Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

(TIỂU LUẬN) đề tài NGHIÊN cứu thực trạng và giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa việt nam và nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 45 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Thực trạng và giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và Nhật Bản

Họ và tên thành viên nhóm:

Nguyễn Anh Tú
Nguyễn Thị Hương Thảo
Dương Thu Trang
Lại Nguyễn Đức Giang

Lớp: CTTT (B2+B1)- 8 ngành -K65S
Mã lớp: 123267
Giáo viên hướng dẫn:


TÓM TẮT
Vào những năm đầu của thập kỷ 90 trở lại đây, việc mở rộng hội nhập và hợp tác kinh
tế đã và đang trở thành một xu thế tất yếu của quá trình phát triển nền kinh tế. Những lợi ích
kinh tế của việc hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại cho mỗi thành viên tham gia, những lợi
ích kinh tế mà khơng một quốc gia nào có thể phủ nhận. Việt Nam cũng vậy, để đẩy mạnh
q trình Cơng nghiệp hố - Hiện đại hố, Đảng và nhà nước ta đã và đang thực hiện chính
sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá và đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, lấy mục tiêu
vì hồ bình và phát triển làm tiêu chuẩn cho mọi hoạt động đối ngoại. Đồng thời, trong bối
cảnh phân công lao động quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, việc hợp tác kinh tế quốc tế… đã và
đang trở thành cách tốt nhất để các quốc gia phát huy được tối đa lợi thế của mình, cũng như
khai thác triệt để những lợi ích của các quốc gia khác để phục vụ cho nước mình.
Khơng nằm ngồi xu thế trên, cả Việt Nam và Nhật Bản đều đã tìm thấy ở nhau


những điều kiện thuận lợi, cũng như lợi ích kinh tế của bản thân mỗi nước khi xây dựng, phát
triển và củng cố mối quan hệ hợp tác song phương giữa hai nước. Bên cạnh những kết quả
khả quan đã đạt được, trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Nhật Bản cịn có một số
hạn chế cần được khắc phục, loại bỏ nhằm phát triển hơn nữa cho xứng với tiềm năng của hai
nước, đưa mối quan hệ này lên tầm cao mới. Việc nghiên cứu những thành tựu và những mặt
tồn tại đó là rất cần thiết nên nhóm tác giả quyết định nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải
pháp phát triển thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản”.
Từ khóa: hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ thương mại, quá trình phát triển


MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

4

DANH MỤC BẢNG BIỂU

5

MỞ ĐẦU

6

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ MỐI QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM – NHẬT BẢN

8

1.1. Khái quát về Hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Khái niệm Hội nhập kinh tế quốc tế

1.1.2. Đường lối Hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.2. Khái quát về mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản

8
8
12
14

1.2.1. Giới thiệu về Nhật Bản

14

1.2.2. Lịch sử quan hệ Việt Nam – Nhật Bản

17

1.2.3. Ý nghĩa của quan hệ thương mại Việt Nam-Nhật Bản

20

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM
VÀ NHẬT BẢN TỪ NĂM 2010 ĐẾN NAY
22
2.1. Các hiệp định thương mại

22

2.1.1. Hiệp định song phương ASEAN- Nhật Bản (AJEPA)

22


2.1.2. Hiệp định về quan hệ đối tác kinh tế toàn diện ASEAN- Nhật Bản (AJCEP)

23

2.1.3. Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam- Nhật Bản

26

2.1.4. Thực trạng mối quan hệ hiện nay

29

2.2. Đánh giá

32

2.2.1. Thành tựu

32

2.2.2. Hạn chế

33

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ
NHẬT BẢN
35
3.1. Triển vọng quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản


35

3.2. Những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Nhật Bản

35

3.2.1. Giải pháp chung từ phía nhà nước

35

3.2.2. Giải pháp chủ động từ phía doanh nghiệp

37

3.3. Khuyến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Nhật Bản

38

3.3.1. Khuyến nghị đưa ra đối với nhà nước

38

3.3.2. Khuyến nghị đưa ra đối với các doanh nghiệp

38


KẾT LUẬN

40


DANH MỤC TÀI LIÊcU THAM KHẢO

41

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
KÍ HIỆU

TIẾNG ANH

TIẾNG VIỆT

AFTA

ASEAN Free Trade Area

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

ASEM

The Asia - Europe Meeting

Diễn đàn kinh tế Á-Âu

APEC

Meeting

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á- Thái
Bình Dương


Asia - Pacific Economic
AJEPA

ASEAN-Japan

Hiệp định song phương ASEAN-Nhật Bản

Ecomomic Partnership
Agreement
VJEPA

Vietnam -Japan
Ecomomic Partnership
Agreement

AJCEP

Hiệp định song phương Việt Nam-Nhật
Bản

Hiệp định về quan hệ đối tác kinh tế toàn
diện ASEAN-Nhật Bản

MFN

Most Favoured Nation

Tối huệ quốc


FTA

Free Trade Agreement

Hiệp định thương mại tự do

WTO

World Trade Organization

Tổ chức Thương mại Thế giới

AHTN

ASEAN Harmonised Tariff
Nomenclature

Danh mục thuế quan hài hoà ASEAN

CKD

Completely Knocked Down

Xe lắp trong nước với 100% linh kiện
được nhập khẩu

SL

Sensitive List


Danh mục nhạy cảm


ODA

Official Development
Assistance

Hỗ trợ Phát triển Chính thức, một hình
thức đầu tư nước ngoài

FDI

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

ADB

ASEAN Development Bank

Ngân hàng phát triển châu Á

DANH MỤC BẢNG BIỂU
BIỂU ĐỒ 1.1: Tình hình kinh tế Nhật Bản trong thập niên mất mát

1
7

BIỂU ĐỒ 1.2: Số vốn và số dự án đầu tư trực tiếp của Nhật Bản và Việt Nam


2
3

BIỂU ĐỒ 2.1: Bảng thống kê danh mục cam kết của Việt Nam trong AJCEP

2
4

BIỂU ĐỒ 2.2: Bảng phân tán số dịng thuế được xóa bỏ thuế quan theo ngành

2
6

BIỂU ĐỒ 2.3: Bảng thống kê danh mục cam kết của Việt Nam trong EPA

2
7

BIỂU ĐỒ 2.4: Bảng phân tán số dịng thuế được xóa bỏ thuế quan theo ngành của
Việt Nam trong Hiệp định EPA

2
8

BIỂU ĐỒ 2.5: Tỷ trọng xuất nhập khẩu Việt Nam – Nhật Bản

2
9


BIỂU ĐỒ 2.6: Mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam vào Nhật Bản

3
0

BIỂU ĐỒ 2.

3
2

7: Mặt hàng nhập khẩu hàng đầu của Việt Nam vào Nhật Bản


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với xu thế tồn cầu hóa, các nước trên thế giới đang
nỗ lực tăng cường quan hệ hợp tác, liên kết với nhau nhằm duy trì hịa bình, ổn định và cùng
nhau phát triển, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung ấy mà mối quan hệ hợp tác
toàn diện giữa Việt Nam và Nhật Bản là một điển hình.
Nói đến Nhật Bản, chúng ta đều nghĩ đến một đất nước hùng mạnh về kinh tế, đa
dạng về văn hóa với nhiều danh lam thắng cảnh và người dân thân thiện, là một trong những
nước viện trợ vốn ODA và là nhà đầu tư lớn nhất cho Việt Nam trong những năm gần đây là
cường quốc luôn ủng hộ Việt nam trên các diễn đàn chính trị, kinh tế thế giới..., đã góp phần
khơng nhỏ trong việc giúp Việt Nam trên bước đường hội nhập và phát triển kinh tế, tái hòa
nhập với cộng đồng quốc tế.


