BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
---ĐỀ TÀI KIỂM TRA
MƠN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
LÝ LUẬN KẾT HỢP CÁC MẶT ĐỐI LẬP VÀ VẬN DỤNG
VÀO VIỆC GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN NẢY SINH
GV:
TS.Trần Nguyên Ký
SVTH : Lê Nhật Quyên
Lớp:
DH46MRC02
MSSV: 31201025783
Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 4 năm 2021
1
2
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy TS.Trần
Nguyên Ký -giảng viên môn Triết học Mác-Lênin của lớp MRC02. Cảm ơn UEH
đã giúp em có cơ hội được học tập bởi một giảng viên tâm huyết và yêu nghề như
thầy. Trong quá trình học tập và tìm hiểu bộ mơn này, em đã nhận được sự quan
tâm, giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của thầy và được thầy truyền cảm hứng rất nhiều
qua từng bài giảng. Qua từng buổi học, thầy đã giúp em tích lũy thêm nhiều kiến
thức và có cái nhìn đa chiều hơn về mơn học này cũng như có cái nhìn sâu sắc và
hồn thiện hơn trong cuộc sống. Từ những kiến thức quý báu và sâu rộng mà thầy
truyền đạt, em đã dần trả lời được những câu hỏi của cuộc sống theo quan niệm
Triết Học Mác – Lênin . Thông qua bài tập này, em xin trình bày phần trả lời cho
câu hỏi: “ Bạn hiểu thế nào về kết hợp các mặt đối lập. Vận dụng lý luận này vào
việc giải quyết mâu thuẫn nảy sinh” gửi đến thầy. Có lẽ kiến thức là vơ hạn mà sự
tiếp nhận kiến thức của mỗi con người là hữu hạn, luôn tồn tại những hạn chế nhất
định. Do đó, trong q trình làm bài tập này có lẽ em sẽ khó tránh khỏi sự thiếu sót.
Bản thân em rất mong được nhận những góp ý từ thầy để bài tập của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Nguyên Ký và cuốn sách: “SỰ KẾT
HỢP CÁC MẶT ĐỐI LẬP TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY”. Đây là nguồn tài liệu tham khảo vô cùng
quý giá, là tiền đề để em hoàn thành được bài tập và có cái nhìn rõ nét hơn về sự
thống nhất của các mặt đối lập nói riêng và về mơn Triết học nói chung. Đây là
cuốn sách có giá trị sâu sắc, nhân văn về mọi mặt và chứa đựng trong đó những ý
nghĩa thực tiễn lớn lao. Và nó có được như vậy là nhờ sự tài giỏi và tâm huyết của
tác giả Trần Nguyên Ký.
Cuối lời, em xin kính chúc thầy ln nhiều sức khỏe, hạnh phúc, thành công
trong cuộc sống và sự nghiệp giảng dạy.
3
PHẦN MỞ ĐẦU
Mâu thuẫn là điều tất yếu trong đời sống của chúng ta. Ta có thể bắt gặp
những mâu thuẫn trong mọi khía cạnh của cuộc sống: tự nhiên, xã hội và tư duy
con người. Trong lĩnh vực kinh tế, mâu thuẫn được thể hiện như giữa cung và cầu,
thu nhập và chi tiêu hoặc là trong cuộc sống hằng ngày như giữa yêu và ghét, vui
và buồn…Mâu thuẫn mãi trường tồn theo thời gian tồn tại của sự vật.
Qua nghiên cứu lý luận về mâu thuẫn biện chứng trong triết học cho thấy:
Muốn phát hiện bản chất của mọi sự vận động và phát triển thì cần phải phân tích
được mâu thuẫn vốn có của sự vật. Từ đó, giải quyết mâu thuẫn chính là giải quyết
vấn đề động lực của sự phát triển, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời
thay thế. Điều đó đã được V.I.Lenin khẳng định rằng: “Sự phát triển là một cuộc
đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Chính vì vậy, việc nắm được sự kết hợp giữa các
mặt đối lập để vận dụng vào cuộc sống đời thường, giải quyết các mâu thuẫn nảy
sinh rất quan trọng.
Quy luật mâu thuẫn là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật
và là “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật vì nó vạch ra nguồn gốc động lực của
sự vận động phát triển của thế giới khách quan và nó là chìa khóa, là cơ sở giúp
chúng ta nắm vững tính chất của tất cả các quy luật và phạm trù phép biện chứng
duy vật.
