LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các
số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được
các đồng tác giả cho phép và chưa từng được công bố trong bất kỳ
một cơng trình nào khác.
MỤC LỤC
Trang
1
Trang phụ bìa.............................................................................................................. i
Lời cam đoan............................................................................................................. ii
Lời cảm ơn...............................................................................................................iii
Mục lục...................................................................................................................... 1
Danh mục các chữ viết tắt..........................................................................................4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Viết đầy đủ
ĐC
Đối chứng
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
SGK
Sách giáo khoa
TNg
Thực nghiệm
2
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang vươn mình ra thế giới, cùng hội nhập và hợp tác với bạn bè
quốc tế. Xã hội đặt hàng cho ngành giáo dục sản phẩm là những người lao động
mới: tự chủ, năng động, sáng tạo. Trước tình hình đó, địi hỏi nền giáo dục nước ta
phải có những đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ về nội dung, chương trình và
phương pháp giảng dạy. Trong đó, đổi mới phương pháp dạy học là yếu tố quan
trọng, cần thiết. Tiếp cận với phương pháp dạy học hiện đại, vận dụng phù hợp vào
thực tiễn nước ta, đó là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để đưa nền giáo dục
nhanh chóng đáp ứng yêu cầu trên.
Phát triển giáo dục là chìa khóa, là địn bẩy để tạo nên sự phát triển nhanh
chóng và bền vững của đất nước trong thời gian sắp tới và lâu dài về sau. Quan
điểm này đã được qui định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII “Thực sự coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng
đầu” [9]. Trong những năm qua, giáo dục nước ta đã có nhiều đổi mới về nội dung
cũng như phương pháp dạy học và đã có nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập đến
việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tăng cường vai trò chủ thể của HS.
Phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức, trong đó việc giúp các
em có khả năng tự chiếm lĩnh tri thức là một trong những phương pháp cần thiết
[17]. Vì dù GV truyền đạt kiến thức có nhiều đến đâu cũng khơng thể hết được kho
tàng kiến thức đồ sộ của nhân loại. Hiện nay, phương pháp này đã được áp dụng
một phần nào đó trong dạy học. Tuy nhiên việc hướng dẫn đó chỉ mang tính lý
thuyết và khả năng vận dụng của HS chưa cao. Việc khai thác, vận dụng Internet
trong quá trình tự học của HS chưa được chú ý.
Hoạt động nhận thức được V.I.Lê Nin tổng kết thánh qui luật “Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con
đường biện chứng của nhận thức chân lí, nhận thức thực tiễn khách quan” [14].
Muốn nhận thức về một đối tượng nào đó một cách chân thực và đứng đắn cần
4
thơng qua hoạt động cảm giác, tri giác, từ đó mới có được những thao tác tư duy.
Một đặc điểm cần chú ý là tư duy chỉ được nảy sinh trong hồn cảnh có vấn đề. Do
đó, muốn thúc đẩy tư duy người thầy phải biết đưa HS vào tình huống có vấn đề.
Tình huống có vấn đề càng sinh động và hấp dẫn khi nó xuất phát từ thực tiễn mang
tính thời sự hoặc lịch sử.
Tự học là một loại hình học tập do người học thực hiện với tư liệu, tài liệu
tham khảo một cách chủ động, độc lập, tự giác để hướng tới nhiệm vụ học và đạt
được mục tiêu học đã xác định [8]. Các tài liệu học tập này có thể trình bày cả nội
dung, cách xây dựng kiến thức, cách kiểm tra kết quả sau mỗi phần được GV xây
dựng theo các phần mềm trên máy tính.
Để tự học có hiệu quả cần phải có tài liệu đầy đủ, rõ ràng và có sự hướng dẫn
của GV lưu ý HS vào các nội dung trọng điểm, cơ bản của tài liệu.
Do đó, việc nghiên cứu đưa ra một giải pháp khắc phục và nhằm giúp các em
có thể vận dụng việc tự học ở trên mạng Internet là rất thiết thực nhằm đổi mới
phương pháp dạy học từng môn học theo đúng yêu cầu đặt ra.
Trong chương trình vật lý phổ thơng, việc dạy học nội dung một số sóng điện
từ như sóng ánh sáng, tia hồng ngoại, tia tử ngoại, tia X và các kiến thức liên quan
gặp phải nhiều khó khăn do HS khó có thể hình dung. Các kiến thức này trừu tượng
vì khơng quan sát được bằng mắt thường cũng như khơng hoặc ít xuất hiện trong
đời sống thường ngày. Tuy nhiên, với những ưu thế về khả năng đồ họa, mô phỏng
mà các phương tiện dạy học hiện đại đem lại sẽ hỗ trợ và khắc phục những khó
khăn trên. Qua các bài giảng dưới dạng Web, GV có thể huy động các giác quan của
HS làm cho HS hứng thú, tích cực nhận ra các quan hệ giữa các hiện tượng, tái hiện
những khái niệm, quy luật... sẳn sàng giải quyết vấn đề thực tiễn và vận dụng vào
thực tiễn.
Ngày nay, giáo dục nước ta đã xây dựng một số Website phục vụ cho việc giáo
dục tự học của HS. Để gia tăng sự chọn lựa và chất lượng của các Website hổ trợ
cho việc tự học, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như xã hội đang khuyến khích mọi
người thiết kế và xây dựng thêm .
5
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài: “Vận dụng kỹ thuật
Webquest vào tổ chức hoạt động tự học cho HS chương “Sóng ánh sáng” Vật lý
12 THPT”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Năm 1995, giáo sư, tiến sỉ Bernie Dodge ở trường đại học San Diego State
(Mỹ) đã xây dựng Webquest trong dạy học. Ông muốn cung cấp cho học viên của
mình một dạng bài học trực tuyến để họ sử dụng tốt nhất quỹ thời gian của mình
cho việc trau dồi, bồi dưỡng khả năng tư duy. Ngay sau đó, Tom March phát triển
đầy đủ Webquest như là một phần của mạng lưới kiến thức PacBell. Sau đó, các nhà
giáo ở các trường có sử dụng các trang Webquest như là một nguồn tài liệu để đào
tạo theo ý tưởng riêng của mình. Trang Webquest lớn, phát triển liên kết đến các
Webquest được tạo ra bởi tất cả các nước trên thế giới nói tiếng Anh.
Ý tưởng của họ là đưa ra cho HS một tình huống thực tiễn có tính thời sự hoặc
lịch sử, dựa trên cơ sở những dữ liệu tìm được HS cần xác định quan điểm của mình
về chủ đề đó trên cơ sở lập luận. HS tìm được những thông tin, dữ liệu cần thiết
thông qua những trang kết nối Internet đã được GV lựa chọn từ trước [35].