Ngày nay, mối quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đã bước sang một trang mới, là
mối quan hệ đối tác chiến lược, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài và tin tưởng lẫn nhau. Việt
Nam và Nhật Bản cùng hướng đến một mục đích chung, cùng hợp tác phát triển, cùng phấn

đấu vì nền hịa bình trong khu vực và trên thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng trong mối quan hệ mật thiết giữa Việt Nam và Nhật
Bản trong giai đoạn này, nhóm tác giả quyết định chọn “Thực trạng và giải pháp phát triển
quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
2. Mục đích của đề tài
Nhóm tác giả mong muốn nghiên cứu về mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và
Nhật Bản trong những năm qua, từ đó thấy được thực trạng, những triển vọng của hai nước
đồng thời đưa ra những giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật
Bản. Cụ thể là về quan hệ thương mại giữa hai nước Việt Nam - Nhật Bản cùng với những tác
động kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi tiếp cận của đề tài: Tiếp cận từ góc độ của kinh tế chính trị.
Phạm vi thời gian nghiên cứu: Từ năm 2010 cho đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp đề tài sử dụng bao gồm: Phương pháp duy vật biện chứng, phương
pháp duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp và phương pháp phân tích.
6. Kết cấu bài nghiên cứu
Ngoài danh mục chữ viết tắt, danh mục bảng biểu, phần mở đầu và kết luận, bài
nghiên cứu bao gồm 3 chương như sau:
-

Chương 1: Khái quát về hội nhập kinh tế quốc tế và mối quan hệ thương mại giữa
Việt Nam - Nhật Bản.
Chương 2: Thực trạng phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản từ
năm 2010 đến nay.
Chương 3: Giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản.



CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ MỐI QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM – NHẬT BẢN
1.1. Khái quát về Hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Khái niệm Hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1.1. Khái niệm
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu khách quan trong thế giới ngày nay. Ở Việt
Nam, thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ khoảng giữa thập niên
1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản
nhất và phổ biến trên thế giới, là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu
này, hội nhập kinh tế đã diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mô tồn
cầu đã diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới và mở mang


mạng lưới giao thơng, thúc đẩy lưu thơng hàng hóa trong tồn bộ lãnh địa chiếm đóng rộng
lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ cho toàn bộ các nơi.
Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính thể chế
giữa các nền kinh tế lại với nhau.Khái niệm này được Béla Balassa đề xuất từ thập niên 1960
và được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và lập chính sách. Nói rõ hơn, hội nhập kinh
tế là q trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường
từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc
đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế
kinh tế khu vực và tồn cầu.
Theo Giáo trình Kinh tế quốc tế thì Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế
của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ
giữa các nước thành viên có sự ràng buộc theo những quy định chung của khối. Nói cách
khác, Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mơ hình kinh tế mở, tự
nguyện tham gia vào các định chế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hóa và tự do hóa
thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác.(theo NXB Đại học kinh tế quốc

dân ,xuất bản năm 2019)
Từ những quan điểm trên về Hội nhập kinh tế quốc tế có thể đưa ra khái niệm tổng
quát như sau: “Chủ thể của hội nhập kinh tế quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính
của quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết
quốc tế.Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành lực lượng tổng hợp
tham gia vào q trình hội nhập”.
1.1.1.2. Tính chất
♦ Hội nhập kinh tế quốc tế là đòi hỏi khách quan của tồn cầu hóa kinh tế
Tồn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế
giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các
cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế... trên quy mơ tồn cầu.
Theo Manfred B. Steger thì tồn cầu hóa là “chỉ một tình trạng xã hội được tiêu biểu
bởi những mối hỗ trợ liên kết toàn cầu chặt chẽ về kinh tế, chính trị, văn hóa, mơi trường và
các luồng ln lưu đã khiến cho nhiều biên giới và ranh giới đang hiện hữu thành khơng cịn
thích hợp nữa”.
Tồn cầu hố đang là xu hướng tất yếu và ngày càng được mở rộng. Tồn cầu hố
diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội v.v...trong đó, tồn cầu hố
kinh tế là xu thế nổi trội nhất, nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy
tồn cầu hố các lĩnh vực khác.
Tồn cầu hố kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua
mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự
vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất. Sự gia tăng của xu thế này


được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và qui mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các dịng
vốn và lao động trên phạm vi tồn cầu.
Trong điều kiện tồn cầu hóa kinh tế, khu vực hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế trở
thành tất yếu khách quan:
(1) Tồn cầu hóa kinh tế là sản phẩm của phân công lao động quốc tế nhưng mặt khác
nó đã lơi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân công lao động quốc tế, các mối liên hệ quốc

tế của sản xuất và trao đổi ngày càng gia tăng, khiến cho nền kinh tế của các nước trở thành
một bộ phận hữu cơ và không thể tách rời nền kinh tế tồn cầu.
(2) Trong tồn cầu hóa kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi toàn
cầu, thương mại quốc tế được mở rộng chưa từng thấy, đầu tư trực tiếp, chuyển giao công
nghệ, truyền bá thông tin, lưu động nhân viên, du lịch…đều phát triển rất mạnh, kết hợp với
nhau để hình thành một hệ thống thị trường thế giới phát triển.
Trong điều kiện đó, nếu khơng tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế, các nước không
thể tự đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế là cách thức thích ứng trong phát triển của các nước trong
điều kiện toàn cầu hóa gắn với nền kinh tế thơng tin. Cách mạng cơng nghiệp nói chung, đặc
biệt là cách mạng cơng nghiệp 4.0 tạo ra cơ hội để các quốc gia đang phát triển có thể nhanh
chóng rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển; là công cụ, phương tiện hữu
hiệu để có thể giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều. Để tận
dụng được các thành tựu của cách mạng cơng nghiệp, biến nó thành động lực thực sự cho sự
phát triển kinh tế, xã hội và con người thì khơng cịn cách nào hơn là phải tích cực tham gia
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.1.3.Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình từng bước xây dựng một nền kinh tế mở, gắn kết
nền kinh tế trong nước với nền kinh tế khu vực và thế giới, là xu thế khách quan không một
quốc gia nào có thể đứng ngồi cuộc. Hội nhập khơng phải là một hiện tượng mới. Tuy nhiên,
đến quá trình tồn cầu hóa mới từ những thập niên 80 trở lại đây, hội nhập kinh tế quốc tế
mới trở thành một trào lưu, cuốn hút sự tham gia của tất cả các nước. Hội nhập kinh tế quốc
tế được thúc đẩy bởi yếu tố chính sau:
Do tác động của cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ, những nước có tiềm lực khoa
học công nghệ yếu phải liên kết với nhau hoặc liên kết với những nước có tiềm lực khoa học
công nghệ lớn để phát triển ,học hỏi.Không chỉ có vậy, những tác động tích cực của cuộc
cách mạng khoa học-công nghệ đối với sản xuất và phát triển là rất lớn ,đòi hỏi các nước
phải cùng hợp tác để tạo ra những phát minh ,sáng kiến thiết thực nhằm nâng cao năng suất
và hiệu quả.
Do tác động của tồn cầu hóa kinh tế, bắt buộc tất cả các nước phải bắt tay với nhau

tạo thành 1 chuỗi liên kết liên tục về khoa học, chính trị, văn hóa xuyên biên giới, xuyên lục
địa.Với những lợi ích kinh tế, cơ hội rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các


