Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Pháp luật về đánh giá tác động môi trường của một số quốc gia tại khu vực châu á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.39 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
----------🙞🙞🙞🙞🙞----------

BÀI TẬP NHĨM 4
PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MƠI TRƯỜNG

Đề tài: Pháp luật về đánh giá tác động môi trường của
một số quốc gia tại khu vực Châu Á.

Giảng viên: TS. Lê Kim Nguyệt
Lớp học phần: BSL2028 LKD 2

Năm 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 5
NỘI DUNG ......................................................................................................................6
I. Pháp luật về đánh giá tác động môi trường của một số quốc gia tại Châu Á. ........6
1. Nhật Bản ......................................................................................................................6
1.1. Pháp luật về Đánh giá tác động môi trường của Nhật Bản ...............................6
1.2. Đánh giá chung hệ thống pháp luật ĐTM tại Nhật Bản ....................................7
1.2.1. Ưu điểm: ............................................................................................................ 7
1.2.2. Nhược điểm: ......................................................................................................8
1.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam ..........................................................8
2. Hàn Quốc .....................................................................................................................8
2.1. Hệ thống pháp luật ...............................................................................................8
2.2. Đánh giá chung hệ thống pháp luật ĐTM tại Hàn Quốc ...................................9
2.2.1. Ưu điểm .............................................................................................................9
2.2.2. Nhược điểm ....................................................................................................10


2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ...................................................................10
3. Trung Quốc ................................................................................................................11
3.1. Những quy định về Đánh giá tác động môi trường tại Trung Quốc: ..............11
3.2. Đánh giá chung hệ thống pháp luật ĐTM tại Trung Quốc .............................12
3.2.1. Ưu điểm ..........................................................................................................12
3.2.2. Nhược điểm ....................................................................................................13
3.2.3. Bất cập trong việc thực hiện pháp luật ...........................................................13
3.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam từ hệ thống Pháp luật ĐTM Trung
Quốc ............................................................................................................................... 14
II. Định hướng cho Việt Nam để hoàn thiện pháp luật. .............................................15
1. Thực trạng pháp luật về ĐTM tại Việt Nam hiện nay ............................................15
2. Đề xuất hoàn thiện pháp luật về ĐTM của Việt Nam .............................................17
KẾT LUẬN ....................................................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................20

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BVMT
ĐTM
CQK
TNMT

3

Bảo vệ môi trường
Đánh giá tác động môi trường
Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
Tài nguyên và môi trường



MỞ ĐẦU
Với vai trò to lớn nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững cho quốc gia và cho toàn thế
giới nên pháp luật đánh giá tác động môi trường đã được phần lớn các quốc gia quan tâm,
hình thành và dần trở thành một ngành luật quan trọng, không thể thiếu trong hệ thống
pháp luật mỗi quốc gia. Trong khi các quy định về đánh giá tác động môi trường giữa các
quốc gia trong Cộng đồng châu Âu và Mỹ khơng có nhiều khác biệt thì các quy định về
ĐTM giữa các quốc gia châu Á là không giống nhau. Nguyên nhân chính là do sự khác
biệt về đặc điểm kinh tế, xã hội và hệ thống chính trị, nền tảng văn hóa của các nước
châu Á. Việc nghiên cứu, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu trong pháp luật ĐTM của quốc
gia khác để học hỏi, rút ra bài học cho pháp luật ĐTM nước mình là một hoạt động tích
cực, cần được thúc đẩy và tạo điều kiện. Đối với pháp luật ĐTM của Việt Nam cũng vậy,
nước ta tiếp cận với pháp luật ĐTM muộn hơn nhiều nước khác, nên pháp luật vẫn còn
hạn chế, nhiều điểm chưa thiết thực, tính khả thi chưa cao, cần phải học hỏi một số quốc
gia có pháp luật ĐTM tiến bộ trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,...

4


NỘI DUNG
I. Pháp luật về đánh giá tác động môi trường của một số quốc gia tại Châu Á.
1. Nhật Bản
Trên thế giới vấn đề đánh giá tác động môi trường đã trở thành một phần quan trọng
trong việc phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là các nước phát triển trong đó có Nhật Bản.
Từ những năm 70 của thế kỷ trước, Nhật Bản đã bắt đầu có những nhận thức đầu tiên về
ĐTM và tiếp đó khơng ngừng học hỏi các quốc gia phát triển. Cho đến nay, Nhật Bản đã
dần hoàn thiện pháp luật về đánh giá tác động mơi trường và nó đã thực sự đem lại hiệu
quả cao cho công tác bảo vệ môi trường tại quốc gia này. Nhật Bản cũng là đối tác mà
Việt Nam rất quan tâm, chú trọng hợp tác trong lĩnh vực kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường.

1.1. Pháp luật về Đánh giá tác động môi trường của Nhật Bản
Tại Nhật Bản, ĐTM được giới thiệu từ năm 1972. Tuy nhiên đến năm 1984 Chính
phủ mới quy định chính thức về thực hiện ĐTM cho các dự án. Và Luật về “Đánh giá tác
động môi trường” được ban hành tháng 6/1997 với mục đích thiết lập hệ thống quy trình,
thủ tục thực hiện ĐTM nhằm ngăn ngừa suy thối môi trường và thúc đẩy một xã hội bền
vững.
“Luật Đánh giá Tác động Môi trường” được ban hành vào năm 1997 (có hiệu lực
năm 1999), khởi đầu bằng việc ban hành Luật Mơi trường cơ bản (1993). Sau đó, Đạo
luật này đã được sửa đổi một phần vào năm 2011 và luật sửa đổi đã có hiệu lực từ năm
2013. Luật Đánh giá Tác động Môi trường của Nhật Bản có quy định về các quy tắc
chung trong việc đánh giá tác động môi trường, các điều khi thực hiện đánh giá tác động
môi trường, công tác chuẩn bị và đánh giá…
Cơ sở pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐTM tại Nhật Bản là “Luật Đánh giá tác động
môi trường”, quy định về các nghĩa vụ và thủ tục ĐTM đối với các dự án được liệt kê
(một số dự án xây dựng và thay đổi mục đích sử dụng đất) và yêu cầu các cơ quan chức
năng xem xét kết quả giám định trong các quyết định của mình.
Đặc điểm của hệ thống ĐTM Nhật Bản bao gồm 2 điểm chính sau:
Thứ nhất, quy định bắt buộc lập báo cáo ĐTM đối với 13 loại hình doanh nghiệp đủ
điều kiện hoạt động kinh doanh và thực hiện hoạt động thuộc các lĩnh vực: đường bộ,
chính trị sơng, đường sắt, cảng hàng không, nhà máy điện, khu đổ thải, cải tạo đất, điều
chỉnh sử dụng đất, khu dân cư mới, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng thành
phố mới, tổ hợp trung tâm phân phối, phát triển đất ở và đất công nghiệp do các tổ chức
chuyên dụng. Mỗi loại hình dự án lại được phân cấp thành dự án cấp 1 và dự án cấp 2,
theo quy mơ hoặc diện tích và có u cầu riêng về mức độ ĐTM. Dự án loại 1 có quy mô
lớn hơn là các dự án buộc phải thực hiện ĐTM và phải tuân thủ theo quy trình của Luật.

