thành lập Bộ Tư lệnh tác chiến không gian mạng thuộc Bộ Quốc
phịng, chính thức cơng nhận tầm quan trọng của vấn đề về chủ quyền quốc
gia trên không gian mạng, bên cạnh bốn lĩnh vực an ninh truyền thống: trên
không, trên bộ, trên biển và trong không gian vũ trụ.
3. Các vấn đề an ninh về thể chế chính trị
Các vấn đề an ninh về Đảng, Nhà nước và hệ thống chính quyền
Các vấn đề an ninh về tư tưởng chính trị, tự bản thân chúng sẽ khơng có
nhiều ý nghĩa nếu khơng dẫn đến các tác động cụ thể tới hiệu quả và hiệu lực
trong thực tế của quyền lực chính trị ở một quốc gia, tức dẫn tới các đe dọa về
tính ổn định và phát triển bền vững của chế độ. Ở Việt Nam, quyền lực chính
trị được tập trung vào các thể chế Đảng, Nhà nước và hệ thống chính quyền
các cấp. Các vấn đề an ninh thể chế chính trị về căn bản là làm suy giảm hiệu
lực, hiệu quả của các thể chế chính trị căn bản này, và có thể được phân thành
ba cấp độ theo tính chất nghiêm trọng: đó là các hoạt động gây rối, bạo loạn
và lật đổ. Có thể nói, cốt lõi của an ninh chính trị là an ninh chế độ chính trị,
mà ở Việt Nam chính là vấn đề vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
hiệu quả quản lý của Nhà nước và sự tham gia chính trị của người dân. về bản
chất, đó là các thách thức trong ba trụ cột làm nên niềm tin của người dân vào

tính chính đáng của quyền lực, quy định sự tuân thủ và trật tự cần thiết của
một quốc gia như các nghiên cứu chính trị đã chỉ ra.
Cần nhìn nhận cả hai mặt của các thách thức này: cả về chủ quan - tức
các thách thức bên trong hệ thống chính trị và khách quan - các thách thức từ
bên ngoài hệ thống chính trị.
Về chủ quan, ngay trong Đảng: Ngay từ Đại hội VIII năm 1996, Đảng
đã xác định: “Nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự


9

sống cịn của hệ thống chính trị”. Các đại hội tiếp theo vẫn khẳng định nguy
cơ mang “tính sống cịn” này, và thậm chí cịn chỉ ra thêm các nguy cơ khác
đe dọa sự tồn vong của chế độ như: “Tình trạng tham nhũng, suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
là rất nghiêm trọng”; “Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng, vẫn cịn tình trạng “chạy chức “, “chạy
quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”... Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến
sự sống còn của Đảng, của chế độ” .
Sau 20 năm, Đại hội XII của Đảng vẫn nhận định rằng, dù có các “kết
quả bước đầu quan trọng, tạo chuyển biến tích cực”, song các hiện tượng đó
“chưa được đẩy lùi”, và thậm chí một số mặt “diễn biến phức tạp hơn”. Ngay
cả khi đã rất nghiêm khắc như vậy, trong Đại hội XII, các nhận định này cũng
bị có ý kiến chất vấn rằng đánh giá như vậy phải chăng là quá lạc quan.
Đương nhiên, các đánh giá định tính đó ln gây tranh cãi, nhưng có thể thấy
rằng, thách thức từ bên trong như vậy vẫn hiện hữu và vẫn ở mức độ nghiêm
trọng, vì vậy Hội nghị Trung ương 4 khóa XII tiếp tục ra nghị quyết khẳng
định quyết tâm đẩy lùi các nguy cơ này với các giải pháp và nhằm vào các
biểu hiện rất cụ thể, chi tiết
Về khách quan, các thách thức bao gồm:

Các hoạt động đả kích chế độ xã hội chủ nghĩa, các thể chế đảng và nhà nước.
Các hoạt động kích động gây rối, tạo ra khó khăn cho việc triển khai
các chính sách quốc gia, làm mất hiệu lực của quyền lực nhà nước, đặc biệt ở
cấp địa phương.
Các hoạt động bạo loạn lật đổ do một số nhóm người Việt với sự hậu
thuẫn từ các thế lực thù địch. Các nghiên cứu gần đây của Việt Nam cũng
được chỉ ra “công nghệ lật đổ" với kịch bản gồm:
+ Hình thành lực lượng đối lập sẵn sàng cho cuộc bầu cử.
+ Đẩy mạnh truyền thống kích động trong bầu cử.
+ Tẩy chay hoặc không công nhận kết quả bầu cử nếu phe đối lập
không chiến thắng.