quốc gia mà q trình tồn cầu hóa mang lại , khơng một quốc gia nào muốn đứng ngồi
cuộc.
Sự phát triển của phân công lao động quốc tế
Phân công lao động quốc tế là sự phân công lao động giữa các quốc gia trên phạm vi
thế giới, được hình thành khi sự phân công lao động xã hội vượt ra ngoài biên giới một quốc
gia do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Phân công lao động quốc tế ngày càng phát triển
và bao trùm toàn bộ nền kinh tế thế giới. Điều kiện để phát triển phân công lao động quốc tế
bao gồm:
(1) Sự khác biệt giữa các quốc gia về điều kiện tự nhiên, do đó, các quốc gia phải dựa
vào những ưu thế về tài nguyên thiên nhiên để chun mơn hố sản xuất, phát huy lợi thế so
sánh và điều kiện địa lí của mình.
(2) Sự khác biệt giữa các quốc gia về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình
độ phát triển của khoa học - kĩ thuật và công nghệ, về truyền thống sản xuất, lực lượng sản
xuất.
(3) Trong một phạm vi nhất định, chịu ảnh hưởng và sự tác động của chế độ kinh tế xã hội của đất nước. Phân cơng lao động quốc tế chính là tiền đề cho sự hình thành các quan
hệ kinh tế quốc tế.
Ngày nay, dưới tác động của sự phát triển lực lượng sản xuất và tồn cầu hóa kinh tế
đã dẫn đến phân công quốc tế mới về lao động. Nếu phân công quốc tế "cũ" về lao động, các
nước, các khu vực kém phát triển được sát nhập vào nền kinh tế thế giới chủ yếu với tư cách
là nhà cung cấp khống sản và nơng sản thì trong phân cơng lao động quốc tế mới có sự
chuyển dịch khơng gian của các ngành công nghiệp sản xuất từ các nước tư bản tiên tiến sang
các nước đang phát triển. Không gian phân cơng lao động khơng cịn giới hạn trong phạm vi
quốc gia.
Sự phát triển của phân công lao động quốc tế làm cho nền kinh tế của các nước ngày
càng gắn chặt vào nền kinh tế tồn cầu, hình thành các mối quan hệ vừa lệ thuộc, vừa tương
tác lẫn nhau trong một chỉnh thể khiến cho hội nhập kinh tế quốc tế trở thành xu thế chung

của thế giới.
1.1.1.4 . Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ. Theo đó hội nhập kinh tế
quốc tế có thể được coi là nơng, sâu tùy vào mức độ tham gia của một nước vào các quan hệ
kinh tế đối ngoại, các tổ chức kinh tế quốc tế hoặc khu vực. Theo đó, tiến trình hội nhập kinh
tế được chia thành năm mức độ cơ bản từ thấp đến cao là: Thỏa thuận thương mại ưu đãi
(PTA), Khu vực mậu dịch tự do (FTA), Liên minh thuế quan (CU), Thị trường chung (hay thị
trường duy nhất), Liên minh kinh tế - tiền tệ.
Xét về hình thức, hội nhập kinh tế quốc tế là toàn bộ các hoạt động kinh tế đối ngoại
của một nước gồm nhiều hình thức đa dạng như: ngoại thương, đầu tư quốc tế, hợp tác quốc
tế. dịch vụ thu ngoại tệ…


♦ Ngoại thương:
Ngoại thương, hay còn gọi là thương mại quốc tế, là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ
(hàng hố hữu hình và vơ hình) giữa các quốc gia thông qua hoạt động xuất nhập khẩu. Trong
các hoạt động kinh tế đối ngoại, ngoại thương giữ vị trí trung tâm và có tác dụng to lớn: tăng
tích luỹ cho nền kinh tế nhờ sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong trao
đổi quốc tế; là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; “điều tiết thừa thiếu” trong mỗi nước;
nâng cao trình độ công nghệ và cơ cấu ngành nghề trong nước; tạo công ăn việc làm và nâng
cao đời sống của người lao động nhất là trong các ngành xuất khẩu.
Ngày nay, ngoại thương thế giới có những đặc điểm mới như: tốc độ tăng trưởng
ngoại thương nhanh hơn tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân; tốc độ tăng trưởng hàng
hóa vơ hình nhanh hơn so với hàng hóa hữu hình, tỷ trọng xuất khẩu hàng ngun liệu thơ
giảm trong khi dầu mỏ, khí đốt và sản phẩm cơng nghệ chế biến tăng nhanh. Các điều kiện
thương mại, thanh toán, thuế quan cũng có thay đổi lớn do thực hiện các cam kết quốc tế của
các nước thành viên trong các tổ chức thương mại quốc tế.
♦ Hợp tác về sản xuất kinh doanh và khoa học cơng nghệ
Xí nghiệp chung hay hỗn hợp là kiểu tổ chức xí nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ và tổ
chức tài chính - tín dụng... tồn tại một cách phổ biến ở nhiều nước. Về mặt pháp lý, xí nghiệp

chung thường được tổ chức dưới hình thức cơng ty cổ phần. Các xí nghiệp này thường được
ưu tiên xây dựng ở những ngành kinh tế quốc dân hướng vào xuất khẩu hay thay thế hàng
nhập khẩu và trở thành nguồn thu ngoại tệ chuyển đổi hay tạo điều kiện cho nhà nước tiết
kiệm ngoại tệ.
Hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên mơn hố theo quy trình cơng nghệ là hình
thức hợp tác sản xuất trong đó mỗi bên chịu trách nhiệm sản xuất một bộ phận hay chi tiết
sản phẩm trong quá trình tạo nên sản phẩm cuối cùng.
Hợp tác khoa học cơng nghệ được thực hiện dưới nhiều hình thức, như trao đổi tài
liệu kỹ thuật và thiết kế, mua bán giấy phép, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ,
phối hợp nghiên cứu khoa học - kỹ thuật, hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và người lao
động...
♦ Đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế (xuất khẩu tư bản) là q trình đầu tư vốn ra nước ngồi nhằm mục
đích sinh lợi. Có hai loại hình đầu tư quốc tế: đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (FII).
Đầu tư trực tiếp (xuất khẩu tư bản hoạt động) là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền
sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực
tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết
quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận.
Đầu tư quốc tế trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức: người đầu tư tự lập ra xí
nghiệp mới; mua hoặc liên kết với xí nghiệp nước ngoài; đầu tư mua cổ phiếu; hợp tác kinh
doanh trên cơ sở hợp đồng; xí nghiệp liên doanh mà vốn do hai bên cùng góp theo tỷ lệ nhất


định để hình thành xí nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban điều hành chung; xí nghiệp
100% vốn nước ngoài; hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), BTO, BT...
Thơng qua các hình thức trên mà các khu chế xuất, khu công nghiệp mới, khu cơng nghệ
cao... được hình thành và phát triển.
Đầu tư gián tiếp (Lênin gọi là xuất khẩu tư bản cho vay) là loại hình đầu tư mà quyền
sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư, tức là người có vốn không trực tiếp tham gia vào
việc tổ chức, điều hành dự án mà thu lợi dưới hình thức lợi tức cho vay (nếu là vốn cho vay)

hoặc lợi tức cổ phần (nếu là vốn cổ phần), hoặc có thể không thu lợi trực tiếp (nếu cho vay ưu
đãi).
♦ Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, du lịch quốc tế
Du lịch quốc tế: Du lịch là nhu cầu khách quan, vốn có của con người. Kinh tế càng
phát triển, năng suất lao động càng cao thì nhu cầu du lịch - nhất là du lịch quốc tế càng tăng
vì thu nhập của con người tăng lên, thời gian nhàn rỗi, nghỉ ngơi cũng nhiều hơn.
Vận tải quốc tế: Vận tải quốc tế là hình thức chun chở hàng hố và hành khách giữa
hai nước hoặc nhiều nước. Vận tải quốc tế sử dụng các phương thức như: đường biển, đường
sắt, đường bộ (ô tô), đường hàng không... trong các phương thức đó, vận tải đường biển có
vai trị quan trọng nhất. Việt Nam có vị trí địa lý quan trọng, lại có nhiều hải cảng thuận tiện
cho vận tải đường biển nên có thể phát huy thế mạnh của mình thơng qua việc đẩy mạnh vận
tải quốc tế.
Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ: Việt Nam với dân số trên 90 triệu người,
kinh tế chưa phát triển, là một nước có thương mại lao động lớn. Việc xuất khẩu lao động
mang lại nhiều lợi ích trước mắt và lâu dài. Xuất khẩu lao động góp phần thu được lượng
ngoại tệ đáng kể cho người trực tiếp lao động và cho ngân sách nhà nước; người lao động
được rèn luyện tay nghề và thói quen hoạt động cơng nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát
triển. Khi hết hạn hợp đồng về nước, sẽ trở thành lực lượng lao động có chất lượng; góp phần
giải quyết việc làm, giảm được tỷ lệ thất nghiệp.
1.1.2. Đường lối Hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sơ lược về quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thông qua các kỳ đại hội:
Tại thời điểm đầu những năm 90 của thế kỉ XX, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành
một xu thế của thời đại, diễn ra mạnh mẽ trên nhiều phương diện với sự xuất hiện của nhiều
khối kinh tế, mậu dịch trên thế giới. Đối với một nước kinh tế còn thấp kém, lạc hậu như Việt
Nam tại thời điểm đó, hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để rút ngắn khoảng cách với các
nước khác trong khu vực và trên thế giới, phát huy những lợi thế và tìm cách khắc phục hạn
chế thơng qua việc học hỏi kinh nghiệm của các nước. Nhận thức được vai trò, tầm quan
trọng của hội nhập kinh tế quốc tế, trong suốt thời gian qua, Đảng đã nhất quán chủ trương
phải tăng cường hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Đại hội VI mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta đưa ra chủ trương tranh thủ