4
PHẦN NỘI DUNG
I. Nội dung về sự kết hợp các mặt đối lập
1. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
a. Định nghĩa về mặt đối lập
- Theo từ điển Bách Khoa triết học cho rằng: “Đối lập là một trong hai nhân tố
“đang đấu tranh với nhau” của một hệ thống nhất cụ thể, chúng là những mặt của
một mâu thuẫn”.
- Giáo trình Triết học Mác Lênin viết: “ Khi nói tới những nhân tố cấu thành
mâu thuẫn biện chứng, “mặt đối lập” là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những
đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái
ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Chính
những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu
thuẫn biện chứng.”
b. “Mặt đối lập” là những gì?
Trong lịch sử triết học đã có nhiều nhà triết học đề cập tới mâu thuẫn của các
sự vật, của thế giới như:
- Thuyết Âm dương - Ngũ hành của Trung Hoa đã đề cập tới các mâu thuẫn Âm
Dương, mâu thuẫn giữa các yếu tố bản nguyên Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ.
- Nhà triết học Hy Lạp cổ đại là Hêraclit cũng nhấn mạnh mâu thuẫn của các
hiện tượng, quá trình khách quan.
- Nhà triết học cổ Đức là Ikant cũng đề cập tới Antinômi (ông đã nêu ra 4 loại
Antimoni)
- Hêghen cũng đã đề cập tới mâu thuẫn của tư duy.
5
Về cơ bản các quan niệm đều đã mô tả mâu thuẫn khách quan nhưng chưa làm
rõ được sự chuyển hóa biện chứng của các mặt đối lập, do vậy khái niệm mâu
thuẫn cịn nặng về hình thức mà chưa đi sâu vào nội dung biện chứng của các mặt
đối lập.
Đến triết học Mác-Lênin quan niệm về mâu thuẫn mới thể hiện rõ nội dung
biện chứng.“Mặt đối lập” khi thì được xác định như là những thuộc tính, khuynh
hướng vận động trái ngược nhau( ví dụ: lương thiện và độc ác, bóc lột và bị bóc
lột); khi thì được xem như là những mặt trong đó có những thuộc tính, những
khuynh hướng đối lập( ví dụ: mặt phải và mặt trái trong kinh tế thị trường); có khi
cịn được xem như là những yếu tố, bộ phận nằm trong một sự vật, hiện tượng hay
trong các sự vật, hiện tượng khác nhau( giai cấp vô sản và giai cấp tư sản); thậm
chí có khi bản thân các sự vật, hiện tượng, hệ thống cũng được xem là những mặt
đối lập (ví dụ hệ thống xã hội chủ nghĩa và hệ thống tư bản chủ nghĩa).
Trong nhiều trường hợp, các mặt đối lập là những thuộc tính vừa bài trừ lẫn
nhau, vừa gắn bó tồn tại, xâm nhập lẫn nhau trong một sự vật. Chẳng hạn, hai thuộc
tính giá trị và giá trị sử dụng tồn tại trong một hàng hóa; cái đúng và cái sai, cái tốt
và cái xấu, cái thiện và cái ác,v.v… có thể tồn tại và đấu tranh với nhau trong cùng
một con người. Trong trường hợp này, mặt đối lập chỉ có thể hiểu là những thuộc
tính, khuynh hướng đối lập, chứ khơng phải là những bộ phận hay sự vật đối lập.
Ngoài ra, những yếu tố, bộ phận, sự vật, quá trình, hệ thống,v.v.. đều có thể
được xem là những mặt đối lập.Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa thì bản chất của sự đối
lập bao giờ cũng được quy định bởi những thuộc tính và khuynh hướng đối lập.
Hai thuộc tính chỉ được xem là hai mặt đối lập khi chúng có sự tác động ngược
chiều nhau: bài trừ, gạt bỏ, chống đối lẫn nhau; điều đó có nghĩa là chúng được xét
trong quan hệ tác động lẫn nhau.