Ở Việt Nam, Webquest đang từng bước được nghiên cứu và vận dụng ở một số
trường đại học và trường phổ thông. Tuy nhiên, việc thiết kế và sử dụng Webquest
trong tổ chức dạy học vật lí thì chưa thấy có cơng trình nào thực hiện.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
-
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về kỹ thuật Webquest
- Thiết kế và vận dụng được kĩ thuật Webquest trong dạy chương “Sóng ánh
sáng” Vật lý 12 cơ bản THPT”.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế và sử dụng được Webquest trong dạy học chương “Sóng ánh
sáng” thì sẽ phát huy được tính tích cực, độc lập và chủ động trong hoạt động nhận
thức của HS, từ đó sẽ nâng cao chất lượng của quá trình dạy học chương “Sóng ánh
sáng” Vật lý 12 cơ bản THPT.
6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được những yêu cầu trên, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
-
Nghiên cứu cơ sở lý luận của kỹ thuật Webquest và việc ứng dụng Webquest
trong dạy học vật lý.
-
Thiết kế Webquest để dạy chương “Sóng ánh sáng” Vật lý 12 cơ bản THPT.
-
Sử dụng Webquest để dạy học chương “Sóng ánh sáng” Vật lý 12 cơ bản THPT.
-
Thực nghiệm sư phạm.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động dạy học chương “Sóng ánh sáng” Vật lý
12 cơ bản THPT với sự hỗ trợ của Webquest.
-
Phạm vi nghiên cứu: Ứng dụng của Webquest trong dạy học chương “Sóng
ánh sáng” Vật lý 12 cơ bản THPT.
7. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các tài liệu về tổ chức hoạt động nhận thức của HS trong dạy học
vật lý ở trường phổ thông.
Nghiên cứu SGK và các tài liệu về phương pháp giảng dạy vật lý cần cho việc
xây dựng tiến trình dạy học.
Tham khảo các tài liệu về ngôn ngữ và các công cụ đơn giản hỗ trợ cho việc
thiết kế Webquest.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng các ngôn ngữ và công cụ hỗ trợ đơn giản để thiết kế Webquest dạy
học vật lý được cụ thể hóa trong dạy học phần từ trường.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tiến hành thực nghiệm đối chứng ở trường phổ thông để đánh giá hiệu quả
của tiến trình dạy học và các giải pháp sư phạm đã đề ra.
Ứng dụng toán học thống kê để xử lý số liệu và trình bày kết quả thực nghiệm
sư phạm.
7
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung luận văn
gồm ba chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận của việc vận dụng kĩ thuật Webquest vào dạy học vật lư.
Chương 2: Thiết kế và sử dụng Webquest vào dạy học chương “sóng ánh
sáng” vật lí 12 THPT (ban cơ bản).
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
8
PHẦN NỘI DUNG
Chương I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG KĨ THUẬT
WEBQUEST VÀO DẠY HỌC VẬT LÝ
1.1. Webquest và ứng dụng của Webquest trong dạy học
Tác động của Internet và World Wide Web về văn hố phổ khơng phải là khó
đánh giá. Điểm qua các thuật ngữ hiện hữu hàng ngày: Net lướt, siêu xa lộ thông
tin, trang Web, phịng chat, mạng, trình duyệt, trực tuyến, trang chủ, HTML và @
thì đủ hiểu các trang Web được cơng chúng rộng lớn nhận thức, tất nhiên nó cũng
xâm nhập vào xu hướng các HS, sinh viên. Vì vậy, thậm chí khi Web mang khơng
có giá trị giáo dục thì người GV sẽ cần phải đến với nó để hiểu về thế giới của sinh
viên và tham khảo. Hơn thế, Web khơng chỉ hữu ích cho giáo dục mà cịn, nó có thể
cách mạng hóa việc học tập của HS nếu sử dụng hiệu quả.
Web không phải là một bách khoa toàn thư lớn nhất thế giới. Cả hai rất cung
cấp nhiều thông tin về nhiều chủ đề, nhưng bách khoa toàn thư được tổ chức và
tham chiếu qua trong khi Web là vơ định hình và hỗn loạn. Nội dung của bách khoa
tồn thư được nghiên cứu, trình bày cẩn thận, Web lại được đăng tải thoải mái. Bách
khoa tồn thư được viết bởi các chun gia cịn bất cứ ai có thể viết một trang Web.
Do đó, nếu HS, sinh viên không được định hướng mà sử dụng Web chẳng khác nào
mời cả thế giới vào lớp học.
Web giống như một siêu xa lộ thông tin khi xem nó là một nguồn dữ liệu, sự
kiện, và con số. Hơn thế, Web là về con người, ý tưởng, và chia sẻ, Web đưa thơng
tin và hành động với chính nó. Với sự ra đời của giao diện thân thiện với người sử
dụng của Web, cả thế giới đều tham gia. Từ các lớp tiểu học đến các ban nhạc rock,
các cơng ty đều có thể kết nối với cộng đồng của họ để sẽ chia, trao đổi ý tưởng.
Do sự to lớn mà Web chứa đầy rác vô dụng. Tuy nhiên, không gian mạng
cũng chứa các viên đá quý. Với cơng cụ tìm kiếm mạnh hơn và dễ sử dụng hơn, các
trang Web được lọc thông qua hàng triệu các trang Web và liên kết với những thứ có
9
giá trị trong một cộng đồng cụ thể. Nhiều GV, sinh viên, HS đang trực tuyến hàng
ngày sẽ giúp định hình Web và gửi các trang mà chúng ta đang cần tìm kiếm.
Quan điểm dạy học lấy HS làm trung tâm thì khơng gì tốt hơn là cung cấp cho
các em nguồn tài nguyên. Với Web, nguồn tài nguyên được trình bày hỗn loạn, ý
kiến nhiều hơn sự thật, đá quý lẫn lộn với rác, HS phải chịu trách nhiệm việc học
của mình và xem xét kỹ lưỡng tất cả mọi thứ. Webquest tạo điều kiện thuận lợi,
giúp đỡ các em cho sự thay đổi điều này và cung cấp các kỹ năng cần thiết để điều
hướng hơn là lướt Web [39].
1.1.1. Khái niệm Webquest
Ngày nay Webquest được sử dụng rộng rãi trên thế giới, trong giáo dục phổ
thông cũng như đại học. Webquest được định nghĩa với nguyên tác là một bài học
có yêu cầu- định hướng, trong đó hầu hết hoặc tất cả các thông tin mà người học
làm việc xuất phát từ Web. Nó có thể được tạo ra bằng cách dùng các chương trình
khác nhau, bao gồm một tài liệu cần xử lý được liên kết đến các trang Web. Như
vậy, Webquest là một trang Web trợ giúp học tập, trong đó các nội dung học tập
được đưa ra dưới dạng câu hỏi đồng thời cung cấp nguồn tài liệu tham khảo để HS
có thể sử dụng trả lời các câu hỏi đó [36].