những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng
rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế trong “Hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng với


các nước khác”. Đây chính phương hướng trước tiên nhất khởi đầu cho các chủ trương tiếp
theo của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế.
Tới Đại hội VII, Đảng ta định hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các
quốc gia, các tổ chức kinh tế". Tại Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề cập
trong các văn kiện của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế
giới”.
Đại hội IX của Đảng đã đánh dấu lần đầu tiên Đảng ta đặt trọng tâm chủ trương “chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”.
Theo đó, trong những năm qua, việc hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia các hiệp
định thương mại tự do (FTA) luôn được đặt ra trong các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và
Chính phủ như Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về hơ i–nhâ p– kinh
tế quốc tế, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về
một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam
là Thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 về
hội nhập quốc tế, Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
Hành Trung ương Đảng Khóa XII về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các Hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới, và gần đây nhất là Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 4/9/2018 của Thủ tướng
Chính phủ về đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng hiệu lực và hiệu quả hơn.
♦ Chủ trương của Đảng:
Trong các Nghị quyết và Chỉ thị nêu trên, quan điểm chỉ đạo, chủ trương lớn được
Đảng và Chính phủ qn triệt về q trình hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập vào các FTA
là:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo
thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc
phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát

triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một
chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và
năng lực của đất nước.
Thứ hai, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa
nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ mơi
trường.
Thứ ba, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với
chủ trương, định hướng của Ðảng và Nhà nước, chủ động xây dựng các quan hệ đối tác mới,
tham gia vào các vòng đàm phán mới, thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế song phương, khu
vực và đa phương.


Thứ tư, xây dựng và triển khai chiến lược, tham gia các khu vực mậu dịch tự do với
các đối tác kinh tế - thương mại quan trọng trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý,
phù hợp với lợi ích và khả năng của đất nước. Chủ động xây dựng và thực hiện các biện pháp
bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước.
Thứ năm, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác có
tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn khổ quan
hệ đã xác lập đi vào thực chất, tạo sự đan xen gắn kết lợi ích giữa nước ta với các đối tác.
Thứ sáu, chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây dựng
trật tự chính trị và kinh tế cơng bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột, củng cố hịa
bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi. Trong đó, đặc biệt chú trọng việc tham gia xây dựng
Cộng đồng ASEAN, phát huy vai trò của Việt Nam trong ASEAN và các cơ chế, diễn đàn do
ASEAN giữ vai trị trung tâm, nhằm tăng cường đồn kết, gia tăng liên kết nội khối, củng cố
quan hệ hợp tác với các bên đối thoại của ASEAN, thúc đẩy xu thế hịa bình, hợp tác và phát
triển trong khu vực.
Trên cơ sở các chủ trương, định hướng lớn mà Đảng và Chính phủ đã đặt ra về hội
nhập kinh tế quốc tế, ta đã chủ động và tích vực tham gia vào các thiết chế kinh tế đa phương
và khu vực, với các dấu mốc quan trọng như gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

(ASEAN), là thành viên sáng lập của Diễn đàn kinh tế Á – Âu (ASEM), trở thành thành viên
của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) và đặc biệt là gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), đánh dấu sự hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu.
Việc đề ra chủ trương tăng cường hội nhập quốc tế về kinh tế là một hướng đi đúng
đắn, sáng suốt, thiết thực mà Đảng đã lựa chọn, thể hiện một sự thay đổi thức thời trong tư
duy và bắt kịp với xu thế của thời đại. Đây là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực
hiện nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển và vững mạnh. Việc thực
hiện chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói
riêng với nhiều thành tựu góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gia
tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải
thiện đời sống nhân dân, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế là minh chứng rõ
nét nhất cho con đường đúng đắn, sáng suốt mà Đảng đã lựa chọn.
1.2. Khái quát về mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản
1.2.1. Giới thiệu về Nhật Bản
Cuộc khủng hoảng kinh tế Nhật Bản năm 1990 với sự xuất hiện của khái niệm kinh tế
bong bóng Nhật Bản được bắt đầu hình thành vào cuối những năm 1980 và thực sự khủng
hoảng tài chính ở cực điểm năm 1997-1998. Tuy nhiên, ảnh hưởng đối với nền kinh tế thực
của khủng hoảng tài chính Nhật Bản những năm 1990 chỉ giới hạn ở trong nước.


Biểu đồ 1.1. Tình hình kinh tế Nhật Bản trong thập niên mất mát
(Nguồn: )
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1990 có tác động rất lớn đến sự phát triển của nền
kinh tế Nhật Bản từ năm 2000 đến nay, nó vừa là một yếu tố để cho Nhật Bản nhận thấy được
những thiếu sót của mình trong vấn đề phát triển kinh tế đất nước và đồng thời chỉ ra được
những nguyên nhân của sự thất bại một cách rõ ràng nhất. Từ đó chính phủ Nhật có căn cứ để
xác định và ban hành những chính sách phù hợp hơn, vực dậy nền kinh tế đang tụt dốc và tiến
tới sự phát triển như ngày nay. Chúng ta có thể nhìn thấy rõ được sự thay đổi diện mạo của
kinh tế Nhật Bản (phục hồi, rơi vào khó khăn và tiếp tục vực dậy để phát triển) qua từng thời
kỳ như sau:



Giai đoạn phục hồi và tăng trưởng với tốc độ vừa phải (2000 – 2005)

Trải qua một thập kỷ đầy khó khăn với đất nước Nhật Bản thì bước sang một thập kỷ
mới và cũng là khỏi đầu của một thiên niên kỷ mới, mặc dù nền kinh tế Nhật Bản trong thời
điểm này vẫn đang rơi vào tình trạng suy thối kéo dài.
Chủ yếu khó khăn của thời kỳ này là những khoản nợ khó địi và sự khủng hoảng
trong mơ hình phát triển của Nhật. Vào năm 2001, thủ tướng Nhật Bản là Koizumi đã lập tức
tiến hành việc giải quyết những khoản nợ khó địi này bằng rất nhiều những biện pháp khác
nhau. Có thể nêu ra một số những biện pháp mà chính phủ Nhật sử dụng như: xóa nợ, sáp
nhập và mua lại các ngân hàng cũng như những tổ chức tài chính làm ăn thua lỗ. Thực hiện
chủ trương cải cách cơ cấu kinh tế mạnh mẽ.