6
Khi xem xét mặt đối lập là những bộ phận, những sự vật, những hệ thống, có
một số điều cần lưu ý:
+ Một là, tất cả những đối lập dù đó là đối lập giữa những bộ phận giữa những sự
vật hay giữa những hệ thống v.v... đều xuất phát từ sự đối lập giữa những thuộc tính
nhất định. Bản chất của một mâu thuẫn được quy định bởi sự đối lập của những
thuộc tính tất nhiên, cơ bản ở các mặt hợp thành mâu thuẫn ấy. Ví dụ, sự đối lập
giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là sự đối lập giữa các thuộc tính: chiếm hữu
tư liệu sản xuất và khơng có tư liệu sản xuất, làm chủ và làm thuế, bóc lột và bị bóc
lột, áp bức và bị áp bức, thống trị và bị thống trị. Sự đối lập giữa hai hệ thống xã
hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trước đây là sự đối lập giữa các thuộc tính: xã
hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa,v.v… Tất nhiên những thuộc tính này sở dĩ đối
lập nhau vì chúng gắn liền với những khuynh hướng vận động trái ngược nhau, bài
trừ nhau, chống đối nhau.
+ Hai là, khơng phải tồn bộ, mà chỉ có một số thuộc tính trong các bộ phận, sự
vật, hệ thống đó đối lập với nhau. Ví dụ, khi nói tới mâu thuẫn giữa hai giai cấp
hay hai nhà nước khơng có nghĩa là tất cả những gì trong hai giai cấp hay hai nhà
nước đó đều đối lập với nhau.
+ Ba là, sự đối lập giữa hai bộ phận, hai sự vật, hai hệ thống có thể là sự đối lập
giữa các thuộc tính cơ bản, cũng có thể là sự đối lập giữa các thuộc tính khơng cơ
bản. Chẳng hạn, người ta căn cứ vào sự đối lập giữa lợi ích cơ bản hay khơng cơ
bản của các giai cấp, các lực lượng xã hội để xác định mâu thuẫn đối kháng.
+ Bốn là, đối lập giữa hai bộ phận, hai sự vật, hai hệ thống có thể là sự đối lập
giữa các thuộc tính tất nhiên, cũng có thể là sự đối lập giữa một số dấu hiệu không
tất nhiên. Nhiều khi một mâu thuẫn nhất định có thể vừa có khía cạnh tất yếu, vừa
có khía cạnh khơng tất yếu.
2. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập
7
Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát những
thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau tồn tại trong cùng một sự vật
hiện tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó. Trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật
hiện tượng cá thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập. Chỉ có những mặt đối lập là tồn tại
thống nhất trong cùng một sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát
triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hóa lẫn nhau gọi là hai mặt đối
lập mâu thuẫn “thống nhất”. Hai mặt đối lập được hiểu với ý nghĩa không phải
chung đứng cạnh nhau mà nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng như
liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập
kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt
đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định khơng có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy
sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại
của bất kỳ sự vật nào.
- Thứ nhất, đó phải là một khái niệm chung nhất được khái quát từ các mặt
phù hợp khác nhau phản ánh được bản chất của sự phù hợp của lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất.
- Thứ hai, đó phải là một khái niệm “động” phản ánh được trạng thái biến đổi
thường xuyên của sự vận động, phát triển trong quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất.
- Thứ ba, đó phải là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Ngồi ý nghĩa nhận
thức, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất được coi
là thỏa đáng phải có tác dụng định hướng, chỉ dẫn cho việc xây dựng quan hệ sản
xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao nhất với lực lượng
sản xuất.
Tuy nhiên, khái niệm thống nhất này chỉ mang tính tương đối, bản thân nội
dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối của nó; Thống nhất của cái đối
lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự đối lập.
8
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật khơng tách rời sự đấu
tranh chuyển hóa giữa chúng. Tính thống nhất của các mặt đối lập là các mặt đối
lập khẳng định nhau, nương tựa vào nhau, thâm nhập lẫn nhau, tồn tại không tách
rời nhau (mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại
của mình); là các mặt đối lập đồng nhất nhau, tức trong chúng chứa những yếu tố
giống nhau và cho phép chúng đồng tồn tại trong sự vật; là các mặt đối lập tác động
ngang nhau, tức sự thay đổi trong mặt đối lập này tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi
trong mặt đối lập kia và ngược lại.