Theo nghĩa hẹp, Webquest được hiểu như một phương pháp dạy học
(Webquest - Method); theo nghĩa rộng, Webquest được hiểu như một mô hình, một
quan điểm về dạy học có sử dụng mạng internet [36].
Webquest cũng là bản thân đơn vị nội dung dạy học được xây dựng để sử dụng
phương pháp này và là trang Webquest được đưa lên mạng. Khi gọi Webquest là
một phương pháp dạy học, cần hiểu đó là một phương pháp phức hợp, trong đó có
thể sử dụng những phương pháp cụ thể khác nhau. Với tư cách là một phương pháp
dạy học, có thể định nghĩa Webquest như sau:
Webquest là một phương pháp dạy học mới, được xây dựng trên cơ sở phương
tiện dạy học mới là công nghệ thông tin và internet. Trong tiếng Việt chưa có cách
dịch hoặc dùng thuật ngữ thống nhất cho khái niệm này. Trong tiếng Anh, Web ở
đây nghĩa là mạng, Quest nghĩa là tìm kiếm, khám phá. Dựa trên thuật ngữ và bản
10
chất của khái niệm có thể gọi Webquest là phương pháp “khám phá trên mạng”.
Webquest là một dạng đặc biệt của dạy học sử dụng truy cập mạng Internet.
Từ những phân tích trên, theo chúng tơi, Webquest là một phương pháp dạy
học, trong đó HS tự lực thực hiện trong nhóm một nhiệm vụ về một chủ đề phức hợp,
gắn với tình huống thực tiễn. Những thơng tin cơ bản về chủ đề được truy cập từ
những trang liên kết (Internet links) do GV chọn lọc từ trước. Việc học tập theo định
hướng nghiên cứu và khám phá, kết quả học tập được HS trình bày và đánh giá.
1.1.2. Phân loại Webquest
Webquest có thể chia thành các Webquest lớn và các Webquest nhỏ [36].
Webquest lớn: xử lý một vần đề phức tạp trong một thời gian dài (ví dụ cho
đến một tháng), có thể coi như một dự án dạy học.
Webquest nhỏ: trong một vài tiết học (ví dụ 2 đến 4 tiết), HS xử lý một đề tài
chuyên môn bằng cách tìm kiếm thơng tin và xử lý chúng cho bài trình bày, tức là
các thơng tin chưa được sắp xếp sẽ được lập cấu trúc theo các tiêu chí và kết hợp
vào kiến thức đã có trước của các em.
1.1.3. Tạo Webquest
Việc tạo ra một Webquest có thể rất đơn giản, miễn là có thể tạo một tài
nguyên với những liên kết, ta có thể tạo ra một Webquest. Điều đó có nghĩa là
Webquest có thể được tạo ra trong Word, Powerpoint, Excel,… Một Webquest hội
tụ các thuộc tính quan trọng:
- Được xoay quanh một nhiệm vụ thú vị và có thể làm được, lý tưởng nhất là
một nhiệm vụ mà người lớn làm.
- Yêu cầu tư duy cấp độ cao hơn, khơng chỉ đơn giản là tóm tắt. Điều này bao
gồm tổng hợp, phân tích, giải quyết vấn đề, sáng tạo và đánh giá.
- Sử dụng tốt của các trang Web. Một Webquest mà không dựa vào nguồn tài
nguyên thực sự từ trang Web là có thể chỉ là một bài học truyền thống được ngụy
trang.
- Không phải là một báo cáo nghiên cứu hay thủ thuật tốn học.
- Khơng chỉ là một loạt các lịch duyệt dựa trên Web. Sau khi học viên đi lướt
11
Web và biến chúng thành kênh hình khơng địi hỏi kỹ năng tư duy bậc cao hơn[36].
1.1.4. Ứng dụng của Webquest trong dạy học
1.1.4.1. Các dạng ứng dụng của Webquest
Có hai dạng Webquest:
- Loại ngắn hạn: được thiết kế để người học hoàn thành trong một thời gian
ngắn (dưới một tuần) nhằm thu lượm kiến thức, tích hợp với kiến thức cũ và ứng
dụng. Người học làm việc với một lượng các thông tin đáng kể và rút ra được ý
nghĩa của nó.
-
Loại dài hạn: được thiết kế để người học hoàn thành trong một thời gian dài
(từ một đến bốn tuần) nhằm mở rộng, tinh lọc và tạo ra kiến thức mới.
Các hình thức mà một Webquest dài hạn có thể gợi mở cửa cho trí tưởng
tượng như:
Một cơ sở dữ liệu tìm kiếm, trong đó các hạng mục trong từng lĩnh vực được
tạo ra bởi các học viên.
Một thế giới vi mơ mà người dùng có thể điều hướng thơng qua đó đại tượng
cho một khơng gian vật lý.
Một câu chuyện hoặc nghiên cứu được tạo ra bởi người học.
Một tài liệu mơ tả một phân tích của một tình huống gây tranh cãi yêu cầu
được bổ sung thêm hoặc đưa ra lập luận phản bác.
Một người mô phỏng có thể được phỏng vấn trực tuyến. Các câu hỏi và câu trả
lời sẽ được tạo ra bởi các học viên đã nghiên cứu sâu sắc người được mô phỏng [36].
1.1.4.2. Mục đích sử dụng Webquest
Webquest được thiết kế nhằm giúp người học sử dụng thông tin hơn là phải
tốn thời gian tìm kiếm thơng tin.
Giúp người học phát triển tư duy bậc cao như phân tích, tổng hợp và đánh giá
(các kỹ năng tư duy bậc cao theo phân loại của Bloom).
1.1.4.3. Lợi ích sử dụng Webquest
Đối với HS: sử dụng Webquest để học tập các em có nhiệm vụ nhiều hơn cần
phải thực hiện. Chúng phải làm việc với một lượng thông tin lớn hơn, phong phú
12
hơn so với thông tin ở sách giáo khoa. Các em phải làm việc theo nhóm, đối mặt với
nhiều vấn đề phức tạp. Trong Webquest, các em phải vật lộn với sự mơ hồ. Các em
phải dành nhiều thời gian để học tập, biết tôn vinh nhiều quan điểm và đánh giá
được thơng tin trước khi hành động. Đó là các phẩm chất mà người lao động mới
cần có. Sử dụng Webquest trong lớp học chúng ta có thể xây dựng một nền tảng
vững chắc chuẩn bị cho tương lai.