5


Còn các dự án cấp 2 việc tiến hành ĐTM có thể linh động hơn, việc thực hiện ĐTM được

thực hiện tùy theo phán quyết của cơ quan có thẩm quyền cho từng dự án riêng lẻ.
Thứ hai, ĐTM được thực hiện rất thận trọng, từ khâu nghiên cứu lập báo cáo đến cả
khâu thẩm định. Một báo cáo ĐTM cần trung bình 3 năm (khơng rõ thời gian chờ thẩm
định là bao lâu) từ khi nghiên cứu đến khi được cấp phép thẩm định.
Ngoài Luật Đánh giá Tác động Môi trường; Pháp lệnh Thực thi Đạo luật Đánh giá
Tác động Môi trường, Quy định Thực thi Đạo luật Đánh giá Tác động Môi trường và các
vấn đề cơ bản trong Cơ quan Môi trường 1997 là bắt buộc để thực hiện đánh giá tác động
mơi trường.
Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật ĐTM Nhật Bản cịn được hồn thiện bởi hệ thống
các văn bản do chính quyền địa phương ban hành với các đặc điểm:
(1)Bổ sung các dự án phải ĐTM
(2)Quy định áp dụng cho các dự án quy mô nhỏ
(3)Quy định việc tổ chức các buổi điều trần công khai để hỏi ý kiến người dân
(4)Cung cấp thủ tục thực hiện ĐTM của tổ chức tư vấn lập báo cáo ĐTM
(5)Yêu cầu theo dõi giám sát sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt.
1.2. Đánh giá chung hệ thống pháp luật ĐTM tại Nhật Bản
1.2.1. Ưu điểm:
Nhật Bản là một trong số những quốc gia Châu Á với hệ thống pháp luật về ĐTM
tiến bộ và phát triển hàng đầu thế giới. Mặc dù có nhiều văn bản quy định nhưng hệ
thống pháp luật ĐTM Nhật Bản không hề bị chồng chéo, mà có sự phân chia, phối hợp
bằng cách không quy định trùng các đối tượng thuộc hạng mục thực hiện ĐTM (các dự
án được chỉ định thực hiện ĐTM theo luật, chính sách pháp luật địa phương sẽ không thể
yêu cầu các thủ tục bổ sung: luật địa phương chỉ quy định thủ tục cho những dự án không
được Luật Đánh giá tác động môi trường đề cập).
Như đã nói ở trên, một báo cáo ĐTM cần trung bình 3 năm từ khi nghiên cứu đến khi
được cấp phép thẩm định. Chính sự thận trọng này giúp các dự án tại Nhật Bản hạn chế
đến mức thấp nhất các tác động xấu đến môi trường tự nhiên và xã hội.
Bên cạnh đó, một điểm rất tích cực trong hoạt động ĐTM của Nhật Bản đó khâu
tham vấn cộng đồng trong quá trình lập báo cáo ĐTM. Sau khi hoàn thành khảo sát, dự
báo và đánh giá, thủ tục tiếp theo là lắng nghe ý kiến liên quan đến kết quả đánh giá. Chủ

dự án chuẩn bị dự thảo báo cáo ĐTM mô tả các kết quả đánh giá, cách tiếp cận bảo vệ
môi trường và gửi đến cơ quan quản lý về môi trường ở địa phương. Chủ dự án cũng
công khai tài liệu và cho phép người dân địa phương được trực tiếp xem tại văn phịng
chính phủ và tại nơi hoạt động của chủ dự án. Trong thời gian này, các cuộc họp tham vấn
cũng được tổ chức để giải thích nội dung của dự thảo báo cáo ĐTM. Bất cứ ai có ý kiến
6


về dự thảo báo cáo ĐTM có thể gửi bản ý kiến đánh giá đến chủ dự án. Chủ dự án tổng
hợp những ý kiến đó với chính quyền địa phương. Sau đó, cơ quan quản lý tại địa phương
cũng nêu ý kiến đánh giá của mình về báo cáo ĐTM đối với dự án trong đó có tính đến ý
kiến từ công chúng. Chủ dự án dựa vào những ý kiến tham vấn đó để hồn thiện báo cáo
ĐTM và gửi đến cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Cho tới khi báo cáo ĐTM cuối cùng
được công khai chủ dự án không được thực hiện bất kỳ giai đoạn nào khác của dự án.
Việc tham vấn cộng đồng của Nhật Bản khơng phải là hình thức đối phó, thủ tục theo quy
định của pháp luật ĐTM rất thực chất, công khai đưa đến những giải pháp thiết thực, đem
lại hiệu quả ĐTM cao.
1.2.2. Nhược điểm:
Sự kéo dài của ĐTM từ khi nghiên cứu đến khi được cấp phép thẩm định đã gây
khơng ít khó khăn cho các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý môi trường do vậy đã có
một số đề xuất “hợp lý hóa, đơn giản hóa quy trình ĐTM” với một số loại hình dự án đặc
thù (chỉ áp dụng đối với loại hình dự án tháo dỡ nhà máy điện, thời gian lập và thẩm định
báo cáo ĐTM chỉ còn 1-1,5 năm).
⇒Nhận xét: So với các nước trong khu vực, pháp luật Đánh giá Tác động Môi trường tại
Nhật Bản thuộc vào hàng phát triển và hoàn thiện nhất. Tuy vậy các chuyên gia môi
trường nước này vẫn cho rằng pháp luật ĐTM nước mình cịn hạn chế và vẫn ln trong
tiến trình học hỏi kinh nghiệm các nước phương Tây để ngày một tiến bộ và hoàn thiện
hơn.
1.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Quản lý nhà nước về môi trường cần phải được thực thi thống nhất thông qua các đạo

luật. Ở Việt Nam là luật về môi trường được ban hành quá ít nhưng các văn bản dưới luật,
các văn bản mang tính pháp quy như nghị định, thông tư, chỉ thị... của các cấp trong hệ
thống chính trị quá nhiều. Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy, cần phải luật hóa các loại
văn bản này và các đạo luật được ban hành phải tương đối chi tiết mà khơng cần các văn
bản dưới luật giải thích sẽ có hiệu quả hơn. Việc làm này là hết sức quan trọng bởi nó tạo
cơ sở pháp lý cho công tác quản lý môi trường và tạo cơ sở để nâng cao năng lực quản lý
ô nhiễm môi trường ở nước ta.
Ngoài khung pháp lý đầy đủ, cần nâng cao vai trị quản lý của Chính Phủ, sự nỗ lực
của các chính quyền địa phương trong việc chống ơ nhiễm môi trường nhằm đảm bảo các
hoạt động đánh giá mơi trường được diễn ra thống nhất, nhanh chóng, dễ dàng, chỉn chu
và hiệu quả.
2. Hàn Quốc
7