♦ Giai đoạn suy thoái nghiêm trọng (2006 – 2010)
Giai đoạn này tỷ lệ lạm phát cơ bản tại Nhật đã tăng lên mức 1,2% và cũng chính là
mức tăng mạnh nhất tính từ năm 1998. Có rất nhiều những cơng ty đã rơi vào tình trạng phá
sản do giá nguyên liệu và năng lượng tăng, tỷ giá đồng nội tệ cao và sự thay đổi điều luật
cũng như những tiêu chuẩn về xây dựng đã làm cho hoạt động trong lĩnh vực này bị đóng
băng.
Đầu tháng 3 năm 2006, trái phiếu cho các món nợ 10 năm của chính phủ Nhật đã tăng
lên mà vẫn chỉ trả 1,65% một năm trong khi đó, khoản cơng trái tương tự của chính phủ Mỹ
trả tới 4,75%.
Từ đây cũng diễn ra một loạt những hệ quả nghiêm trọng khác tác động vào tổng thể
nền kinh tế Nhật Bản thời điểm đó. Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng nhưng vẫn thiếu hụt lao động
có trình độ chun mơn cao, nhất là những lao động trong lĩnh vực kỹ thuật cơng nghệ. Xuất
hiện tình trạng có nhiều cơng ty phải đi nhập khẩu lao động từ nước ngoài. Đây cũng là thời
điểm diễn thế giới đang diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu.
♦ Giai đoạn phục hồi của tình hình kinh tế Nhật Bản (từ 2010 đến nay)

Nhờ nỗ lực thực hiện những biện pháp chống khủng hoảng nên đến tháng 4 năm
2009, kinh tế Nhật Bản bắt đầu nhìn thấy được sự dừng lại của suy thoái. Các hoạt động sản
xuất và xuất khẩu được trở lại đặc biệt phải để đến thành cơng và vai trị của ngành điện máy
và ô tô. Nhật Bản nhận được các đơn đặt hàng của nước ngoài cho các sản phẩm linh kiện và
phụ tùng.
Sự hồi phục kinh tế Nhật Bản đã được phản ánh rõ nét thông qua sự tăng trưởng thị
giá chứng khốn Nhật Bản. Theo đó, bước sang đầu năm 2018, giá cổ phiếu đã lên đến mức
24.000 Yên, đây cũng là lần đầu tiên trong khoảng 26 năm giá chứng khoán Nhật tăng đến
mức cao như vậy. Chứng tỏ đây chính là dấu hiệu của sự thốt khỏi giảm phát ngày càng rõ
nét. Trước hiệu quả hoạt động khả quan của các công ty Nhật Bản, bắt đầu xuất hiện những
nhận xét cho rằng, dường như giai đoạn tăng trưởng kinh tế cao độ của Nhật Bản đang một
lần nữa được tái hiện lại.
♦ Tìm hiểu thêm về 4 vùng kinh tế Nhật Bản
Nhắc đến Nhật Bản là chúng ta sẽ nhận ra ngay đây là một quốc đảo với nổi bật là sự
phát triển vùng kinh tế lớn. Đó là đảo Hôn-su, đảo Kiu-xiu, đảo Xi-cô-cư và đảo Hô-cai-đô.
Vùng kinh tế thuộc đảo Hơn-su là khu vực có diện tích rộng nhất và dân số ở đây
cũng tập trung khá đông đúc. Nền kinh tế ở vùng này cũng được đánh giá là có sự phát triển
thần ký nhất. Có thể kế đến những trung tâm cơng nghiệp lớn ở đảo này như Tơ-ki-ơ, I-ơ-cơha-ma, Na-gơi-a, Ki-ơ-tơ, Cơ-bê, Ơ-xa-ca, tạo nên một chuỗi đô thị lớn hàng đầu Nhật Bản.
Vùng kinh tế thuộc đảo Kiu-xiu chủ yếu tập trung phát triển các ngành thuộc công
nghiệp nặng. Nơi đây cũng không thiếu các trung tâm công nghiệp lớn: Phu-cu-ô-ca, Na-gaxa-ki. Khu vực miền Đông Nam của đảo này trồng rất nhiều cây công nghiệp và rau quả.


Vùng kinh tế Xi- cô-cư nổi tiếng với hoạt động khai thác quặng đồng. Tuy nhiên
ngành nơng nghiệp đóng vai trị quan trọng. Ở đây cho trung tâm Cơ-chi vừa có sự phát triển
tốt hơn và có nhiều điều hấp dẫn dành cho bạn tận hưởng.
Vùng kinh tế Hơ-cai-đơ có diện tích rừng bao phủ phần lớn quần đảo này. Dân cư ở
đây thưa thớt và tập trung nhiều vào các ngành công nghiệp như khai thác than, sắt, luyện
kim đen, sản xuất giấy. Các trung tâm công nghiệp: Xap-pô-rô, Mu-rơ-ran.
♦ Tình hình kinh tế Nhật Bản trong những năm gần đây
Mặc dù không thể phủ nhận sự cố gắng và những thành tựu của nền kinh tế Nhật Bản

từ năm 2000 đến nay nhưng trong những năm gần đây, kinh tế Nhật Bản đang có sự suy yếu
đi. Tình trạng kinh tế tính đến tháng 3 năm 2019 đã giảm đi 0,9 điểm trong mức 99,6 điểm.
Tình trạng suy giảm này có thể là do chính sách tăng thuế tiêu thụ lên thêm 2% (từ 8% lên
10%) và vấn đề căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc.
Hoạt động xuất khẩu linh kiện cũng ghi nhận sự sụt giảm như cầu trong những năm
gần đây đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến tổng sản phẩm quốc nội của doanh nghiệp.


Các ngành kinh tế của Nhật Bản trong những năm gần đây

Nhật Bản là một quốc gia nghèo tài nguyên nhất là tài nguyên cho ngành nông nghiệp
như trồng trọt, chăn nuôi nhưng người Nhật luôn biết cách để biến đổi và áp dụng mang lại
hiệu quả cao nhất. Họ luôn áp dụng kỹ thuật, công nghệ hàng đầu cho ra năng suất cao và
đảm bảo an tồn.
Chúng ta có thể kể đến những ngành kinh tế mũi nhọn của Nhật Bản như: nông-lâmngư nghiệp, công nghiệp năng lượng, công nghiệp chế tạo, ngoại thương xuất nhập khẩu,
hoạt động đầu tư, giao thơng vận tải, tài chính ngân hàng, bưu chính viễn thơng, du lịch giải
trí…
Mỗi ngành nghề đều có những thế mạnh riêng và điều quan trọng là Nhật bản ln nỗ
lực để hồn thiện nhất trong các ngạch, các lĩnh vực của nền kinh tế. Bên cạnh đó, con người
Nhật Bản cần cù, chịu khó và có tính sáng tạo khơng ngừng. Đó chính là điểm mấu chốt giúp
Nhật Bản có thể tồn tại, vực dậy sau khủng hoảng và có được sự phát triển của một nền kinh
tế Nhật Bản từ năm 2000 đến nay. Tuy nhiên thì dân số Nhật Bản đang ở trong giai đoạn già
hóa và điều này là một bất lợi cho sự phát triển chung các ngành kinh tế tại Nhật. Nhưng
đồng thời nó cũng mở ra những có hội cho lao động quốc tế có thể được XKLĐ Nhật Bản để
nâng cao chất lượng cuộc sống.
1.2.2. Lịch sử quan hệ Việt Nam – Nhật Bản
Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là nước G7 đầu tiên
công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (tháng 10/2011). Nhật Bản là nước tài trợ
ODA lớn nhất, nhà đầu tư thứ hai (tính theo số lũy kế), đối tác du lịch thứ ba, thương mại lớn
thứ tư của Việt Nam. Hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ 1999. Tổng kim

ngạch xuất nhập khẩu 9 tháng năm 2020 đạt 28,6 tỷ USD; nhập khẩu đạt 14,6 tỷ USD; xuất
khẩu đạt 14 tỷ USD. Về đầu tư trực tiếp, lũy kế đến tháng 9/2020, Nhật Bản có 4.595 dự án


FDI còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký 59,87 tỷ USD, đứng thứ hai trong
tổng số 136 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. 9 tháng năm 2020, Nhật Bản có
209 dự án cấp mới, 100 dự án tăng vốn và 448 lượt góp vốn mua cổ phần với tổng vốn đầu tư
là 1,73 tỷ USD, đứng thứ tư trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.
Bên cạnh đó, Nhật Bản là nước cung cấp vốn vay bằng đồng Yên cho Việt Nam lớn
nhất, tổng giá trị vay cho đến tháng 12/2019 là 2.578 tỷ Yên (tương đương khoảng 23,76 tỷ
USD, chiếm 26,3% tổng vốn ký kết vay nước ngồi của Chính phủ).