Đối với GV: khi đã chuẩn bị một Webquest tốt, GV làm việc với cá nhân hay
nhóm với tư cách là huấn luận viên để hướng dẫn chứ không phải là nguồn dữ liệu
duy nhất trong lớp học. Thời gian lên lớp phần lớn để cho tổ chức hoạt động cho HS.
Webquest có thể được sử dụng ở tất cả các loại hình trường học. Điều kiện cơ
bản là HS phải có kỹ năng đọc cơ bản và có thể tiếp thu, xử lý các thông tin dạng
văn bản. Bên cạnh đó, HS cũng phải có những kiến thức cơ bản trong thao tác với
máy tính và Internet.
Webquest có thể sử dụng cho mọi mơn học. Ngồi ra, Webquest rất thích hợp
cho việc dạy liên môn [37].
1.2. Tự học và vai trò của Webquest trong tổ chức hoạt động tự học vật lý
1.2.1. Khái niệm tự học
Theo số liệu khoa học: Tỷ lệ trung bình về vai trị của các giác quan trong việc
thu nhận tri thức: Vị giác – 1%, Xúc giác – 1,5%, Khứu giác – 3,5%, thính giác –
11%, Thị giác – 83% và tỷ lệ tri thức cịn lưu lại trong trí nhớ sau khi thu nhận bằng
từng giác quan, bằng sự kết hợp các giác quan hoặc qua việc tự trình bày hoặc qua
việc thao tác tự thực hiện: Nghe – 20%, Nhìn – 30%, Nghe và nhìn – 50%, Tự trình
bày–80%, Tự trình bày và làm – 90% [32]. Điều đó chứng tỏ rằng, tự học là một
loại hình học tập mang lại hiệu quả học tập tốt nhất. Vấn đề tự học có nhiều quan
điểm khác nhau:
Theo GS. Nguyễn Cảnh Toàn, Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng
các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp v.v…) và có khi cả cơ
bắp (khi phải sử dụng cơng cụ), cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ tình
cảm, cả nhân sinh quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, khơng ngại
13
khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lịng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biết biến khó
khăn thành luận lợi v.v…) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân
loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình [21].
Tác giả Nguyễn Kỳ cho rằng, Tự học nghĩa là người học tích cực chủ động
tự mình tìm ra bằng hành động của mình, tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn,
học bạn, học thầy và học mọi người. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào
vị trí của người tự nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề pđặt ra
cho mình để nhận biết vấn đề, thu thập xử lí thơng tin cũ, xây dựng các giải pháp
giải quyết vấn đề, thử nghiệm các giải pháp... [12].
Tác giả Thái Duy Tuyên viết, Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến
thức, kỹ năng kỹ xảo… và kinh nghiệm lịch sử xã hội lồi người nói chung của
chính bản thân người học [26].
Theo tác giả Vũ Văn Tảo, thì Học cốt lõi là tự học, là q trình phát triển nội tại,
trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị con người bằng
cách thu nhận, xử lí và điều chỉnh thông tin từ môi trường sống của chủ thể [19].
Tác giả Võ Quang Phúc cho rằng: Tự học là một bộ phận của học, nó được tạo
thành bởi những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của người học trong hệ
thống tương tác của hoạt động dạy học. Tự học phản ánh rõ nhu cầu bức xúc về học
tập của người học, phản ánh tính tự giác và nỗ lực của người học, phản ánh năng
lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt được kết quả nhất định trong
hoàn cảnh nhất định với nội dung học tập nhất định [16].
Như vậy có thể hiểu, tự học khơng có nghĩa là học riêng một mình, cách tự
học tốt nhất là học với nhóm. Khi người học đã tự tiếp nhận kiến thức thì vai trị
người thầy( hướng dẫn, tác động...) là khơng thể thiếu. Bản chất của tự học là tự
làm việc với chính mình trước, nghiên cứu tài liệu, trao đổi với bạn bè theo cách
học với nhóm và được thầy khơi gợi, hướng dẫn. Để tự học đạt hiệu quả cần phải có
tài liệu đầy đủ, rõ ràng và có sự hướng dẫn của GV lưu ý HS vào các nội dung trọng
điểm, cơ bản của tài liệu tự học là quá trình tự giác, tích cực, độc lập chiếm lĩnh tri
thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo của chính bản thân người học. Trong q trình đó,
14
người học thực sự là chủ thể của quá trình nhận thức, nỗ lực huy động các chức
năng tâm lí, tiến hành hoạt động nhận thức nhằm đạt được mục tiêu đã định. Tự học
yếu tố là “nội lực” quyết định chất lượng học tập, sáng tạo cho hôm nay và mai sau.
1.2.2. Các hình thức tự học
Có 5 hình thức tự học cơ bản: Tự học trong một giai đoạn hay một khâu của quá
trình học tập, tự học trong q trình học tập ở trường có hướng dẫn của GV, tự học qua
phương tiện truyền thông, tự học có hướng dẫn qua tài liệu và tự học hồn toàn [3].
Tự học trong một giai đoạn hay một khâu của q trình học tập
Cơng việc thường xun của người học, đó là ngồi giờ học trên lớp, người
học phải hồn thành nhiệm vụ của mơn học đó thơng qua thời gian tự học ở nhà,
chẳng hạn như học thuộc bài và làm bài tập.
Tự học trong quá trình học tập ở trường có hướng dẫn của GV
Những hoạt động học như nghe giảng, ghi chép bài, thảo luận nhóm, làm việc
với sách, làm thí nghiệm, quan sát…của HS, được HS thực hiện một cách chủ động,
tích cực thì đều được gọi là hoạt động tự học, hoạt động này diễn ra ngay trong quá
trình tự học với sự điều khiển trực tiếp của GV đứng lớp. Với hình thức tự học này
thì GV đã biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo của mỗi HS.
Tự học qua phương tiện truyền thông
Người học không tiếp xúc trực tiếp với GV mà chủ yếu nghe GV giảng qua
phương tiện truyền thơng (đào tạo trực tuyến). Hiện nay hình thức tự học này rất
được khuyến khích,có nhiều phần mềm trực tuyến của bộ giáo dục và đào tạo tạo
điều kiện để HS tự học được giới thiệu ở trường, được tổ chức thi.
Tự học có hướng dẫn qua tài liệu
Người học trực tiếp làm việc với tài liệu hướng dẫn học tập thông qua các phương
tiện thông tin như băng ghi hình, ghi tiếng, ti-vi, mạng, các phần mềm dạy học …
Sự hướng dẫn tự học chủ yếu là sự hướng dẫn tư duy trong việc chiếm lĩnh tri
thức, phương pháp học tập, tra cứu, làm thí nghiệm. Trong tài liệu chỉ dẫn cách tra
cứu để người học tìm kiếm, bổ sung kiến thức. Dưới sự hướng dẫn từ xa ấy, người
học tự mình tiến hành các hành động học tập để hoàn thành các nhiệm vụ học tập.