2.1. Hệ thống pháp luật
Vấn đề môi trường ở Hàn Quốc được quan tâm từ những năm 1960 của thế kỷ XX do
phát triển các công nghiệp nặng như công nghiệp hóa học, gang thép, đóng tàu, sản xuất
ơtơ cùng với ngành khai thác dầu khí, dệt may... làm phát sinh ơ nhiễm mơi trường. Năm
1963, nhằm đối phó với ô nhiễm môi trường phát sinh tại các khu công nghiệp, Pháp lệnh
mơi trường đầu tiên “Luật Phịng chống ơ nhiễm” ra đời. Tuy nhiên, nội dung còn sơ sài,
nên hiệu quả thực thi khơng cao. Do đó, ngày 31/12/1977, “Luật BVMT” được ban hành.
Trong “Luật BVMT”, nhiều điểm mới được đưa vào như: Làm rõ quy chế đánh giá tác
động môi trường, quy chế giám sát môi trường, tiêu chuẩn cho phép thải ô nhiễm, lắp đặt
trang thiết bị chống ơ nhiễm...
Nói riêng về hệ thống pháp luật ĐTM ở Hàn Quốc, ta có những đặc điểm chung như
sau:
- Có nhiều đạo luật cùng quy định về Đánh giá Tác động Mơi trường và trong đó có một
đạo luật khung chỉ quy định những vấn đề mang tính chung nhất, còn các vấn đề cụ thể
được điều chỉnh bằng các đạo luật khác. Luật khung về Chính sách mơi trường của Hàn

Quốc không đưa ra quyền và nghĩa vụ cụ thể về BVMT đối với các chủ thể, mà chỉ liệt
kê ra các chính sách, cơng cụ BVMT sẽ được nhà nước áp dụng, bao gồm: tiêu chuẩn
môi trường, quy hoạch môi trường, quan trắc và đánh giá môi trường, tuyên truyền giáo
dục, khoa học công nghệ, hợp tác quốc tế, trực tiếp đầu tư, thông báo mức phát thải được
phép, kiểm sốt đặc biệt đối với hóa chất độc hại, phóng xạ, đối với những khu vực đã bị
ô nhiễm, thiệt hại, đánh giá tác động môi trường, giải quyết tranh chấp, giảm thiểu thiệt
hại, thuế.
Mỗi loại công cụ cũng chỉ được kể tên và đưa ra một số nguyên tắc áp dụng, còn nội
dung chi tiết của các công cụ này được thể hiện trong các đạo luật vệ tinh.
- Nhìn chung các đạo luật của Hàn Quốc đều có một chương quy định về các biện pháp
chế tài hình sự và hành chính áp dụng đối với hành vi vi phạm.
2.2. Đánh giá chung hệ thống pháp luật ĐTM tại Hàn Quốc
2.2.1. Ưu điểm
ĐTM của Hàn Quốc khá tiên tiến: cơ sở pháp lý về ĐTM rõ ràng, các phương pháp,
quy trình đã được xây dựng hồn chỉnh ĐTM đã đi vào chi tiết, có nghiên cứu khoa học.
Do vậy, ĐTM đang là công cụ tốt cho định hướng “Tăng trưởng Xanh”. Các xu hướng
chính trong nghiên cứu khoa học về ĐTM ở Hàn Quốc được tóm tắt trong báo cáo của
Kim Taehyoung cho thấy từ năm 2008 đến 2012 riêng Viện Môi trường Hàn Quốc đã
cơng bố 106 bài báo trong đó có đến 57 nghiên cứu về ĐTM (chiếm 53,8%). Số lượng
cơng trình nghiên cứu về các vấn đề môi trường đặc thù tăng nhanh và chiếm đến 70,4%
tổng số cơng trình về ĐTM, trong khi số cơng trình về kỹ thuật ĐTM chỉ chiếm 18,9%.
8


Trong các năm gần đây các cơng trình nghiên cứu về tác động do biến đổi khí hậu
(BĐKH) và tác động sức khỏe, về năng lượng tái tạo ngày càng nhiều, trong đó số lượng
cơng trình về BĐKH chiếm 4,4% trong tổng số các cơng trình trong 5 năm qua của KEI.
2.2.2. Nhược điểm
- Tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật.
- Tính ổn định của pháp luật thấp, thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung.

- Hạn chế về thực hiện đánh giá tác động của chính sách, pháp luật, lấy ý kiến, phản biện
xã hội đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Một số bài học kinh nghiệm qua các điểm nổi bật trong cách tiếp cận xây dựng luật,
chính sách của Hàn Quốc:
Về cơ bản các luật trong hệ thống văn bản pháp luật về BVMT của Hàn Quốc đều có
một chương quy định về các biện pháp chế tài hình sự và hành chính áp dụng đối với
hành vi vi phạm. Phân công, phân cấp nhiệm vụ quản lý môi trường ở Hàn Quốc: Bộ Mơi
trường Hàn Quốc (MOE) có trách nhiệm chủ trì thực thi những đạo Luật về mơi trường.
Các chính quyền địa phương cũng có vai trị quan trọng trong cơng tác thực thi các Luật
này. Tịa án hành chính, dân sự và hình sự có trách nhiệm thi hành các Luật về môi
trường thông qua quá trình xét xử của tịa án. Chính quyền địa phương được trao quyền
ban hành các tiêu chuẩn môi trường địa phương với mức độ chi tiết, chặt chẽ hơn tiêu
chuẩn mơi trường quốc gia. Chính quyền địa phương có quyền cấp hầu hết các giấy phép
hoặc các phê duyệt và cưỡng chế thi hành các sắc lệnh. Các sắc lệnh hành chính bao gồm
đình chỉ hoạt động kinh doanh, thu hồi giấy phép, đóng cửa các cơ sở. Thu hồi giấy phép
thường được ban hành khi các vi phạm bị tái phạm liên tục và sau khi đã thông báo trước.
Nhiều Luật mơi trường quy định các hình thức phạt bao gồm phạt tù hoặc phạt tiền đối
với các trường hợp vi phạm.
Đặc biệt là kinh nghiệm thực tế của Hàn Quốc về quy hoạch môi trường và bảo tồn
đa dạng sinh học trong đánh giá tác động môi trường đối với các dự án về xây dựng, giao
thông vận tải, quy hoạch các khu công nghiệp song song với việc bảo vệ các hệ sinh thái
tự nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học. Cho đến nay, ở Việt Nam, hầu hết các báo cáo đánh
giá tác động môi trường rất ít chú ý đến tác động tiềm tàng của dự án đến đa dạng sinh
học, do vậy các tác động chủ yếu đến đa dạng sinh học hầu như bị bỏ qua trong quy trình
đánh giá tác động mơi trường hiện nay.
⇒ Nhận xét: Đa số các Luật liên quan tới môi trường của Hàn Quốc đều làm rõ trách
nhiệm của Nhà nước, quyền hạn và nghĩa vụ của người dân đối với ĐTM, định ra các
điều khoản căn bản trong quy định pháp luật môi trường, quản lý môi trường bền vững...
9