10

+ Tổ chức các đám đông với tư cách “người dân” xuống đường đấu
tranh, cùng với truyền thống, nhất là từ mạng xã hội để gây ra bạo lực đường
phố, “cách mạng đường phố”.
+ Can thiệp từ bên ngoài với danh nghĩa “ủng hộ những chiến sĩ đấu
tranh vì dân chủ” vì “có gian lận bầu cử”.
+ Cơng nhận chính phủ mới của phe đối lập.
Như vậy, có thể thấy, một số đặc điểm nổi bật của công nghệ lật đổ này là:
- Vai trị quan trọng của truyền thơng.
- Vai trị của các tổ chức phi chính phủ trong chuẩn bị lực lượng.
- Vai trò của giới trẻ như lực lượng xung kích chủ chốt.
- Tận dụng mâu thuẫn nội tại trong xã hội và các tình huống chính trị,
điểm nóng xã hội làm ngịi nổ cho bạo loạn lật đổ các thể chế.
Những vấn đề về các tổ chức chính trị - xã hội
- Phát triển các tổ chức chính trị dưới hình thức tổ chức dân sự.
- Cơng đồn độc lập và các hội nghề nghiệp độc lập(báo chí, văn nghệ).

- Thành lập các tổ chức mang tính đảng chính trị; tác động đến các lực
lượng vũ trang công an, quân đội trung lập và các tổ chức chính trị - xã hội làm mất hiệu lực của quyền lực nhà nước.
- Kích động gây khó khăn cho việc triển khai các chính sách quốc gia.
- Phát triển các tổ chức chính trị dưới hình thức tổ chức dân sự.
4. Các kinh nghiệm ứng phó ở Việt Nam
Các vấn đề an ninh chính trị ở Việt Nam có các đặc điểm riêng như trên
đã phân tích, do bối cảnh cụ thể của nước ta cũng như bối cành quốc tế, đó là
hệ thống chính trị một đảng cầm quyền, sự tan rã của khối các nước xã hội
chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu. Bản thân Việt Nam vẫn ở trình độ phát triển
thấp, thiếu nguồn lực cũng như chịu nhiều sức ép từ các nước lớn khi mở cửa
và hội nhập quốc tế. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo, về tổng
quát, Việt Nam cần: “Nâng cao chất lượng công tác dự báo, phân tích tình
hình; nhân diện rõ đối tác, đối tượng; phát hiện từ sớm các mối đe dọa đến lợi
ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội để chủ động tham mưu, đề xuất


11

với Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp về chủ trương, giải pháp
bảo đảm an ninh, trật tự; kiên quyết không để bị động, bất ngờ, nhất là về mặt
chiến lược. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, triển khai các biện pháp bảo vệ
vững chắc an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội theo tinh thần “giữ nước từ
xa”, “giữ nước từ khi nước chưa nguy”, góp phần thực hiện hiệu quả đường
lối, chỉnh sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước”.
Tổng kết các kinh nghiệm ứng phó trong thời gian qua, bước đầu có thể
nêu lên một số điểm chính trong kinh nghiệm ứng phó của chủng ta như sau:
+ Giữ vững các nguyên tắc cốt lõi: Không chấp nhận đa ngun đa
đảng; hịa nhập khơng hịa tan.
+ Thống nhất về quan điểm chi đạo chung: Đảm bảo an ninh về tư
tưởng và thể chế chính trị phải là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên cùa toàn

bộ hệ thống dưới sự lãnh đạo của Đảng với lực lượng Công an nhân dân là
nịng cốt.
+ Nhấn mạnh phương châm ứng phó: Lấy giữ vững bên trong là chính,
lấy “xây” là chính; tiến hành đồng bộ cả về địa bàn và lĩnh vực. Kết hợp chặt
chẽ với ứng phó các thách thức khác, các nguy cơ khác như bốn nguy cơ
chính đã được chỉ ra.
+ Linh hoạt và sáng tạo trong sử dụng các hình thức tiến hành: kết hợp
phịng ngừa với chủ động tiến cơng.
+ Tập trung vào 6 nhóm giải pháp chính:
- Về chính trị: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hệ thống chính quyền; giáo dục
chính trị và đấu tranh tư tưởng; Nhà nước liêm chính, kiến tạo và hành động.
- Về kinh tế: Kiên định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
phát triển bền vững đi đôi với thực hiện tốt chính sách xã hội.
- Về tư tưởng văn hóa: Tăng cường cơng tác lý luận, bảo vệ nền tảng tư
tưởng; giáo dục truyền thống dân tộc.
- Về tơn giáo, dân tộc: Thực hiện tốt các chính sách tơn giáo dân tộc,
phát huy vai trị Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính tri - xã hội, các nhân sĩ
trí thức; đầu tư ưu tiên phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo cho đồng bào


12

các dân tộc thiểu số và đồng bào có đạo; tơn trọng tập qn và tín ngưỡng đi
đơi với chống hủ tục, mê tín, dị đoan.
- Về quốc phịng - an ninh: Xây dựng quân đội và công an vững mạnh,
có bản lĩnh chính trị và trung thành tuyệt đối vói lợi ích quốc gia - dân tộc;
nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân.
- Về đối ngoại: Tơn trọng luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi;
đa phương hóa, đa dạng hóa; xác định đúng đối tượng - đối tác trong quan hệ
quốc tế.