15
Tự học hồn tồn
Là hình thức tự học ở mức độ cao nhất, người học không đến trường, không
cần sự hướng dẫn trực tiếp của GV, người học tự quyết định việc lựa chọn mục tiêu
học tập, lựa chọn nội dung học, cách học, các hoạt động tự học và các hình thức,
phương pháp kiểm tra, đánh giá, từ đó tổ chức, xây dựng, kiểm tra, kiểm sốt tiến
trình học tập của cá nhân với ý thức trách nhiệm cao. Hình thức tự học này gắn với
q trình tự hồn thiện của cá nhân người học.
1.2.3. Vai trò của tự học
Chúng ta đang sống trong thời đại năng động, phức tạp và có nhiều biến đổi.
Đó là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sự bùng nổ của thông tin, sự
mở rộng giao lưu, hội nhập của các nền văn hóa. Con người muốn thích nghi với
cuộc sống đó thì phải học ở mọi nơi, mọi lúc, phải học tập suốt đời.
Tự học là cách học tốt nhất giúp con người hiểu biết, cập nhật tri thức nghề
nghiệp, phát huy được năng lực của bản thân trong lao động và sáng tạo. Việc tự
học có vai trị vơ cùng quan trọng [5]. Cụ thể là:
Tự học đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng kiến thức
và hiệu quả học tập
Khi tự học, người học phải vận dụng các năng lực trí tuệ tới mức tối đa để tự
mình giải quyết vấn đề. Vì vậy, trong q trình dạy học, người học khơng chỉ là
khách thể chịu sự tác động của các hoạt động giáo dục mà cịn là chủ thể của q
trình nhận thức. Điều này địi hỏi người học phải tự tìm tịi, đào sâu suy nghĩ, động
não…từ đó tạo điều kiện cho việc thấu hiểu kiến thức sâu sắc hơn.
Tự học là nội lực của người học, đóng vai trị cốt lõi của hoạt động học
Trong hoạt động dạy học, việc tạo ra kiến thức cho người học gắn liền với
nhận thức của chính họ, kiến thức chỉ có được qua hoạt động tư duy của người học.
Kết quả của tự học cũng là sự chiếm lĩnh kiến thức, biến kiến thức chung của nhân
loại thành kiến thức riêng của mình. Người học không thể nhớ lâu và cũng không
thể vận dụng được những kiến thức đã học vào thực tiễn nếu như kiến thức đó chưa
16
phải là của họ. Vì thế tự học là một hoạt động cốt lõi của việc học.
Tự học là con đường tự hoàn thiện cá nhân
Khi tự học, các thao tác tư duy và thao tác chân tay được lặp đi lặp lại nhiều
lần góp phần hình thành kĩ năng, phương pháp cho người học. Trước cùng một tình
huống xảy ra, một vấn đề được nêu lên thì khả năng tự lí giải sự vật, hiện tượng của
từng người sẽ đạt các mức độ không bằng nhau. Rõ ràng, trong hoạt động học tập,
chất lượng và hiệu quả phụ thuộc vào mức độ tích cực tham gia (thái độ) và khả
năng xử lí (kĩ năng, phương pháp) của người học.
Như vậy, tự học là cách để tiếp nhận tri thức mới, so sánh với kiến thức sẵn có
trước đó, tự đúc rút kinh nghiệm để dần dần hoàn thiện bản thân mình.
Tự học có vai trị quan trọng trong việc rèn luyện tư duy
Trong quá trình tự học, người học phải sử dụng các thao tác tư duy như so
sánh, phân tích, tổng hợp, quy nạp, khái qt hóa, trừu tượng hóa... để giải quyết
vấn đề một cách sáng tạo, vì vậy các thao tác tư duy cần được rèn luyện thường
xuyên. Với cùng một lượng kiến thức nhưng các nhiệm vụ học tập đặt ra ngày càng
cao, điều này sẽ giúp cho HS rèn luyện được những kĩ năng, hình thành năng lực
giải quyết vấn đề. Từ đó sẽ góp phần nâng cao dần khả năng tư duy của HS.
Tự học có vai trị to lớn trong sự phát triển toàn diện ở mỗi cá nhân
Ngày nay, nguồn cung cấp thông tin rất đa dạng và phong phú từ sách, mạng
internet, băng, đĩa CD… nên nếu có KNTH tốt thì sẽ tận dụng được nguồn thơng tin
phong phú, đa dạng đó trong việc thu nhận kiến thức cho mỗi cá nhân. Trong thời
đại bùng nổ thông tin như hiện nay, tự học có vai trị quan trọng hơn bao giờ hết, tự
học là điều kiện quyết định sự thành cơng của mỗi người. Một triết gia đã từng nói:
“Anh đang tư duy nghĩa là anh đang tồn tại”. Vì thế con người muốn tồn tại đúng
nghĩa thì phải tự học, tự học là tự khẳng định mình.
Tự học có vai trò, ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển trí tuệ và phát triển
tồn diện con người. Chính vì thế mà hiện nay tự học khơng chỉ được xem là một
hình thức học tập quan trọng mà còn được xem là phương châm cơ bản, là mục tiêu
17
chiến lược của giáo dục Việt Nam nói riêng và của thế giới nói chung. Tự học giúp
người học tìm ra phương pháp học tập phù hợp với mình, biết cách tư duy sáng tạo,
biện luận một vấn đề nào đó, năng động linh hoạt trong vận dụng kiến thức vào giải
quyết các tình huống thực tế. Đồng thời, tự học giúp bổ sung, đào sâu, hệ thống hóa,
khái quát hóa những điều đã học, có tác dụng quyết định đến kết quả học tập, phát
triển và củng cố năng lực nhận thức, sức mạnh ý chí, nghị lực và những phẩm chất
cần thiết của việc tổ chức lao động học tập. Ngồi ra, tự học cịn giúp người học rèn
luyện tính độc lập, rèn luyện trí nhớ và tư duy. Chính vì vậy, giáo dục - đào tạo theo
hướng phát triển tự học sẽ tạo ra được những con người năng động, sáng tạo, có khả
năng cơng tác và có thể đưa ra nhiều ý tưởng phát triển tốt cho mỗi ngành nghề góp
phần vào sự phát triển của xã hội.