Bên cạnh đó, pháp luật về ĐTM được xây dựng với mục đích nâng cao chất lượng sống
và sức khỏe của người dân. Là quốc gia có q trình phát triển kinh tế tương đồng với
Hàn Quốc, do đó những vấn đề về xây dựng và trang bị thể chế pháp luật ĐTM của Hàn
Quốc như đã nêu trên chắc chắn sẽ hữu ích đối với Việt Nam hiện
3. Trung Quốc
3.1. Những quy định về Đánh giá tác động môi trường tại Trung Quốc:
Tại Trung Quốc, Bộ BVMT đã ban hành Luật Đánh giá Tác động Môi trường từ năm
2003 và mỗi năm có 30.000 dự án lập ĐTM (thực chất là ĐTM cho quy hoạch) được thực
hiện cho các quy hoạch phát triển vùng kinh tế, địa phương, ngành, lĩnh vực, các lưu vực
sông, các vùng kinh tế ven biển, vịnh biển… và dựa trên 4 quy định chính:
· Quy định về chuyên môn và trách nhiệm của người lập báo cáo đánh giá
Pháp luật Trung Quốc tiếp cận vấn đề rất chặt chẽ. Cụ thể, tất cả các báo cáo ĐTM
đều phải được lập bởi người có chứng chỉ hành nghề. Chứng chỉ hành nghề còn được
chia thành 2 loại A và B, trong đó loại A được phép lập báo cáo ĐTM cho tất cả các dự
án, còn loại B chỉ được phép lập báo cáo ĐTM ở cấp địa phương. Muốn có chứng chỉ,
một cá nhân phải trải qua kỳ thi do nhà nước tổ chức và 4 năm một lần phải thi lại để
được gia hạn.
· Đảm bảo sự tham gia của cộng đồng và công khai thông tin
Sự tham gia của cộng đồng là yếu tố bắt buộc trong pháp luật về ĐTM tại hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Sự tham gia này thường được thể hiện trong nhiều giai đoạn: tham
vấn ý kiến rộng rãi khi lập báo cáo, tự do góp ý trong khâu thẩm định báo cáo và giám sát
việc thực hiện báo cáo. Luật pháp Trung Quốc đảm bảo sự tham gia của người dân vào
bốn giai đoạn: lập báo cáo, thẩm định báo cáo, lập báo cáo thực hiện và giám sát thực
hiện. Trong đó, với quá trình lập báo cáo ĐTM, chủ dự án phải tham vấn ý kiến rộng rãi
của người dân; đối với quá trình tham vấn, cơ quan thẩm định phải cơng bố công khai các
báo cáo. Tất cả các ý kiến được tiếp thu hoặc từ chối đều phải được giải trình và được lưu
kèm với báo cáo. Kết thúc giai đoạn xây dựng báo cáo, chủ dự án phải lập báo cáo thực
hiện. báo cáo này cũng phải được tham vấn ý kiến của người dân trước khi gửi cho cơ

quan nhà nước để giám sát. Người dân cũng có quyền phản ánh trực tiếp đến cơ quan
giám sát về những sai sót của chủ dự án trong q trình xây dựng dự án. Cuối cùng, toàn
bộ nội dung và các tài liệu liên quan nêu trên đều phải được lưu trữ và người dân có
quyền tiếp cận miễn phí.
· Đảm bảo tính độc lập của Hội đồng thẩm định
Tính độc lập của Hội đồng thẩm định là một trong những yêu cầu quan trọng nhất
nhằm đảm bảo chất lượng của các báo cáo ĐTM, đặc biệt là các báo cáo do báo cáo này
được lập bởi các cơ quan nhà nước Pháp luật Trung Quốc quy định rất chặt chẽ về vấn đề
10


này. Theo đó Bộ Bảo vệ Mơi trường (BVMT) của Trung Quốc công bố một danh sách tất
cả các chuyên gia về ĐTM trên phạm vi toàn quốc. Đối với mỗi báo cáo ĐTM hội đồng
thẩm định sẽ được thành lập dựa trên lựa chọn ngẫu nhiên từ danh sách (có loại bỏ các
trường hợp xung đột lợi ích như các mối quan hệ gia đình, quan hệ lao động). Pháp luật
Trung Quốc còn nghiêm cấm mọi tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp giữa chủ dự án và thành
viên hội đồng, kể cả khi thành viên hội đồng chủ động liên hệ. Sau quá trình thẩm định,
hội đồng sẽ viết báo cáo thẩm định với ba nội dung chính: (1) có thơng qua báo cáo ĐTM
khơng, (2) có u cầu sửa đổi gì trong báo cáo khơng, và (3) giải thích lý do. Các ý kiến
khơng đồng tình phải được ghi nhận riêng. báo cáo ĐTM chỉ được thông qua khi có 3/4
số thành viên tán thành.
· Cứng rắn trong vấn đề xử lý vi phạm
Pháp luật Trung Quốc quy định rất rõ các hành vi vi phạm đối với các chủ thể này.
Theo đó, người lập báo cáo ĐTM sẽ bị tước thẻ hành nghề nếu có sai sót trong q trình
lập báo cáo ĐTM. Thành viên hội đồng thẩm định cũng sẽ bị loại ra khỏi danh sách của
Bộ BVMT nếu có sai sót trong quy trình hoặc nội dung báo cáo thẩm định, hoặc báo cáo
ĐTM (trừ các thành viên đã bỏ phiếu phản đối). Nếu sai sót đó dẫn đến hậu quả thực tế
thì người lập báo cáo và thành viên hội đồng thẩm định có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự. Một quan chức phê duyệt CQK hoặc dự án hay cấp giấy phép xây dựng, giấy
phép đầu tư dựa theo báo cáo không theo quy định sẽ bị cách chức.