5. Liên hệ vận dụng vào thực tiễn, vào nhiệm vụ công tác hiện nay.
Là Thị uỷ viên, Bí thư Đảng uỷ phường Sơn Lộc, thị xã Sơn Tây, bản
thân cần tiếp tục học tập, nghiên cứu lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội, nâng cao nhận thức, nhất là
trong công tác Xây dựng Đảng, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh, qua đó để tun truyền cho cán bộ, đảng viên
trong việc thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, xây dựng
cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng, khả năng miễn nhiễm với những luồng
thông tin độc hại, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Tiếp tục phát triển, vận dụng những giá trị ưu việt của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong cơng tác của mình nhằm hồn thành xuất sắc những nhiệm vụ
được giao. Góp phần thiết thực trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, chống phá của các thế lực thù
địch trong điều kiện hiện nay.
Gương mẫu trong mọi hoạt động, trách nhiệm được giao, lắng nghe và
tơn trọng ý kiến đóng góp của tập thể và quần chúng nhân dân, tăng cường
tiếp dân theo quy định để kịp thời giải quyết khó khăn vướng mắc ở cơ sở, tổ
chức hội nghị đối thoại giữa người đứng đầu với Mặt trận tổ quốc, các đoàn
thể và nhân dân ở cơ sở. Qua đó giúp nâng cao nhận thức trong mỗi người
dân, biết phân biệt phải, trái, đúng, sai, khẳng định lòng tin của Nhân dân với


13

Đảng, với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, để mỗi người dân tự giác
góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung, bảo vệ lẽ phải, chống lại những
luồng tư tưởng lệch lạc, những thói hư, tật xấu trong đời sống xã hội.
Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo cần sáng suốt, nhạy bén kịp thời phát
hiện, đấu tranh phản bác các luận điêu sai trái, thù địch ngay từ những biểu

hiện nhỏ nhất, trong mọi mặt của đời sống xã hội ở địa phương, với những
phương thức linh hoạt, phù hợp thực tiễn. Hiện nay, các thế lực thù địch có
nhiều âm mưu, thủ đoạn để chống phá, với những phương thức hoạt động đa
dạng tinh vi. Chúng lợi dụng những sai sót, vướng mắc trong hoạt động lãnh
đạo, quản lý, điều hành, những biểu hiện tiêu cực trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên, nhiều khi chỉ là vơ ý trong nhận thức và những khó khăn khách
quan tác động, để dựng lên những câu chuyện xuyên tạc, tung lên mạng xã
hội, tạo dư luận xã hội nhằm chống phá, đả kích gây xáo trộn tư tưởng trong
Nhân dân. Vì vậy phải tun truyền, giải thích để mỗi cán bộ, đảng viên cần
cảnh giác, nhạy bén để kịp thời nhận thức được những âm mưu thủ đoạn,
chiêu trò trên để kịp thời phê phán, phản bác, đấu tranh, khơng chia sẻ, hưởng
ứng những vấn đề có tính nhạy cảm trên các trang mạng xã hội; phản ứng
nhanh, linh hoạt, chia sẻ, giải thích cho Nhân dân, mà trước hết là người thân
trong gia đình, là cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan và rộng ra trong
xã hội hiểu đúng bản chất của vấn đề, nhận thức được những chiêu trò, âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Quan tâm chăm lo tới đời sống vật chất, tinh thần và phát triển kinh tế,
xóa đói giảm nghèo, huy động mọi nguồn lực xã hội hoá để chăm lo đến các
đối tượng chính sách, người có công với cách mạng. Thường xuyên quan tâm
đến chế độ, chính sách của cán bộ, cơng chức, viên chức trong cơ quan, thực
hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ, giải quyết các khiếu nại, tố cáo (nếu
có), tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nhất là kỷ luật phát ngơn trong
q trình cơng tác, trước hết trong cơ quan, đơn vị và rộng ra ngoài xã hội.
Bám sát tình hình, cập nhật thơng tin chính thống, nắm bắt tư tưởng, dư
luận trong phường mình, để kịp thời chấn chỉnh, định hướng dư luận thông


14

qua các hội nghị giao ban, hội họp, qua trang fanpage trên mạng xã hội

Facebook “Trang tin phường Sơn Lôc”. Chủ động tham mưu, đề xuất với Thị
uỷ, Uỷ ban nhân dân thị xã Sơn Tây về chủ trương, giải pháp bảo đảm an
ninh, trật tự; kiên quyết không để bị động, bất ngờ khi có các tình huống xảy
ra trên địa bàn phường Sơn Lộc. Góp phần xây dựng cơ sở chính trị - xã hội
vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội ở địa phương.


15

KẾT LUẬN
Những vấn đề An ninh chính trị chủ yếu đặt ra cho Việt Nam hiện nay
trong đó có một phần trách nhiệm về nhiệm vụ được giao, thực thi công vụ,
về đạo đức lối sống, gương mẫu trước quần chúng nhân dân của mọi cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức trong cả hệ thống chính trị của Đảng, Nhà
nước. Qua đó, thiết thực góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đồn kết
tồn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế
kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.



×