3.Sự đấu tranh giữa các măt đối lập
Đấu tranh giữa các mặt đối lập dù tồn tại trong sự thống nhất, song các mặt
đối lập luôn đấu tranh với nhau, tức chúng luôn tác động qua lại theo xu hướng phủ
định, bài trừ hay loại bỏ lẫn nhau. Hình thức và mức độ đấu tranh của các mặt đối
lập rất đa dạng trong đó thủ tiêu lẫn nhau là một hình thức đấu tranh đặc biệt của
các mặt đối lập.
4.Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật- Ngun tắc phân tích mâu thuẫn (phân
đơi cái thống nhất)
Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đúng sự vật, thấy được nguồn gốc vận
động, phát triển (tức mâu thuẫn) của nó:
- Phân đơi sự vật thành các cặp mặt đối lập, khảo sát sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập để phát hiện ra các mâu thuẫn biện chứng đang chi phối sự vật
đó.
- Phân loại và xác định đúng vai trò, giai đoạn tồn tại của từng mâu thuẫn biện
chứng( đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn bên trong,…)
đang chi phối vận động, phát triển của bản thân sự vật.
9
- Phân tích kết cấu và điều kiện tồn tại của sự vật để xác định đúng quy mô và
phương thức giải quyết của từ mâu thuẫn biện chứng, dự đoán cái mới ra đời sẽ vận
động dưới sự tác động của những mâu thuẫn biện chứng nào.
Trong hoạt động thực tiễn, để đạt được hiệu quả phải:
- Hiểu rõ nguồn gốc, động lực thúc đẩy sự vận động, phát triển của bản thân sự
vật là những mâu thuẫn biện chứng; xác định đúng những mâu thuẫn biện chứng
đang chi phối sự vật để từ đó xây dựng các đối sách thích hợp.
-Tìm hiểu và sử dụng nhiều cơng cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp( mà trước
hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để can thiệp đúng lúc, đúng
chỗ ,đúng mức độ và tiến trình vận động, phát triển của bản thân sự vật để chèo lái
nó theo đúng quy luật và hợp lợi ích của chúng ta:
+ Muốn sự vật thay đổi nhanh phải đẩy mạnh sự tác động( đấu tranh) của các mặt
đối lập và tạo điều kiện thuận lợi để chúng nhanh chóng chuyển hóa lẫn nhau, để
mâu thuẫn biện chứng sớm được giải quyết; ngược lại, muốn duy trì sự ổn định của
sự vật phải dung hòa sự xung đột của các mặt đối lập trong phạm vi cho phép;
+ Khi điều kiện đã hội đủ và mâu thuẫn biện chứng đã chín muồi, phải cương quyết
giải quyết nó, mà khơng nên chần chừ, do dự hay thỏa hiệp, tức phải giải quyết
mâu thuẫn đúng lúc, đúng chỗ và đúng mức độ…
5.Kết hợp biện chứng giữa các mặt đối lập
- Theo tư tưởng của Mác- Lênin về sự kết hợp giữa các mặt đối lập của sự vật
được tác giả Trần Nguyên Ký phân tích rất sâu sắc trong cuốn: “Sự kết hợp các măt
đối lập trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” như sau
:mâu thuẫn của sự vật, biểu hiện ở cuộc đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối
lập, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển sự vật đó. Trong tư tưởng biện chứng
của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin về mâu thuẫn, khi quan niệm nguồn gốc của
mọi sự vạn động, phát triển của sự vật khách quan đều bắt nguồn từ mâu thuẫn bên
10
trong, các ông luôn chú trọng giải quyết những vấn đề liên quan đến mâu thuẫn, đó
là vấn đề thống nhất, vấn đề đấu tranh và các vấn đề kết hợp các mặt đối lập. Trong
đó vấn đề kết hợp các mặt đối lập được các ông xem xét với tính cách là một biểu
hiện hoạt động của chủ thể con người trong việc giải quyết một số mâu thuẫn xã
hội cụ thể nhất định, trên cơ sở nhận thức sự đấu tranh và thống nhất giữa các mặt
đối lập trong mâu thuẫn này.
- Khi đề cập tới vấn đề thống nhất giữa các mặt đối lập trong một mâu thuẫn
biện chứng cần tiếp cận từ ba cấp độ:
+ Thứ nhất, xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ bản thể luận,
tức sự thống nhất khách quan vốn có của chúng. Ở góc độ này, mâu thuẫn của sự
vật được biểu hiện ra với tư cách của một hệ thống nhất hồn chỉnh. Đương nhiên,
đó khơng phải là sự thống nhất có tính tuyệt đối, mà trái lại, là một sự thống nhất
tương đối, thống nhất trong sự khác biệt, kể cả sự đối lập.