3.2. Đánh giá chung hệ thống pháp luật ĐTM tại Trung Quốc
3.2.1. Ưu điểm
Điều 19 Luật Đánh giá Tác động Môi trường Trung Quốc quy định việc thẩm định
báo cáo ĐTM sẽ do một tổ chức độc lập chuyên thẩm định báo cáo ĐTM thực hiện mà
không phải các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường thực hiện như nhiều quốc gia
khác trong đó có Việt Nam. Báo cáo ĐTM do chủ dự án lập, sau đó sẽ thuê một tổ chức
thẩm định độc lập tiến hành thẩm định báo đó. Cơ quan nhà nước sẽ chỉ tiến hành thẩm
tra, phê duyệt báo cáo ĐTM, chứ không trực tiếp thẩm định báo cáo ĐTM. Các tổ chức
thẩm định báo cáo ĐTM phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động thẩm định
báo cáo ĐTM mình. Quy định này đảm bảo việc thẩm định được diễn ra một cách khách
quan, hạn chế tiêu cực phát sinh trong quá trình thẩm định, cũng phần nào giảm bớt khối
lượng công việc cho cơ quan nhà nước.
Pháp luật ĐTM cũng quy định chặt chẽ về năng lực chuyên môn của người lập báo
cáo ĐTM. Cụ thể, người lập báo cáo ĐTM phải có chứng chỉ hành nghề, để được cấp
chứng chỉ cá nhân phải trải qua kỳ thi do Nhà nước tổ chức và cứ 4 năm một lần phải thi
lại để được gia hạn. Chứng chỉ hành nghề còn được chia thành 2 loại: loại một được phép
thành lập báo cáo ĐTM cho tất cả các dự án, loại 2 là dành cho người lập báo cáo ĐTM ở
11


cấp địa phương. Điều này sẽ nâng cao chất lượng ĐTM ngày từ khâu lập báo cáo ĐTM
ban đầu, kéo theo đó việc thẩm định, phê duyệt cũng sẽ thuận lợi, nhanh chóng hơn. Pháp
luật ĐTM Trung Quốc chú trọng đảm bảo sự tham gia của cộng đồng và công khai thông
tin về báo cáo ĐTM.
Việc tham gia của người dân được quy định trong các giai đoạn: lập báo cáo, thẩm
định, thực hiện và giám sát thực hiện báo cáo ĐTM. Ý kiến của cộng đồng rất được quan
tâm, q trình thực hiện ĐTM đều được cơng khai và người dân được tham gia vào hầu
hết các giai đoạn của q trình này, đảm bảo sự cơng bằng, khách quan, cũng nâng cao
chất lượng báo cáo ĐTM một cách tối đa nhất.
Cơ chế xử lý vi phạm cực kỳ nghiêm minh, khắt khe xử lý triệt để với các hành vi vi

phạm.
3.2.2. Nhược điểm
Đánh giá về chất lượng của hệ thống ĐTM của Trung Quốc, tác giả Từ Hòa và
Vương Huy Chí, Trung tâm Nghiên cứu - Đại học Nam Khai (Thiên Tân) cho rằng, hiện
nay chỉ mang tính hiệu quả tương đối, cịn thiếu tính định lượng. Để có giá trị dự báo cao
hơn cần phải xác định và xây dựng các chỉ thị để đánh giá; tìm các phương pháp định
lượng, đồng thời đo lường được tác động và diễn biến môi trường do thực hiện quy
hoạch.
GS Trung Quốc giảng dạy ở Đại học Nam Seoul cho rằng các quy định và hiệu quả
về ĐTM của Trung Quốc cịn lạc hậu vì đến năm 1990 Trung Quốc mới có quy định về
ĐTM trong Luật BVMT sau đó trong Luật ĐTM 2003. ĐTM ở Trung Quốc chú trọng
“phòng ngừa là chính”, nặng hình thức, ít thực chất so với các nước tiên tiến trên thế giới.
Ngày 28/12/2002, “Luật Đánh giá Tác động Môi trường” của Trung Quốc được
thông qua, trong đó quy định rõ về đánh giá tác động môi trường dự án và đánh giá tác
động môi trường quy hoạch, nhưng không đề cập đến đánh giá tác động môi trường chiến
lược. Thực tế là đánh giá tác động môi trường của Trung Quốc vẫn chỉ dừng lại ở mức độ
đánh giá tác động môi trường của các dự án xây dựng, và các dự án xây dựng là phần
cuối của toàn bộ chuỗi ra quyết định (chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, dự
án), và chỉ có thể khắc phục những thiệt hại về mơi trường ở quy mô nhỏ, không Bảo vệ
môi trường từ nguồn, khơng thể định hướng cho các chính sách, kế hoạch định hướng
phát triển và không giải quyết được các tác động vĩ mơ, gián tiếp, thứ cấp và tích lũy của
các hoạt động phát triển và xây dựng.
3.2.3. Bất cập trong việc thực hiện pháp luật
 Cơ cấu Chính phủ phức tạp và thủ tục phê duyệt phức tạp

12


Ngồi luật thì hệ thống quản lý và hình thức tổ chức của hệ thống đánh giá tác động
môi trường là điều kiện cần để nó phát triển có hiệu quả. Cơ quan hành chính của Trung