1.2.4. Năng lực tự học
Hoạt động tự học muốn diễn ra thực sự thì có một u cầu đặt ra là: cần phải
hình thành được ở người học năng lực tự học. Chỉ khi đã có được năng lực tự học
trong bản thân mình, người học mới tự mình tiến hành việc học tập một cách tự chủ,
độc lập, sáng tạo như đòi hỏi của giáo dục đào tạo ngày nay.
Theo từ điển Tiếng Việt thì năng lực là phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con
người khả năng hồn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao [20].
Giáo trình “Tâm lí học đại cương” (NXBĐHQGHN, 1998) chia khả năng
thành ba mức độ khác nhau: năng lực, tài năng, thiên tài. Nếu năng lực là một mức
độ nhất định của khả năng con người, biểu thị khả năng hồn thành có kết quả một
hoạt động nào đó; tài năng là mức độ năng lực cao hơn, biểu thị sự hoàn thành một
cách sáng tạo một hoạt động nào đó; thì thiên tài là mức độ cao nhất của năng lực,
biểu thị mức kiệt xuất, hoàn chỉnh nhất của các vĩ nhân trong lịch sử nhân loại.
Khi phân loại, năng lực được chia ra làm hai loại: năng lực chung và năng lực
riêng biệt. Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động khác
nhau, chẳng hạn những thuộc tính về thể lực, về trí tuệ (quan sát, trí nhớ, tư duy,
tưởng tượng, ngôn ngữ...) là những điều kiện cần thiết để giúp cho nhiều lĩnh vực
18
hoạt động có hiệu quả. Cịn năng lực riêng biệt (chuyên biệt, chuyên môn) là sự thể
hiện độc đáo các phẩm chất riêng biệt, có tính chun mơn nhằm đáp ứng yêu cầu
của một lĩnh vực hoạt động chuyên biệt với kết quả cao, chẳng hạn: năng lực toán
học, năng lực thơ văn, năng lực hội hoạ, năng lực âm nhạc, thể dục thể thao...
Hai năng lực này ln có sự bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Giữa năng lực và tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo ln có sự thống nhất biện chứng (không thể không đồng nhất
chúng với nhau). Một người có năng lực trong một lĩnh vực nào đấy có nghĩa là có
tri thức, kĩ năng kĩ xảo nhất định của lĩnh vực này. Vấn đề phát hiện, bồi dưỡng
năng lực, năng khiếu của mỗi người là một trong những vấn đề cơ bản của chiến
lược giáo dục nhằm nâng cao dân lực, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Năng lực luôn được xem xét trong mối quan hệ với hoạt động hoặc quan hệ
nhất định nào đó. Cấu trúc của năng lực gồm ba bộ phận cơ bản: tri thức về lĩnh vực
hoạt động hay quan hệ đó; kĩ năng tiến hành hoạt động hay xúc tiến, ứng xử với
quan hệ nào đó; những điều kiện tâm lí để tổ chức và thực hiện tri thức, kĩ năng đó
trong một cơ cấu thống nhất và theo một định hướng rõ ràng.
Như vậy, có thể nói năng lực là sự kết hợp linh hoạt, độc đáo của nhiều đặc
điểm tâm lí, tạo thành những điều kiện chủ quan thuận lợi, giúp cá nhân tiếp thu dễ
dàng, tập dượt nhanh chóng và hoạt động hiệu quả trong một lĩnh vực nào đó.
Theo Lê Cơng Triêm, năng lực tự học là khả năng tự mình tìm tịi, nhận thức
và vận dụng kiến thức vào tình huống mới hoặc tương tự với chất lượng cao. Năng
lực tự học của người học bao gồm các nhóm sau [6], [24]:
Nhóm năng lực nhận biết, tìm tịi và phát hiện vấn đề
Năng lực này đòi hỏi người học phải nhận biết, hiểu, phân tích, tổng hợp, so
sánh sự vật hiện tượng được tiếp xúc; suy xét từ nhiều góc độ, có hệ thống trên cơ
sở những lí luận và hiểu biết đã có của mình; phát hiện ra các khó khăn, mâu thuẫn
xung đột, các điểm chưa hoàn chỉnh cần giải quyết, bổ sung, các bế tắc, nghịch lí
cần phải khơi thơng, khám phá, làm sáng rõ… Đây là bước khởi đầu của sự nhận
thức có tính phê phán, địi hỏi nỗ lực trí tuệ cao. Việc thường xuyên rèn luyện năng
lực này tạo cho sinh viên thói quen hoạt động trí tuệ, ln ln tích cực khám phá,
19
tìm tịi ở mọi nơi, mọi lúc, mọi trường hợp và với nhiều đối tượng khác nhau.
Nhóm năng lực giải quyết vấn đề
Năng lực giải quyết vấn đề bao gồm khả năng trình bày giả thuyết; xác định
cách thức giải quyết và lập kế hoạch giải quyết vấn đề; khảo sát các khía cạnh, tiếp
nhận và xử lí thơng tin; đề xuất các giải pháp, kiến nghị các kết luận. Kinh nghiệm
thực tế cho thấy nhiều HS thu thập được một khối lượng thông tin phong phú nhưng
không biết hệ thống và xử lí như thế nào để làm “loé” ra con đường tiệm cận giả
thiết. Điều này đòi hỏi sự hướng dẫn cẩn thận và kiên trì của các GV trong việc dạy
cho HS kĩ thuật giải quyết vấn đề.
Với kĩ thuật này, HS có thể áp dụng vào rất nhiều trường hợp trong học tập
cũng như trong cuộc sống để lĩnh hội các trí thức cần thiết cho mình. Nên xem kĩ
thuật giải quyết vấn đề vừa là công cụ nhận thức đồng thời là mục tiêu của việc dạy
cho người học phương pháp tự học.
Nhóm năng lực xác định những kết luận đúng từ quá trình giải quyết vấn đề
Đây là một năng lực quan trọng cần cho người học đạt đến những kết luận
đúng của quá trình giải quyết vấn đề, hay nói cách khác, các tri thức cần lĩnh hội
sau khi giải quyết vấn đề sẽ có được một khi chính bản thân người học có năng lực
này. Năng lực này bao gồm các khả năng khẳng định hay bác bỏ giả thuyết, hình
thành kết quả và đề xuất vấn đề mới, hoặc áp dụng (nếu cần thiết).
Nhóm năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn
Kết quả cuối cùng của việc học tập phải được thể hiện ở chính ngay trong thực
tiễn cuộc sống, hoặc là người học vận dụng kiến thức đã học để nhận thức, cải tạo thực
tiễn, hoặc trên cơ sở kiến thức và phương pháp đã có, nghiên cứu, khám phá, thu nhận
thêm kiến thức mới. Điều đó địi hỏi người học phải có năng lực vận dụng kiến thức.