Biểu đồ 1.2: Số vốn và số dự án đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
(Nguồn: Biểu đồ do JETRO lập theo dữ liệu của MPI)
Ngoại trừ thời gian chịu tác động của Cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á năm 1998, và
sự phá sản của Ngân hàng đầu tư Lehman Brothers năm 2008, kể từ năm 1993, số dự án đầu
tư của Nhật Bản vào Việt Nam có chiều hướng tăng lên (Biểu đồ 3). Với tổng vốn đầu tư vào
Việt Nam tính đến năm 2012 là 28,7 tỷ USD, Nhật Bản là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất của
Việt Nam (theo Tổng cục Thống kê Việt Nam).
Để giúp Việt Nam xúc tiến đầu tư nước ngoài, Nhật Bản đã nhanh chóng triển khai
hỗ trợ Việt Nam xây dựng nhà máy điện, đường xá, cầu, cảng biển, vv…; đồng thời hỗ trợ
hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống kiểm tra, chứng nhận sản phẩm công nghiệp,… để có
thể đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về môi trường đầu tư. Việc các bộ luật cơ bản như Luật
Dân sự sửa đổi, Luật Tố tụng Dân sự được thông qua là những thành tựu to lớn. Bên cạnh đó,
Nhật Bản cũng phát huy “Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản”, là diễn đàn đối thoại giữa
chính phủ và khối tư nhân, để hỗ trợ Việt Nam về phần cứng và phần mềm.
Điểm đặc biệt ở đây là tuy sự hỗ trợ được thực hiện theo kinh nghiệm của Nhật Bản,
nhưng không phải là sự vận dụng cứng nhắc theo khuôn mẫu Nhật Bản mà là dựa trên sự trao



đổi, thảo luận giữa Việt Nam và Nhật Bản để tìm ra cơ chế và đường lối phù hợp với Việt
Nam.
Phương thức hợp tác dựa trên sự tăng cường sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau giữa
hai nước của Nhật Bản đã mang lại kết quả là tìm ra những cơ chế phù hợp với xã hội Việt
Nam.
Sự hỗ trợ theo chiến lược tổng hợp đã góp phần xúc tiến đầu tư của các doanh nghiệp
Nhật Bản.
Từ năm 2014, trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Nhật Bản của Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang, hợp tác nơng nghiệp có bước đột phá. Tháng 9/2015, hai bên đã ký kết
"Tầm nhìn trung và dài hạn trong hợp tác Nơng nghiệp Việt Nam - Nhật Bản" và ký lại Tầm
nhìn chung sửa đổi vào tháng 5/2018.
Hợp tác ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thực chất với việc
Nhật Bản liên tục cung cấp ODA những năm gần đây cho các dự án ứng phó với biến đổi khí
hậu của Việt Nam.
Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã cử nhiều tu nghiệp sinh sang Nhật Bản. Hiện Việt
Nam đứng thứ nhất về số lượng thực tập sinh nước ngoài tại Nhật Bản với hơn 230.000
người. Hai bên đã ký Bản ghi nhớ về việc Nhật Bản tiếp nhận điều dưỡng viên, hộ lý của Việt
Nam (trong khuôn khổ Hiệp định đối tác kinh tế song phương EPA tháng 10/2011), Việt Nam
đã cử 470 y tá và điều dưỡng viên sang Nhật Bản; Bản ghi nhớ hợp tác về chế độ thực tập
sinh kỹ năng (tháng 6/2017); Bản ghi nhớ hợp tác về chế độ lao động kỹ năng đặc định
(tháng 5/2019); tiếp tục trao đổi về khả năng đàm phán Hiệp định Bảo hiểm xã hội.
Quan hệ hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa hai nước đã phát triển dưới nhiều hình
thức, Nhật Bản là một trong những nước viện trợ khơng hồn lại lớn nhất cho ngành Giáo
dục đào tạo của Việt Nam. Hai bên đã ký kết nhiều văn kiện hợp tác trong lĩnh vực này. Số
lưu học sinh Việt Nam tại Nhật Bản hiện đạt hơn 80.000 người. Nhật Bản đang hợp tác để
nâng cấp 4 trường đại học của Việt Nam đạt đại học chất lượng cao (gồm Đại học Cần Thơ,
Đại học Đà Nẵng, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Nông nghiệp Hà Nội), đang hợp tác xây
dựng Trường Đại học Việt-Nhật nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam
trong lĩnh vực khoa học công nghệ, quản lý và dịch vụ; hỗ trợ Việt Nam dạy tiếng Nhật tại
một số trường tiểu học, phổ thông cơ sở tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hai bên đã

ký Biên bản hợp tác về các biện pháp giảm thiểu tình trạng du học sinh Việt Nam vi phạm
pháp luật tại Nhật Bản (tháng 10/2018).
Từ ngày 1/1/2004, Việt Nam đơn phương miễn thị thực cho người Nhật đi du lịch và
kinh doanh vào Việt Nam trong vòng 15 ngày; từ ngày 1/7/2004, quyết định miễn thị thực
nhập cảnh ngắn hạn cho mọi công dân mang hộ chiếu Nhật Bản. Ngày 8/3/2005, hai bên đã
trao đổi Công hàm miễn thị thực nhập cảnh cho công dân hai nước Việt Nam và Nhật Bản
mang Hộ chiếu ngoại giao và công vụ trong thời hạn lưu trú không quá 90 ngày bắt đầu thực
hiện từ ngày 1/5/2005. Nhật Bản bắt đầu thực hiện việc nới lỏng quy chế cấp thị thực nhiều
lần (từ ngày 30/9/2014, nới lỏng hơn từ ngày 15/2/2016) và thị thực một lần (từ 20/11/2014)


cho cơng dân Việt Nam; đơn giản hóa thủ tục xin visa ngắn hạn dành cho người có vị trí
trong xã hội (cán bộ, công chức cơ quan Nhà nước, nhân viên doanh nghiệp tư nhân, nhà tri
thức - văn hóa) từ ngày 1/3/2019.
Ngày 19/6/2020, Chính phủ hai nước ra thơng cáo báo chí về việc Việt Nam và Nhật
Bản nhất trí sẽ từng bước, từng phần nới lỏng hạn chế đi lại giữa hai nước. Ngày 22/7/2020,
Nhật Bản đơn phương áp dụng quy chế Residence Track cho phép nhập cảnh Nhật Bản số
lượng giới hạn (dưới 100 người/ngày) các đối tượng cư trú lâu dài tại Nhật Bản (thực tập
sinh…); từ ngày 29/7/2020, bắt đầu tiếp nhận hồ sơ cấp visa cho đối tượng này. Ngày
15/9/2020, hai nước đã mở lại đường bay thương mại (4 chuyến/tuần). Hiện các bộ, ngành
hai nước đang tích cực trao đổi về quy chế đi lại ưu tiên cho đối tượng là doanh nhân, nhà
đầu tư, chuyên gia, kỹ sư… làm việc ngắn ngày.
Hợp tác địa phương hai nước được thúc đẩy mạnh mẽ, địa phương của Việt Nam và
Nhật Bản đã ký hơn 70 văn bản hợp tác. Trong đó các cặp quan hệ hợp tác tiêu biểu: Thành
phố Hồ Chí Minh – Osaka; Thành phố Hồ Chí Minh – Nagano; Đà Nẵng – Sakai; Hà Nội –
Fukuoka; Đà Nẵng – Yokohama; Thành phố Hồ Chí Minh – Yokohama; Đồng Nai – Hyogo;
Bà Rịa - Vũng Tàu – Kawasaki; Phú Thọ - Nara; Huế - Kyoto; Hưng Yên – Kanagawa; Hải
Phòng – Niigata; Nam Định – Miyazaki; Quảng Nam – Nagasaki; Cần Thơ – Hyogo.
Từ đầu năm 2020, dịch COVID-19 đã tác động đến quan hệ đối tác chiến lược sâu
rộng Việt – Nhật trên nhiều lĩnh vực. Hai nước đã phải hủy, hoãn một số hoạt động đối ngoại.