Quốc rất phức tạp, có sự chồng chéo nghiêm trọng về chức năng, quyền hạn, mâu thuẫn
về lợi ích giữa các cơ quan ban ngành càng nổi rõ. Ngoài hệ thống, các yêu cầu bằng văn
bản cho báo cáo ĐTM cũng quá rườm rà. Với tư cách là một báo cáo ĐTM của dự án,
mặc dù nội dung và kết quả đánh giá cần được thảo luận chi tiết nhưng cũng cần dựa trên
các nguyên tắc chính xác, khoa học và phù hợp. Hiện nay, nhiều báo cáo ĐTM của dự án
có nội dung quá phức tạp, có quá nhiều nội dung tùy chọn mà ít nội dung có ý nghĩa chỉ
đạo thực tiễn và giá trị nổi bật.
 Sự tham gia của cộng đồng là nhỏ và không hiệu quả
Điều 5 của Chương 1 Luật Đánh giá tác động môi trường được thông qua năm 2003
quy định “ nhà nước khuyến khích các đơn vị liên quan , chuyên gia và công chúng tham
gia đánh giá tác động môi trường một cách phù hợp ”. Tuy nhiên , trong hệ thống đánh
giá tác động môi trường của Trung Quốc chưa thực hiện được sự tham gia hiệu quả của
cộng đồng, hoặc việc thực hiện rất chậm và hiệu quả cực kỳ thấp. Có một thủ tục chính
thức trong việc ra quyết định, và khơng có nội dung thiết thực , và cơng chúng khơng
đóng một vai trị hiệu quả trong việc ra quyết định. Các vấn đề chính của sự tham gia của
cộng đồng như sau: (l) Quyền tham gia của công dân chưa rõ ràng và nội dung chưa cụ
thể; (2) Thông tin về sự tham gia của cộng đồng chưa thông suốt; (3) sự tham gia của
công chúng chưa được đảm bảo. Chính những điểm này đã làm trầm trọng thêm vấn đề
tốn nhiều thời gian và công sức của sự tham gia của cộng đồng vào hệ thống ĐTM của
Trung Quốc
3.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam từ hệ thống Pháp luật ĐTM Trung
Quốc
Dựa trên 4 yếu tố chính của hệ thống pháp luật ĐTM Trung Quốc ta có thể rút ra bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
Đầu tiên, pháp luật Việt Nam cần phải xác định rõ nguyên tắc và cơ thế tham gia của
cộng đồng và phải đảm bảo sự tham gia này trong cả 3 giai đoạn lập, thẩm định và giám
sát thực hiện báo cáo ĐTM. Pháp luật cũng cần quy định việc tham vấn rộng rãi qua các
hình thức văn bản, gặp mặt và đăng tải trên mạng internet trong q trình lập báo cáo
đánh giá. Cần có quy định rõ ràng về việc lưu trữ và báo cáo trung thực tất cả các ý kiến,
không chỉ của người dân mà cả các ý kiến của chuyên gia. Giai đoạn thẩm định và phê

duyệt báo cáo, cơ quan thẩm định có nghĩa vụ tiếp thu tất cả các ý kiến đóng góp. Tồn
bộ tài liệu do chủ đầu tư nộp phải được công bố rộng rãi trên mạng internet kèm với
khoảng thời gian thẩm định cùng đầu mối tiếp nhận và phản hồi, giải trình đối với các ý
kiến.
13


Tiếp theo, pháp luật Việt Nam nên nhấn mạnh tính độc lập giữa cơ quan thẩm định và
cơ quan phê duyệt, nhất là với báo cáo ĐMC vì báo cáo này cũng do các cơ quan nhà
nước lập và cơ quan thẩm định chịu nhiều áp lực hơn:
- Nên áp dụng cơ chế lựa chọn ngẫu nhiên trong hệ thống cơ sở dữ liệu về chuyên gia.
Cơ chế này tương tự như việc lựa chọn thành viên bồi thẩm đoàn. Nếu một chuyên gia
đã tham gia trong công tác lập báo cáo, hoặc có mối quan hệ có thể dẫn tới mâu thuẫn
lợi ích sẽ bị loại ra khỏi danh sách hội đồng.
- Cần nghiêm cấm mọi sự tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp giữa thành viên hội đồng và
chủ dự án. Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định chủ dự án phải có mặt trong phiên
họp của hội đồng và trình bày báo cáo. Tuy nhiên, điều này là cơ hội nảy sinh tham
nhũng, tiêu cực và rất nhiều nội dung trao đổi sẽ không được lưu lại. Do đó, cần quán
triệt quan điểm là mọi điều cần trình bày trước hội đồng đã được chủ dự án trình bày
trong báo cáo ĐTM
- Mọi ý kiến của các thành viên hội đồng đều phải được lưu lại, kể cả các ý kiến thiểu
số và các thành viên phải chịu trách nhiệm về ý kiến của mình trong báo cáo thẩm
định. Nếu báo cáo ĐTM hoặc ĐMC được thơng qua và sau này phát hiện có sai sót thì
những thành viên bỏ phiếu thuận sẽ bị tước thẻ hành nghề, đồng thời bị loại khỏi danh
sách chuyên gia.
Cuối cùng, Việt Nam cũng nên tham khảo các quy định về xử lý vi phạm của các
nước, ngoài việc xử lý chủ đầu tư, cần bổ sung quy định xử lý các hành vi của người lập
báo cáo, người thẩm định báo cáo và người phê duyệt CQK, cấp phép dự án đầu tư.
II. Định hướng cho Việt Nam để hoàn thiện pháp luật.
1. Thực trạng pháp luật về ĐTM tại Việt Nam hiện nay

Sau khi có Luật BVMT năm 2020, các quy định về ĐTM đã được sửa đổi, bổ
sung, có sự phát triển phù hợp hơn với tình hình thực tế ở Việt Nam. Nhiệm vụ đặt ra cho
cơng tác ĐTM là tạo sự thơng thống cho mơi trường đầu tư nhưng vẫn đảm bảo các yêu
cầu của công tác bảo vệ môi trường. Dựa trên các quy định, chính sách đã được xây dựng
và ban hành, cơng tác ĐTM đã đạt được những thành tựu quan trọng. Có thể thấy được
rằng rằng:
- Các văn bản quy phạm pháp luật, các quy trình, thủ tục thẩm định ĐTM được quy
định rõ ràng, minh bạch theo hướng cải cách hành chính, đảm bảo chất lượng của cơng
tác thẩm định.
- Nội dung và chất lượng của báo cáo ĐTM ngày càng có những cải tiến nhất định.
Nhiều dự án trước khi vận hành chính thức đã được xác nhận thực hiện các cơng trình
bảo vệ mơi trường theo u cầu của báo cáo ĐTM. Dựa trên quá trình thẩm định báo cáo
ĐTM, một số dự án đầu tư trên các lĩnh vực khác nhau đã phải thay đổi địa điểm hoặc
14


khơng được phê duyệt vì khơng đảm bảo các u cầu về BVMT, từ đó thấy được ĐTM
đã trở thành cơng cụ hữu ích khi gắn trách nhiệm của chủ dự án đối với công tác BVMT.
- Đối với công tác thẩm định ĐTM, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã yêu cầu
thống nhất quản lý công tác thẩm định ĐTM, cơ quan thẩm định, phê duyệt kết quả thẩm
định ĐTM chỉ còn Bộ TN&MT, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an (tổ chức thẩm định báo cáo
ĐTM đối với dự án đầu tư thuộc bí mật nhà nước về quốc phòng, an ninh) và UBND cấp
tỉnh. Theo Luật BVMT năm 2020, thành phần Hội đồng thẩm định được quy định công
khai và tạo điều kiện để nhiều thành phần được tham gia. Các chuyên gia tham gia vào
Hội đồng thẩm định các cấp được chọn lựa và phần lớn đều là các chun gia có trình độ
chun mơn phù hợp; chất lượng chuyên gia tham gia hoạt động Hội đồng thẩm định
ĐTM có khác nhau giữa các địa phương vì nhiều lý do khác nhau (yếu tố, địa lý, kinh
phí...). Theo Luật BVMT năm 2020, quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM được thay thế
bằng quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo ĐTM.
- Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ngày càng hoàn thiện, đã