Nhóm năng lực tự kiểm tra và đánh giá
Trong dạy học tập trung vào người học đòi hỏi phải tạo điều kiện, cơ hội và
khuyến khích người học đánh giá và tự đánh giá. Có như vậy thì người học mới
dám suy nghĩ, dám chịu trách nhiệm và ln ln tìm tịi sáng tạo, tìm ra cái mới,
20
cái hợp lí, cái hiệu quả hơn. Năng lực đánh giá và tự đánh giá giúp người học xác
định chính xác điểm mạnh, yếu, cái đúng, sai của mình từ đó có thể chủ động phát
huy những mặt mạnh, điều chỉnh những điểm yếu, vững bước trên con đường học
tập của mình.
Các nhóm năng lực trên vừa đan xen, vừa tiếp nối nhau, tạo nên năng lực tự
học ở người học. Việc hình thành, bồi dưỡng các năng lực tự học cho người học là
một quá trình lâu dài và được thực hiện từng bước theo mức độ từ thấp lên cao, từ
đơn giản đến phức tạp.
1.2.5. Kĩ năng tự học
Kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh
vực nào đó vào thực tiễn. Kĩ năng có bản chất tâm lí, nhưng có hình thức vật chất là
hành vi hoặc hành động. Kĩ năng chính là biểu hiện của năng lực. Nhờ vào kĩ năng,
mới có thể biết được năng lực một cách cụ thể.
Kĩ năng học tập được hiểu là phương thức thực hiện có kết quả các hành động
học tập trên cơ sở vận dụng những tri thức, kĩ xảo đã có để giải quyết những nhiệm
vụ học tập mà QTDH đề ra trong những điều kiện học tập nhất định.
Kĩ năng học tập có cấu trúc gồm ba nhóm kĩ năng sau:
- Nhóm kĩ năng nhận thức học tập: Kĩ năng tìm kiếm khai thác nguồn học tập;
kĩ năng xử lý tổ chức đánh giá thông tin và nội dung học tập; kĩ năng áp dụng, biến
đổi, phát triển nhận thức và học tập.
- Nhóm kĩ năng giao tiếp và quan hệ học tập: Kĩ năng trình bày ngơn ngữ giao
tiếp bằng văn bản, lời nói với GV, lớp và trường về những vấn đề học tập; kĩ năng
giao tiếp học tập thơng qua các hình thức tương tác và quan hệ; kĩ năng giao tiếp
đặc biệt nhờ sử dụng phương tiện dạy học hiện đại nhằm mục đích học tập.
- Nhóm kĩ năng quản lý học tập: Kĩ năng tổ chức môi trường học tập cá nhân;
kĩ năng hoạch định quá trình và hoạt động học tập; kĩ năng kiểm tra đánh giá quá
trình và kết quả.
Kĩ năng tự học là một bộ phận của kĩ năng học tập, bao: kĩ năng thu thập thông
21
tin, kĩ năng xử lý thông tin và kĩ năng vận dụng tri thức vào thực tiễn... [5], [6].
Kĩ năng thu thập thông tin
Trước sự đa dạng và phong phú thơng tin như hiện nay thì việc chọn lọc thơng
tin tự học là hết sức quan trọng vì quá trình tự học được bắt đầu từ đây. Thông tin
này được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: quan sát thực tiễn xung
quanh, quan sát TN, hình vẽ, đọc sách, nghe GV giảng, ghi chép và ghi nhớ, nghe
và thu thập thông tin từ bạn học, từ mọi người xung quanh, từ các phương tiện nghe
- nhìn, truy cập trên mạng internet…
Ngày nay, tri thức vật lí hiện có khối lượng đồ sộ và thuộc nhiều lĩnh vực
chuyên sâu khác nhau. Vì vậy để người học có thể lựa chọn đúng, đủ, chọn cái thật
sự cần thiết, chọn những thông tin liên quan trực tiếp, gián tiếp… để phục vụ cho
việc tự học có hiệu quả thì địi hỏi người học phải có một kĩ năng thu thập thơng tin.
Thơng qua các hoạt động thu thập thơng tin đó thì các kĩ năng thu thập thơng tin
tương ứng sẽ được hình thành. Chẳng hạn như:
- HS có kĩ năng thu thập thông tin tốt khi quan sát một người đang tưới cây sẽ
nhanh chóng nhận biết rằng: vận tốc chảy của nước phụ thuộc vào tiết diện của ống
(nếu như áp suất khơng đổi) ống càng nhỏ thì vận tốc càng lớn.
- Hoặc khi HS quan sát cuộc đua xe máy thể thao, các em phát hiện ra được ở
các khúc cua các vận động viên phải nghiêng xe về phía trong và các em có thể tự
đưa ra câu trả lời cho mình.
Nhờ những kĩ năng quan sát như vậy, HS sẽ nhanh chóng nắm bắt các quy
luật, nhanh chóng nắm bắt và phát hiện vấn đề.
Đối với những thông tin từ sách, từ GV, từ bạn bè… những thơng tin này có
thể đã ở dạng là những kết luận, những khái niệm, những quy tắc, những định luật,
thì kĩ năng thu thập thơng tin địi hỏi người học cần biết chọn lọc thông tin, thu thập
đầy đủ những thông tin cần thiết. Những thông tin này được sắp xếp theo hệ thống,
một trình tự lơgic, biết phân tách, nhóm ý chính, phân ý phụ, ý nào bổ sung cho ý
nào. Từ đó các em sẽ hiểu được từng từ, từng ý, từng đoạn, và hiểu ý của tác giả
đồng thời ln có sự liên hệ, đối chiếu những thông tin thu nhận được với vốn hiểu
22
biết của các em và với thực tiễn.
Kĩ năng thu thập thơng tin cịn thể hiện ở kĩ năng sắp xếp thông tin. Nhờ các
kĩ năng này mà việc xử lý thông tin của các em sẽ dễ dàng hơn.
Kĩ năng xử lý thông tin
Sau khi thu thập thông tin thì bước tiếp theo là người học phải xử lý những
thông tin thu nhận được. Thông tin sau khi xử lý thì mới có thể sử dụng được, khi
tiến hành xử lý thơng tin thì người học phải biết phân loại và sắp xếp các thông tin
theo một ý đồ và một mục đích nhất định.
Bởi lẽ đó, để tự thu nhận được kiến thức và có thể vận dụng vào trong thực
tiễn, người học cần phải sắp xếp những kiến thức thu nhận một cách có hệ thống.
Muốn vậy, khi xử lý thông tin, người học phải thực hiện một loạt các thao tác trí tuệ
như: phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá, suy luận diễn dịch… Từ đó, những
kĩ năng xử lý thơng tin tương ứng như: kĩ năng phân tích, kĩ năng tổng hợp, kĩ năng
so sánh, kĩ năng khái quát hoá … sẽ được hình thành và phát triển.