Hợp tác lao động, du lịch chịu tác động, lượng khách du lịch Nhật Bản sang Việt Nam 5
tháng đầu năm 2020 chỉ đạt 200.346 người, đứng thứ tư (sau Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga),
giảm gần 50% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó tháng 4 và tháng 5 khơng có trao đổi khách
du lịch do các biện pháp hạn chế đi lại. Việc phái cử lao động Việt Nam sang Nhật Bản tạm
thời bị gián đoạn do hai nước áp dụng biện pháp hạn chế xuất nhập cảnh.
Tuy nhiên, hai nước vẫn duy trì trao đổi cấp cao và các cấp bằng nhiều hình thức. Thủ
tướng Chính phủ Nguyễn Xn Phúc điện đàm với Thủ tướng Suga Yoshihide (12/10/2020),
điện đàm 2 lần với Thủ tướng Nhật Bản Abe Shinzo (ngày 4/5 và 4/8/2020). Phó Thủ tướng,
Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh 2 lần điện đàm với Ngoại trưởng Nhật Bản Motegi
Toshimitsu (tháng 3 và 6/2020); hai bên phối hợp lập trường tại Hội nghị đặc biệt ASEAN +
3 về ứng phó với dịch COVID-19 (ngày 14/4/2020). Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã 3 lần
gửi Thư và Điện thăm hỏi tới Thủ tướng Abe Shinzo. Chính phủ và Quốc hội Việt Nam hỗ trợ
tổng cộng 1.190.000 khẩu trang y tế và 20.000 khẩu trang vải cho Nhật Bản. Chính phủ Nhật
Bản đã hỗ trợ trang thiết bị, vật tư y tế thông qua hợp tác song phương cũng như qua các tổ
chức quốc tế, đồng thời cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ theo nhu cầu của Việt Nam; đưa công dân
Việt Nam đang sinh sống, học tập và làm việc tại Nhật Bản vào đối tượng được cấp khoản
tiền hỗ trợ 100.000 Yên/người (khoảng 950 USD).
Một số địa phương của Việt Nam chủ động hỗ trợ Nhật Bản đối phó với dịch bệnh.
Việt Nam cũng đã hỗ trợ, tạo điều kiện cho gần 600 chuyên gia, lãnh đạo doanh nghiệp Nhật
Bản quay trở lại Việt Nam làm việc; đón hơn 5.100 công dân Việt Nam bị mắc kẹt tại Nhật
Bản về Việt Nam.


Việc đón Thủ tướng Nhật Bản Suga Yoshihide thăm chính thức Việt Nam lần này là
cơ hội khẳng định với cộng đồng quốc tế về một Việt Nam an toàn, hiệu quả trong đối phó
dịch COVID-19, đồng thời đề cao thành tựu đổi mới, phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao vị
thế quốc tế, triển khai đường lối đối ngoại, quyết tâm hội nhập quốc tế của Việt Nam.
1.2.3. Ý nghĩa của quan hệ thương mại Việt Nam-Nhật Bản
Với đặc điểm trình độ kinh tế và thế mạnh hàng hóa khác biệt, cơ cấu mặt hàng của
hai nước có sự bổ sung cho nhau, theo đó, Nhật Bản có thế mạnh về các mặt hàng cơng nghệ

cao, máy móc thiết bị trong khi Việt Nam có lợi thế về nhóm hàng nơng lâm thủy sản và cơng
nghiệp nhẹ. Sự bổ sung đó giúp quan hệ thương mại tạo thế đơi bên cùng có lợi, hạn chế cạnh
tranh trực tiếp và dễ tìm được tiếng nói chung hơn trong các thỏa thuận thương mại.
Với Việt Nam, việc hợp tác với Nhật Bản tạo điều kiện xuất khẩu các mặt hàng sang 1
thị trường lớn khó tính, đồng thời tạo cơ hội thu hút nhiều nhà đầu tư Nhật vào Việt Nam,
góp phần phát triển kinh tế, trình độ khoa học cơng nghệ, kĩ thuật, ứng phó với biến đổi khí
hậu.Ngồi ra, quan hệ thương mại với Nhật Bản giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt ,tăng cường trao đổi kinh nghiệm, học hỏi các mơ hình kinh tế giữa 2 bên.
Với Nhật Bản, việc hợp tác với Việt Nam là 1 bước đi quan trọng trong chính sách
đối ngoại của Nhật Bản ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.Đồng thời, mở rộng, tăng cường
mối quan hệ với các nước Đông Nam Á thông qua Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển ổn định
của khu vực và thế giới, tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp Nhật ở Việt Nam.


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT
NAM VÀ NHẬT BẢN TỪ NĂM 2010 ĐẾN NAY
2.1. Các hiệp định thương mại
2.1.1. Hiệp định song phương ASEAN- Nhật Bản (AJEPA)
Là Hiệp định FTA song phương đầu tiên của Việt Nam, VJEPA được ký kết
25/12/2008 và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/10/2009. Hiệp định VJEPA là một thỏa thuận
song phương mang tính tồn diện bao gồm các nội dung cam kết về tự do hóa thương mại
hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và các hợp tác kinh tế khác giữa hai nước, được xây
dựng phù hợp với các chuẩn mực và nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Lộ trình giảm thuế của Việt Nam trong Hiệp định VJEPA đã bắt đầu ngay khi hiệp
định có hiệu lực (2009) và kéo dài 18 năm (kết thúc 2026).Các mặt hàng được cắt giả xuống
0% tập trung vào các năm 2019 và năm 2025.Về diện mặt hàng, các mặt hàng được xóa bỏ
thuế quan chủ yếu là các mặt hàng công nghiệp.
Về mức cam kết chung trong vòng 10 năm kể từ khi thực hiện Hiệp định, Việt Nam
cam kết tự do hóa đối với khoảng 87,66% kim ngạch thương mại và Nhật Bản cam kết tự do
hóa đối với 94,53% kim ngạch thương mại.

Vào năm cuối của lộ trình giảm thuế tức là sau 16 năm thực hiện hiệp định, Việt Nam
cam kết tự do hóa đối với 92,95% kim ngạch thương mại.
Biểu cam kết của Việt Nam bao gồm 9.390 dòng thuế (dựa trên ASEAN Harmonised
Tariff Nomenclature 2007), trong đó đưa vào lộ trình cắt giảm đối với 8.873 dịng thuế.
Số dịng thuế cịn lại là các dịng thuế ơ tơ chưa lắp ráp và các dịng thuế khơng cam
kết cắt giảm.Theo VJEPA, thuế suất bình quân đối với hàng nhập khẩu từ Nhật Bản vào Việt
Nam sẽ giảm dần từ 6,1% năm 2015 xuống còn 3,7% vào năm 2018.
Các mặt hàng thủy sản, nơng sản, dệt may, sắt thép, hóa chất, linh kiện điện tử có mức
cam kết tự do hóa mạnh mẽ nhất.Đến năm 2026, theo thỏa thuận, Việt Nam và Nhật Bản cơ
bản hồn tất lộ trình giảm thuế để xây dựng một khu vực thương mại tự do song phương hồn
chỉnh. Theo đó, 94,53% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và 87,6% kim ngạch xuất khẩu
của Nhật Bản sẽ được miễn thuế nhập khẩu.
Thực hiện theo lộ trình đã cam kết, ngày 14/2/2015, Bộ Tài chính đã ban hành Thông
tư số 25/2015/TT-BTC kèm Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam theo VJEPA
giai đoạn 2015 – 2019. Theo đó, kể từ ngày 1/4/2015 sẽ có thêm 150 dịng hàng được cắt
giảm thuế quan về 0%, nâng tổng số dịng hàng được xóa bỏ thuế kể từ khi VJEPA có hiệu
lực lên 3.234 dịng, tương đương 34,09% toàn biểu thuế nhập khẩu.
Thuế quan được cam kết cắt giảm dần theo từng giai đoạn. Các mặt hàng máy vi tính,
sản phẩm điện tử; nguyên phụ liệu dệt may, da giày có lộ trình xóa bỏ thuế quan sớm do đây
là các mặt hàng công nghệ cao, linh kiện lắp ráp, nguyên liệu phụ trợ cần nhập khẩu trong