+ Thứ hai, xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ nhận thức luận.
Ở góc độ này, sự thống nhất giữa các mặt đối lập được xem xét như đối tượng nhận
thức của con người. Nhiệm vụ của chủ thể ở đây là phải phát hiện, vạch ra những
mặt đối lập đang tồn tại, ẩn nấu bên dưới cái vỏ thống nhất hoàn chỉnh. Điều này rõ
ràng là một công việc không đơn giản, không chỉ tùy thuộc vào nhân tố chủ quan
vào chủ thể mà cịn phụ thuộc vào chính bản thân mâu thuẫn. Bởi vì, mâu thuẫn
khơng tự bộc lộ ra mà nó tồn tại bên trong cái “vỏ bọc” thống nhất với những hình
thức cụ thể của nó.
+ Thứ ba, xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ thực tiễn. Ở góc
độ này, trên cơ sở nhận thức sự thống nhất( và đương nhiên bao hàm cả sự đấu
tranh) giữa các mặt đối lập giữa một mâu thuẫn nhất định, chủ thể có thể thực hiện
việc kết hợp các mặt đối lập từ đó tạo điều kiện giải quyết mâu thuẫn được tốt. Dĩ
nhiên,vì đây là biểu hiện hoạt động của chủ thể cho nên việc kết hợp các mặt lúc
nào cũng xuất phát từ nhu cầu lợi ích của chủ thể. Có thể khẳng định sự kết hợp các
mặt đối lập phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan, tính tất
11
yếu khách quan với nhân tố chủ quan. Một mặt, con người với tư cách chủ thể tiến
hành hoạt động kết hợp các mặt đối lập nhằm giải quyết một mâu thuẫn xã hội cụ
thể theo hướng có lợi cho bản thân, đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của bản thân;
song mặt khác, không phải là hoạt động chủ quan tùy tiện, mà phải trên cơ sở nhận
thức đúng và tuân theo những yêu cầu khách quan, cũng như những điều kiện
khách quan của việc giải quyết mâu thuẫn đó.
- Việc kết hợp các mặt đối lập trong lĩnh vực xã hội không phải là hành động
được tiến hành với bất kì yếu tố, mặt đối lập nào, trong bất kỳ điều kiện nào. Càng
không nên hiểu việc kết hợp này là một hoạt động mang tính chủ quan thuần túy,
thậm chí là tùy tiện vơ ngun tắc của chủ thể hành động. Việc kết hợp các mặt đối
lập ở đây, với tư cách là một hoạt động tích cực của hoạt động chủ quan, phải được
dựa trên cơ sở khách quan cụ thể, đó là những địi hỏi tất yếu của việc kết hợp và ở
cả những điều kiện khách quan cho phép để tiến hành việc kết hợp này. Đồng thời
việc kết hợp các mặt đối lập trong đời sống xã hội cũng phải thể hiện được tính
định hướng rõ ràng. Cụ thể là việc kết hợp này phải làm sao cho quá trình vừa
thống nhất, vừa đấu tranh giữa các mặt đối lập trong một chỉnh thể mâu thuẫn xã
hội cụ thể, mặt đối mặt đại diện cho sự tiến bộ sẽ dần dần chiến thắng được mặt đối
lập đại diện cho sự lạc hậu. Có như vậy, việc giải quyết mâu thuẫn xã hội mới đem
lại động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, phù hợp với quy luật khách quan của
xã hội.