được thiết lập từ cấp Trung ương đến địa phương. Đội ngũ cán bộ ngày càng phát triển về
số lượng và chất lượng, đáp ứng theo từng giai đoạn phát triển của đất nước. Bên cạnh
đó, các nhà khoa học, cơ quan truyền thơng và tồn xã hội ngày càng quan tâm hơn đến
công tác ĐTM. Việc tham vấn ý kiến cộng đồng khi thực hiện ĐTM trở thành yêu cầu bắt
buộc, thể hiện sự dân chủ, nhân văn, khoa học… và đang từng bước tiếp cận với kinh
nghiệm quốc tế.
Tuy nhiên, pháp luật về ĐTM hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế nhất định:
- Các báo cáo ĐTM cịn nặng về hình thức, nhiều nơi chỉ mới quan tâm đến tác động
có hại, tác động trực tiếp, tác động trước mắt… mà ít quan tâm đến tác động gián tiếp, lâu
dài.
- Các biện pháp đưa ra để giảm thiểu tác động cịn sơ sài, ít khả thi, thiếu số liệu thuyết
phục. Điều đó cho thấy, yêu cầu đánh giá tác động xã hội đã không được đề cao trong yêu
cầu lập báo cáo ĐTM.
- Mức chi phí thực hiện ĐTM cịn thấp (theo thơng lệ quốc tế, chi phí để lập một báo
cáo ĐTM thường chiếm từ 1 – 3% so với tổng kinh phí của một dự án), khó có thể đáp
ứng một loạt các yêu cầu khảo sát và đo đạc một cách nghiêm túc và cập nhật các chỉ tiêu
môi trường ở các khu vực dự án cụ thể.
- Thủ tục ĐTM vẫn giao cho chủ đầu tư thực hiện hoặc thuê đơn vị tư vấn độc lập, như
vậy thiếu tính khách quan, bởi vì chủ đầu tư khó có thể th cá nhân hay tổ chức tư vấn
lập báo cáo ĐTM để dẫn tới quyết định dự án bị trì hỗn hoặc chấm dứt, khơng đảm bảo
lợi ích của họ. Thậm chí, trong nhiều năm qua vì sức ép tăng trưởng kinh tế nên lãnh đạo
nhiều ngành, địa phương xem nhẹ vai trò của ĐTM.

15


- Việc cưỡng chế lập báo cáo ĐTM và quyết định phê chuẩn báo cáo của cơ quan
chức năng có thẩm quyền chưa nghiêm. Tỷ lệ các dự án không lập báo cáo ĐTM hoặc
chưa tiến hành lập, thẩm định ĐTM cịn cao.
- Các cơ quan quản lý khơng có đủ nhân lực, trang thiết bị và thời gian để giám sát

mơi trường trong q trình xây dựng và hoạt động của dự án.
- Việc huy động sự tham gia của cộng đồng trong q trình ĐTM cịn nhiều bất cập.
Phần lớn các chủ dự án và cơ quan tư vấn có hỏi ý kiến cộng đồng dân cư, nhất là các dự
án có liên quan đến vấn đề giải phóng mặt bằng, tái định cư. Tuy nhiên, hầu hết mới chỉ
tiến hành bằng hình thức phiếu điều tra xã hội học hoặc phỏng vấn trực tiếp, mặt khác,
việc hỏi ý kiến mới chỉ dừng lại ở tìm hiểu nguyện vọng hay phản ứng của cộng đồng
dân cư về dự án.
2. Đề xuất hoàn thiện pháp luật về ĐTM của Việt Nam
ĐTM là một quá trình tương đối phức tạp, với nhiều giai đoạn, thủ tục, thời gian thực
hiện tương đối dài. Do đó, pháp luật về ĐTM cũng cần phải mang tính chuyên biệt, cụ
thể, chi tiết hơn.
Thứ nhất, Việt Nam nên có Luật Đánh giá tác động mơi trường - một đạo luật cụ thể
quy định riêng về hoạt động ĐTM để việc thực hiện ĐTM được quản lý chi tiết, chặt chẽ
hơn, các chủ thể của pháp luật ĐTM cũng theo đó mà thuận tiện trong việc tuân thủ, tìm
hiểu các quy định pháp luật hơn. Điểm chung của các quốc gia có hệ thống pháp luật
ĐTM tiến bộ nêu trên đó là các quốc gia này đều cực kỳ coi trọng các cơng trình nghiên
cứu về ĐTM. Việc nghiên cứu ĐTM được thực hiện rất nghiêm túc thu hút nhiều viện,
trường đại học và nhà khoa học tham gia. Việc nghiên cứu là hoạt động được tồn thế
giới ghi nhận và khuyến khích. Bất kỳ một ngành, lĩnh vực nào cũng cần có sự nghiên
cứu chuyên sâu để góp phần phát triển và hồn thiện hơn. Và Việt Nam nên có cơ chế,
chính sách khuyến khích, hỗ trợ các cơng trình khoa học nghiên cứu chun sâu về ĐTM
để thu hút các nhà khoa học tích cực đầu tư, thực hiện nghiên cứu về vấn đề này để góp
phần hồn thiện pháp luật ĐTM của Việt Nam hơn nữa.
Thứ hai, cần tiến hành nghiên cứu tổng thể về thực trạng ĐTM của Việt Nam thông
qua hoạt động rà soát, đánh giá hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật; đánh giá các
điều kiện, nguồn lực thực hiện ĐTM đối với các dự án đầu tư.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng các hướng dẫn kỹ thuật chuyên ngành về ĐTM. Hoàn thiện
hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường và cơ sở dữ liệu về
môi trường để tạo điều kiện thuận lợi cho việc lập và thẩm định, quản lý báo cáo ĐTM.
Thứ tư, cần đẩy mạnh chất lượng tham vấn và tính cơng khai thơng tin hơn nữa. Dựa

vào những thành công trong hoạt động ĐTM mà các quốc gia khác đạt được, có thể thấy
vai trị của sự tham gia đóng góp ý kiến của người dân là rất lớn. Vì vậy, pháp luật Việt
16