nước chưa đáp ứng được, trong đó nhiều mặt hàng cũng có thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN)
0%.
Trong các giai đoạn tiếp theo, thuế nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng còn lại cũng
sẽ giảm dần để tiến tới đưa về 0%. Với các ưu đãi như vậy, hàng Việt sẽ có cơ hội lớn để
thâm nhập thị trường Nhật Bản, đặc biệt là các sản phẩm nông, thủy sản và hàng dệt may.
Tuy nhiên, dù được ưu đãi về thuế, song Doanh nghiệp Việt Nam tận dụng được cơ
hội này không phải là chuyện dễ bởi Nhật Bản là một trong những thị trường khó tính nhất
thế giới với tiêu chuẩn kỹ thuật cao và quy trình nghiêm ngặt.

Các Doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các Doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thường
xuyên cập nhật thông tin, nắm rõ lộ trình cắt giảm thuế của từng mặt hàng Để có thể hưởng
được những lợi thế đó, các doanh nghiệp phải tìm hiểu thật kỹ nội dung của hiệp định, từng
điều khoản đối với lĩnh vực mình quan tâm.
Phải tìm hiểu kỹ tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm sẽ xuất sang Nhật Bản, chẳng hạn
thủy sản phải đảm bảo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, đồng thời phải có giá cạnh tranh
với doanh nghiệp các nước khác, đồng thời để các Doanh nghiệp tận dụng VJEPA nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh, cần sự chung tay của rất nhiều các đơn vị liên quan, đòi hỏi sự phối
hợp đồng bộ từ Chính phủ, các cơ quan chức năng, ngân hàng và từ chính bản thân các
Doanh nghiệp, đặc biệt là trong giai đoạn đầu hội nhập.
2.1.2. Hiệp định về quan hệ đối tác kinh tế toàn diện ASEAN- Nhật Bản (AJCEP)
ASEAN và Nhật Bản đã ký Hiệp định về Quan hệ Đối tác Kinh tế Toàn diện (AJCEP)
vào tháng 4 năm 2008.
Đây là thoả thuận toàn diện trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thương mại hàng hóa, dịch
vụ, đầu tư và hợp tác kinh tế. Hiệp định AJCEP cũng sẽ tăng cường các quan hệ kinh tế giữa
ASEAN và Nhật Bản và tạo ra một thị trường lớn hơn, hiệu quả hơn với nhiều cơ hội hơn
trong khu vực.
Thỏa thuận này có hiệu lực từ ngày 1/12/2008. Đến tháng 7 năm 2009, các nước
Brunei, Lào, Malaysia, Myanmar, Singapore, Thái Lan, Việt Nam và Nhật Bản đã thông qua
Hiệp định AJCEP.
Đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế tồn diện với Nhật Bản có cách tiếp cận hồn
tồn khác so với đàm với trong khn khổ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc,
ASEAN-Hàn Quốc, đó là được kết hợp giữa đàm phán song phương và đàm phán đa phương.
Việt Nam cùng với các nước ASEAN 6 đã tiến hành đàm phán với Nhật Bản trong cả hai
khn khổ: Hiệp định đối tác kinh tế tồn diện ASEAN-Nhật Bản (AJCEP) và Hiệp định đối
tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA). Một số nét chính khi Nhật Bản thúc đẩy việc đàm
phán trên cả hai kênh này:
(1) Tiến tới thành lập một khu vực mậu dịch tự do với ASEAN với mục tiêu biến
ASEAN thành một khu vực sản xuất chung của Nhật Bản, tạo chuỗi liên kết các khu vực sản
xuất của Nhật Bản giữa các nước ASEAN.



(2) Tiến hành đàm phán để đạt được lợi ích ở từng lĩnh vực cụ thể.
(3) Tự do hoá 90%kim ngạch trong vòng 10 năm(kim ngạch nhập khẩu từ Nhật Bản
2006)
(4) Nhật Bản loại trừ các mặt hàng tập trung chủ yếu vào các sản phẩm nông nghiệp
Thuế suất áp dụng cho từng giai đoạn trong Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt
ASEAN- Nhật Bản (Biểu AJCEP) hầu hết được cắt giảm theo mơ hình cắt giảm dần đều từ
thuế suất cơ sở hoặc có mơ hình cắt giảm riêng đối với những dịng thuế thuộc danh mục
nhạy cảm.Chính vì vậy, mức thuế suất bình quân áp dụng cho cả Biểu AJCEP theo từng năm
trong Lộ trình có chiều hướng giảm.
Về lộ trình cắt giảm thuế quan cụ thể, Hiệp định quy định:
Biểu cam kết của Việt Nam trong AJCEP bao gồm 9.390 dòng thuế (dựa trên AHTN
2007), trong đó đưa vào lộ trình cắt giảm đối với 8.771 dịng. Số dịng cịn lại là các dịng
thuế CKD ơ tơ (57 dịng) và các dịng thuế khơng cam kết cắt giảm (562 dịng), cụ thể:
(1) Danh mục xố bỏ thuế quan: Việt Nam cam kết xoá bỏ thuế quan đối với 62,2% số
dòng thuế trong vòng 10 năm, trong đó xố bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực đối
với 26,3% dịng thuế và xố bỏ thuế quan sau 10 năm thực hiện Hiệp định (năm 2018) đối
với 33,8% dòng thuế. Vào năm 2023 và 2024 (sau 15 năm và 16 năm thực hiện Hiệp định)
cam kết xố bỏ 25,7% và 0,7% số dịng thuế tương ứng. Như vậy, vào năm cuối lộ trình (năm
2025) số dịng thuế được xố bỏ thuế quan chiếm 88,6% số dịng thuế trong toàn Biểu cam
kết.
(2) Danh mục nhạy cảm thường (SL) chiếm 0,6% số dịng thuế, được duy trì ở mức
thuế suất cơ sở và xuống 5% vào năm 2025.
(3) Danh mục nhạy cảm cao (HSL) chiếm 0,8% số dòng thuế, được duy trì mức thuế
suất cao (giảm xuống 50% vào năm 2023).
(4) Danh mục khơng xố bỏ thuế quan, thuế suất duy trì ở mức thuế suất cơ sở trong
cả lộ trình (C) chiếm 3,3% số dịng thuế.
(5) Danh mục loại trừ chiếm 6,0% số dòng thuế.
Phân loại


Tỷ lệ dòng
thuế (%)

Tỷ lệ kim
ngạch (%)

Trong vòng 10 năm

62,2

65,1

25,7

13,8

Trong vòng 16 năm

0,7

0,3

Tổng

88,6

79,2

Thuế giảm xuống 5% vào năm 2025


0,6

2,1

Thuế giảm xuống 50% vào năm 2023

0,8

0,2

Trong vịng 15 năm
Danh mục xóa
bỏ thuế quan

Danh mục nhạy
cảm-khơng xóa


×