- Sở dĩ như vậy là vì trong thực tế xã hội, không giống như ở dưới tự nhiên,
những mâu thuẫn xã hội thường được biểu hiện thông qua thái độ, nguyện vọng của
các lực lượng xã hội. Các mặt đối lập trong chỉnh thể mâu thuẫn xã hội thường biểu
hiện qua là một mặt đại diện cho cái cũ, là lực cản sự phát triển xã hội, còn mặt kia
đại diện cho cái mới, cái thúc đẩy xã hội phát triển. Trong sự phát triển xã hội, cái
mới và cái cũ khơng tách rời nhau mà gắn bó với nhau, đan xen nhau, vừa thống
nhất, vừa đấu tranh với nhau. Vai trò của cái mới đối với sự phát triển xã hội chỉ
được phát huy trên cơ sở phủ định biện chứng, biết kế thừa cái cũ. Bởi vì, bản thân
12
cái cũ, dù là nhân tố, về căn bản, kìm hãm sự phát triển, song khơng vì thế mà
khơng cịn chứa đựng những yếu tố có thể góp phần vào sự phát triển xã hội. Do
đó, việc kết hợp các mặt đối lập- giữa cái cũ và cái mới- với tính cách là một hoạt
động tích cực chủ quan nhằm giải quyết mâu thuẫn xã hội hội khách quan không
thể không tiến hành và hơn nữa, không thể tiến hành một cách tùy tiện, vô nguyên
tắc, không thu tuân theo quy luật khách quan.
- Có thể nói, lý luận Mác Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan hoàn toàn xa lạ với quan điểm tả khuynh, nóng
vội, chủ quan, duy ý chí cũng như sự bảo thủ, trì trệ, thụ động trong hoạt động thực
tiễn. Ở đây, hoạt động con người là nguồn gốc của sự phát triển. Bởi sự sang tạo
trong lao động, phát huy tinh thần học hỏi, đổi mới đã dẫn đến sự phát triển.
II. Sự vận dụng của Lê-nin về chính sách kinh tế mới (NEP)
1.Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã khai sinh ra chế độ xã hội chủ nghĩa
đầu tiên và mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
(CNXH). V.I.Lê-nin đã nhận định về ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười
Nga 1917:... “Chúng ta có quyền tự hào và quả thật chúng ta tự hào là đã có cái
hân hạnh được bắt đầu việc xây dựng nhà nước Xơ-viết và do đó, mở đầu một thời
đại mới trong lịch sử thế giới…”.
Sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước Nga giai đoạn này diễn ra trong bối cảnh
hết sức đặc biệt. Về bối cảnh chính trị, chính quyền Xơ-viết trong những tháng năm
đầu tiên, giữa vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, phải liên tục đương đầu với những
vụ nổi loạn, can thiệp của “thù trong, giặc ngồi”. Thêm vào đó, với những kinh
nghiệm chính trị, cầm quyền cịn ít ỏi, giai cấp cơng nhân và hệ thống chính trị Xơviết gặp rất nhiều khó khăn trong tổ chức và xây dựng chế độ mới. Chỉ trong một
thời gian ngắn, V.I.Lê-nin đã nhận ra sự khác biệt căn bản là “giành chính quyền đã
khó nhưng xây dựng chính quyền cịn khó hơn nhiều”
13
Về bối cảnh kinh tế, nước Nga Xô-viết bắt tay vào xây dựng CNXH từ những
tiền đề kinh tế thấp kém: Chủ nghĩa tư bản (CNTB) ở Nga mới phát triển ở giai
đoạn đầu, trình độ sản xuất phổ biến của đất nước là tiểu nơng, nhiều tàn tích của
chế độ phong kiến nông nô, chế độ chuyên chế chưa được xóa bỏ; nền kinh tế kiệt
quệ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất; chế độ mới lại bị CNTB bao vây kinh tế, cấm
vận… Thêm vào đó, năng lực tổ chức quản lý cịn yếu kém của chính quyền Xôviết, “bệnh ấu trĩ tả khuynh” trong cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới cũng
khiến cho bối cảnh kinh tế của nước Nga Xô-viết những năm đầu tiên gặp nhiều
khó khăn.
Bối cảnh nước Nga khi bắt tay vào xây dựng CNXH có nhiều nét đặc thù so với
lý luận chung của chủ nghĩa Mác về xây dựng CNXH. C.Mác quan niệm rằng,
những tiền đề vật chất do CNTB phát triển ở trình độ cao làm chín muồi nguyên
nhân kinh tế cơ bản của các cuộc cách mạng XHCN; tình thế để cách mạng thắng
lợi là nó phải nổ ra đồng loạt cùng lúc ở nhiều nước, chí ít là những nước tư bản
phát triển cao như Anh, Mỹ, Pháp, Đức… Nhìn chung, bối cảnh và đặc điểm kinh
tế xã hội của Nga đương thời cần rất nhiều đến sự sáng tạo khi vận dụng lý luận
của C.Mác về cách mạng XHCN. V.I. Lê-nin chính là con người mà lịch sử cần đến
và đã tạo ra trong sự nghiệp xây dựng CNXH hiện thực đầu tiên của nhân loại.