Nam cần chú trọng tới vấn đề này hơn, đảm bảo cho người dân được phát huy hết vai trò
của mình, người dân được thể hiện quan điểm, được tiếp nhận thông tin ĐTM một cách
tối đa, thuận lợi nhất.
Thứ năm, cần nâng cao chất lượng trong việc đánh giá tác động môi trường, sàng lọc
và quyết định đầu tư dự án trên quan điểm phát triển kinh tế gắn kết với bảo vệ tài
ngun, mơi trường. Xóa bỏ quan điểm xem ĐTM là một thủ tục hành chính để được cấp
phép hoặc chấp thuận đầu tư, thay vào đó, cần xác định rằng ĐTM là công cụ khoa học kỹ thuật - pháp lý, là một trong những căn cứ quan trọng để đi đến quyết định đầu tư hay
không đầu tư dự án hoặc phải thay đổi phương án khác cho dự án. Pháp luật ĐTM góp
phần nâng cao chất lượng ĐTM khi quy định chặt chẽ về năng lực của các chủ thể lập,
thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM; có sự phân chia thẩm quyền rõ ràng hơn và nâng cao
trách nhiệm của các chủ thể với quyền, nghĩa vụ của mình; đảm bảo sự độc lập giữa các
giai đoạn, giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện ĐTM;…
Thứ sáu, cần chú trọng giai đoạn “giám sát hậu thẩm định”. Có thể thấy, những nước
có hệ thống pháp luật ĐTM hoàn thiện, hiệu quả đều là các nước quy định nghiêm ngặt,
đầy đủ cơ chế kiểm tra, giám sát sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt. Đây là yêu cầu
quan trọng để đảm bảo hoạt động ĐTM phát huy được đúng vai trò của nó nhằm giảm
thiểu tác động xấu của dự án đến mơi trường. Pháp luật ĐTM cần có quy định quản lý
khâu lập, tham vấn, thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM đồng thời cũng phải quy định về
giám sát sự tuân thủ yêu cầu bảo vệ môi trường trong suốt q trình thực hiện dự án.
Cơng tác này khơng chỉ là giám sát chất thải và quan trắc môi trường trong quy định về
cấu trúc và nội dung báo cáo ĐTM hiện hành mà là giám sát, đánh giá việc thực hiện của
chủ dự án/nhà thầu xây dựng đối với từng biện pháp bảo vệ môi trường đã được thẩm
định. Do đó, pháp luật ĐTM của Việt Nam cần chú trọng khâu giám sát hậu thẩm định để
đảm bảo cho ĐTM được thực hiện và phát huy vai trò bảo vệ môi trường, đảm bảo sự
phát triển bền vững của đất nước.

Thứ bảy, xây dựng được cơ sở khoa học và thực tiễn quy định khoảng cách an tồn
về mơi trường đối với khu dân cư của cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ và kho tàng có
nguy cơ gây ơ nhiễm mơi trường góp phần triển khai thực hiện tốt Luật BVMT năm
2020.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh các hoạt động tập huấn, tuyên truyền về các quy định mới
liên quan đến ĐTM trong Luật BVMT năm 2020, Nghị định 08/2022/NĐ-CP, Thông tư
02/2022/TT-BTNMT. Truyền thông nâng cao nhận thức về ĐTM cho các cơ quan hoạch
định chính sách, ra quyết định về chiến lược, quy hoạch, các cơ quan quản lý môi trường
và cộng đồng; tăng cường sự hợp tác của các cơ quan có liên quan đối với công tác ĐTM
và thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng trong quá trình lập báo cáo ĐTM.

17


KẾT LUẬN
Kể từ khi có quy định đầu tiên về ĐTM ở Việt Nam, không thể phủ nhận những cố
gắng và nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện đánh giá tác động mơi
trường. Từ q trình hoàn thiện dần hệ thống văn bản QPPL đến phát triển đội ngũ và
năng lực thực hiện ĐTM đã có những phát triển đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bản thân quy
định luật pháp ĐTM vẫn còn nhiều lỗ hổng và bất cập, chưa ràng buộc được trách nhiệm
pháp lý và yêu cầu tuân thủ chặt chẽ của chủ đầu tư, chính quyền địa phương, cơ quan
quản lý nhà nước chuyên ngành, cá nhân và tổ chức tư vấn ĐTM. Chính vì vậy, việc học
hỏi một số quốc gia có pháp luật ĐTM tiến bộ để áp dụng cho phù hợp là một điều cần
thiết. Từ đó mở rộng, thiết lập quan hệ hợp tác và tăng cường năng lực cho Viện trong
các lĩnh vực môi trường.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
Chu Mạnh Hùng (2010), Sự ra đời của việc đánh giá tác động môi trường ở một
số quốc gia, Con đường xanh số t2/2010. [ />2.
Khánh Phương, Công tác đánh giá tác động môi trường tại một số quốc gia phát
triển, đăng ngày 25/4/2017, trang chủ báo điện tử của Bộ Xây dựng.
[ />3.
Mai Thế Toản, Đánh giá môi trường chiến lược ở Việt Nam, trang điện tử Mơi
trường CMS. [ />4.
PGS. TS Lê Trình , Một số vấn đề trong nghiên cứu Đánh giá môi trường chiến
lược, Đánh giá tác động môi trường ở các quốc gia Đơng Bắc Á và khuyến nghị, trang
chủ
Viện
Khoa
học
Mơi
trường

Phát
triển
(VESDEC).
[ />5.
Thảo luận chính sách “Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam: Từ pháp luật
đến thực tiễn”, Hà Nội, 2009. [ />6.
Tình hình thực tế áp dụng các quy định pháp luật về đánh giá tác động môi trường
ở Việt Nam, đăng ngày 28/6/2016, trang chủ Học viện nghiên cứu Luật.
[ />7.
Trường đại học Nông lâm – Đại học Thái Nguyên, Giáo trình Đánh giá tác động
môi trường, Nxb. Nông nghiệp, 2013.
8.
TS. Nguyễn Thị Ngọc, Quản lý Nhà nước về môi trường ở Nhật Bản và những gợi

ý cho Việt Nam, đăng ngày 14/3/2012, trang chủ Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt
Nam,
[ />9.
Võ Trung Tín, Những điểm mới của Luật Bảo vệ mơi trường 2020, đăng ngày
11/8/2021, trang chủ Le & Tran Trial Lawyers. [ />10.
Châu Long, Hoàn thiện quy định pháp luật về đánh giá tác động môi trường đối
với hoạt động đầu tư phát triển, Tạp chí Mơi trường và đơ thị điện tử, đăng ngày
10/10/2022, />

gia-tac-dong-moi-truong-doi-voi-hoat-dong-dau-tu-phat-trien-a112655.html?
fbclid=IwAR0Ze8PMShQBEVo71wWIsK0ss8t79wN4gPmYh7pzy-Itdy5RrxVpn7cr6lU

20



×