Q trình tự học khơng phải chỉ thu nhận tri thức mà cần biến những tri thức
này thành tri thức của riêng bản thân người học. Q trình này, địi hỏi người học
phải biết phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hoá, khái quát hoá … Như vậy, kĩ
năng xử lý thông tin trong tự học liên quan mật thiết với các kĩ năng tư duy. Vì thế
việc rèn luyện các kĩ năng xử lý thông tin không thể tách rời với việc rèn luyện các
kĩ năng sử dụng các thao tác tư duy. Điều này càng đòi hỏi phải đề cao vai trò chủ
động, tích cực của người học trong QTDH nói chung.
Người học có khả năng xử lý thơng tin tốt sẽ làm cho những thông tin thu
được vững chắc, đồng thời sẽ tạo điều kiện cho việc thu thập thông tin tiếp theo
hiệu quả hơn, việc thu thập thơng tin tốt có vai trò quan trọng đến kết quả của khâu
xử lý thơng tin.
Như vậy, có thể nói, thu thập và xử lý thông tin là hai hoạt động diễn ra đan
xen nhau, tiếp nối nhau và có thể tạo thành một chuỗi các sự đan xen, tiếp nối. Qua
nhiều thao tác thu thập và xử lý thơng tin đó, người học sẽ nhận ra được các dấu
hiệu bản chất của vấn đề, từ đó tìm ra những quy luật của hiện tượng và sẽ giải
23
quyết được vấn đề.
Kĩ năng vận dụng tri thức vào thực tiễn
Vận dụng thông tin là bước tiếp theo và tất yếu của thu nhận và xử lý thông
tin. Sau khi thu nhận và xử lý thông tin, người học có thêm những tri thức mới, tuy
nhiên nếu khơng được sử dụng thì những tri thức đó sẽ bị lãng quên hoặc mai một.
Vì thế, việc vận dụng tri thức vào thực tiễn vừa là mục đích tự thân của việc học,
vừa là quá trình bổ sung, mở rộng, đào sâu, làm giàu tri thức cá nhân. Vận dụng tri
thức vào thực tiễn bao gồm cả việc vận dụng kiến thức đã có để giải quyết các vấn
đề thuộc về nhận thức. Đồng thời cũng sẽ vận dụng những kiến thức đó vào thực
tiễn sản xuất đời sống, sinh hoạt hàng ngày. Chẳng hạn như: lắp đặt, sửa chữa các
mạng điện đơn giản trong gia đình, giải thích các hiện tượng gần gũi trong cuộc
sống như hiện tượng sấm sét, hiện tượng cầu vồng, hiện tượng dính ướt và khơng
dính ướt.
Như vậy, khi tự học, kết quả cuối cùng của việc học đó là người học với
những kiến thức thu nhận được sẽ vận dụng ngay vào thực tiễn cuộc sống, cải tạo
thực tiễn. Khi người học có kĩ năng vận dụng tốt thì người học sẽ nghiên cứu, khám
phá, thu nhận thêm kiến thức mới trên cơ sở kiến thức và phương pháp đã có.
Kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá
Trong quá trình tự học, người học tự mình tìm tịi và thu nhận kiến thức, cho
nên kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá là một kĩ năng quan trọng. Kĩ năng này sẽ thực
hiện chức năng hỗ trợ là chẩn đoán, điều chỉnh cho những kĩ năng trước đó, từ đó sẽ
giúp cho q trình tự học của các em trở nên có hiệu quả hơn.
Việc tự học của HS là một quá trình diễn ra một cách thường xuyên và lâu dài,
thường mang yếu tố tự phát và tự giác. Bởi vậy, cần phải có q trình tự kiểm tra
đánh giá để các em tự hoàn thiện, tự bổ sung kiến thức và kĩ năng của mình. Chính
vì vậy, người học cần có kĩ năng tự kiểm tra đánh giá, nó có tính chất thúc đẩy, củng
cố, mở rộng vốn kiến thức, chỉnh lí, sửa chữa và nâng cao kiến thức của chính bản
thân người học.
Đối với HS thì trong hoạt động học tập các em sẽ không tránh khỏi những sai
24
sót, hiểu sai lệch vấn đề. Tuy nhiên, nếu các em tự nhận ra sai sót, dám nhìn nhận
vào vấn đề mà chỉnh sửa những sai sót, những quan niệm sai lệch và sẽ nâng cao
hiệu quả tự học khi có q trình tự kiểm tra đánh giá song hành.
1.2.6. Các giai đoạn của quá trình tự học
Quá trình tự học diễn ra theo ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Tự tìm tịi.
Người học tự quan sát, mơ tả, giải thích, phát hiện vấn đề, định hướng giải quyết
vấn đề, giải quyết vần đề, tự tìm ra kiến thức mới (kiến thức này chỉ mới đối với người
học) và tạo ra sản phẩm ban đầu hay sản phẩm thô đối với cá nhân người học.
Giai đoạn 2: Tự thể hiện.
Người học tự thể hiện bằng văn bản, bằng lời nói, tự trình bày, bảo vệ kiến
thức hay sản phẩm cá nhân ban đầu của mình, tự thể hiện qua sự tự học, hợp tác,
trao đổi, với các bạn và thầy cô giáo để tạo ra sản phẩm có tính chất xã hội của cộng
đồng lớp học.
Giai đoạn 3: Tự kiểm tra, tự điều chỉnh.
Sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác trao đổi với các bạn và thầy cô giáo,
sau khi thầy cô giáo kết luận, người tự học kiểm tra, tự đánh giá sản phẩm ban đầu
của mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh.
1.2.7. Rèn luyện kĩ năng tự học cho HS
Dạy học không chỉ giới hạn ở việc cung cấp các kiến thức mà quan trọng hơn
là dạy cho HS cách học, cách nghiên cứu một vấn đề. Hình thành năng lực tự học
cho HS là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình dạy học. Chỉ có tự học các em
mới tích cực, chủ động đối mặt với các tình huống học tập mới, sẳn sàng nhận
nhiệm vụ mà GV đặt ra.Vì vậy, trong quá trình dạy học GV cần xây dựng tinh thần
tự giác, tự ý thức học tập để phát triển tư duy, sáng tạo của các em. Sau đây là một
số biện pháp:
Xây dựng động cơ hứng thú học tập cho người học
Xây dựng động cơ học tập cho HS là một trong những vấn đề quan trọng nhất
của việc bồi dưỡng tinh thần tự học, vì sự tự giác học tập phải bắt nguồn từ bên
25