2. Xây dựng CNXH hiện thực là một công trình kỳ vĩ liên quan đến rất nhiều lĩnh
vực, cả về nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn. Ở đây, chỉ tập trung vào hai
điểm cơ bản nhất mà V.I. Lê-nin đã có nhiều đóng góp, phát triển lý luận. Đó là
quan niệm về CNXH (mơ hình CNXH) và biện pháp để xây dựng CNXH (con
đường đi lên CNXH) từ thực tiễn nước Nga.
Thứ nhất, từ mơ hình “Chính sách cộng sản thời chiến” đến mơ hình “Chính
sách kinh tế mới”. Những năm đầu của Cách mạng Tháng Mười, trong tình cảnh
nội chiến chống thù trong, giặc ngồi, bảo vệ chính quyền Xơ-viết là mục tiêu hàng
14
đầu. Chính sách “cộng sản thời chiến” đã được áp dụng để đáp ứng những yêu cầu
cấp bách ấy. Chính sách “cộng sản thời chiến” (1918-1921) thực chất là một biện
pháp tình thế, thích ứng với trạng thái ngặt nghèo của nhà nước Xô-viết non trẻ. Để
huy động các nguồn lực cho những nhu cầu cấp thiết, các biện pháp mệnh lệnh
hành chính thiên về việc sử dụng quyền lực nhà nước đã được ban bố và thực hiện.
Mục đích là để trưng thu, tịch thu lương thực, thực phẩm và các tư liệu sản xuất
nhằm phục vụ cho nhu cầu quốc phòng và dân sinh.
Mặt khác, trong ý tưởng của V.I. Lê-nin, cũng đã khởi phát tư duy rằng có thể
ngay lập tức thực hiện những hình thức cộng sản chủ nghĩa vào giai đoạn đầu của
Cách mạng Tháng Mười. Người muốn ngay tức khắc xóa bỏ thị trường, phân phối
theo sản phẩm, trao đổi bằng hiện vật giữa thành thị và nơng thơn và biến tồn bộ
xã hội thành một guồng máy kế hoạch hóa duy nhất. Về xây dựng dân chủ, V.I. Lênin cũng đã có ý tưởng phát triển dân chủ rộng rãi, trực tiếp và ở trình độ cao, làm
cho quần chúng vừa trở thành là người lập pháp vừa là người hành pháp.
Mặt hợp lý và hạn chế của mơ hình đó đã bộc lộ trong một thời gian ngắn.
Nhiều nguồn lực cho nhu cầu quốc phòng và dân sinh cấp thiết đã được huy động,
qua đó giúp củng cố và phát triển sức mạnh của chính quyền Xơ-viết. Song mặt
khác, nhiều hạn chế, bất cập cũng đã bộc lộ: phương pháp mệnh lệnh hành chính, ý
chí chủ quan muốn xây dựng ngay CNXH đã không được thực tế chấp nhận. Việc
chưa quan tâm đến lợi ích chính đáng của cả “một biển người tiểu nơng đang mong
đợi lợi ích thường nhật sau cách mạng” đã làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội bức
xúc. Cái hợp lý ban đầu và chỉ đúng trong một thời điểm nay đã trở thành khuyết
điểm khi nó bị kéo dài quá mức. V.I. Lê-nin nhận định: ...“chúng ta đã phạm một
sai lầm đã quyết định chuyển ngay sang việc sản xuất và phân phối cộng sản chủ
nghĩa... cách làm như vậy là sai”.
15
Chính sách cộng sản thời chiến, có thể xem như thử nghiệm đầu tiên về một
mơ hình CNXH, đã làm trọn vai trị của nó và tất yếu sẽ phải thay đổi.Tháng 3 năm
1921, Đại hội lần thứ X Đảng Cộng sản Nga, do V.I. Lê-nin lãnh đạo đã chuyển từ
“Chính sách cộng sản thời chiến” sang “Chính sách kinh tế mới” viết tắt là NEP.
Nó đã được thực hiện trong quãng thời gian từ 1921-1927. Cần hiểu rằng NEP
không chỉ là một chính sách mới để quản lý vĩ mơ về kinh tế mà cịn là một cải
cách có tính tổng thể về mơ hình chủ nghĩa xã hội, gồm nhiều nội dung.
Trước hết, chúng ta thấy sự điều chỉnh quan niệm về CNXH, rằng “danh từ
nước Cộng hòa Xơ-viết xã hội chủ nghĩa có nghĩa là Chính quyền Xô-viết quyết
tâm thực hiện bước chuyển lên chủ nghĩa xã hội, chứ hồn tồn khơng có nghĩa là
đã thừa nhận chế độ kinh tế mới là chế độ xã hội chủ nghĩa”. V.I. Lê-nin và Đảng
Cộng sản Liên Xô đã có điều chỉnh lớn về mơ hình xây dựng chủ nghĩa xã
hội: ...“chúng ta buộc phải thừa nhận là toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ
nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản…” ở chỗ, “chuyển trọng tâm của cách mạng
vào phát triển kinh tế và văn hóa”.
Việc nhận thức lại cho rõ về thời kỳ quá độ, cấu trúc của các thành phần kinh
tế của nước Nga đương thời cũng là một bước tiến của tư duy về CNXH ở nước
Nga. Theo V.I. Lê-nin, nước Nga - một nước kinh tế còn lạc hậu, tất yếu phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài, trong đó nền kinh tế có “sự đan xen”, “những mảnh
của CNXH” với “những mảnh của CNTB”. Trạng thái ấy làm cho các yếu tố của
CNXH và các yếu tố của CNTB vừa đấu tranh, cạnh tranh với nhau, vừa nương
tựa, thâm nhập vào nhau. Mối quan hệ chủ đạo giữa “các mảnh” hay các thành
phần kinh tế đó, là quan hệ giữa sản xuất, trao đổi, lưu thông trên cơ sở của trao đổi
hàng hóa theo nguyên tắc thị trường…
V.I. Lê-nin nêu rõ các thành phần kinh tế ở nước Nga lúc đó là:
“1) Kinh tế nơng dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên;
16
2) Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nơng dân bán lúa mì);
3) Chủ nghĩa tư bản tư nhân;
4) Chủ nghĩa tư bản nhà nước;
5) Chủ nghĩa xã hội.”.
Như vậy, nếu như ở mơ hình trước kia, chỉ có một thành phần kinh tế nhà nước,
chỉ có sự trao đổi bằng hiện vật giữa thành thị và nơng thơn, thì đến NEP, đã có sự
đổi mới tư duy về kinh tế: phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo
đặc tính sở hữu của chúng và là bộ phận cấu thành của mô hình này.
Việc “chuyển trọng tâm cách mạng vào lĩnh vực phát triển văn hóa” là bước
một bước tiến có ý thức và có tính chất hiện thực để đi tới CNXH. V.I. Lê-nin nhấn
mạnh, những người cộng sản phải học khoa học và công nghệ, cách tổ chức lãnh
đạo, quản lý xã hội, giáo dục và đào tạo, cách làm ăn bn bán… phải biết tiếp thu
tất cả những gì quý giá nhất của nhân loại. Chủ nghĩa xã hội có thể thực hiện được
hay khơng là “tùy ở kết quả của chúng ta có kết hợp được chính quyền Xô-viết với
những tiến bộ mới nhất của chủ nghĩa tư bản”.
V.I. Lê-nin chủ trương: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt đẹp của nước
ngồi: Chính quyền Xơ-viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức
các tơrớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc.etc.++=Σ = chủ nghĩa xã hội”.
Đó là một tư duy khoa học. Đến đây, sự phát triển của CNXH ở nước Nga vừa có
tính độc lập lại vừa là một bộ phận gắn bó biện chứng, kế thừa và đóng góp vào
q trình phát triển văn minh của nhân loại.
Thứ hai, Chính sách kinh tế mới và các biện pháp xây dựng Chủ nghĩa xã
hội. V.I. Lê-nin cho rằng, để xây dựng CNXH ở nước Nga Xô-viết, cần tập trung
vào các biện pháp khẳng định tính thiết yếu của việc thực hiện các hình thức “quá
độ gián tiếp”, những “biện pháp trung gian”, “quá độ đặc biệt” của Chính sách kinh
tế mới. Cụ thể:
17
(I) Cần phải phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đối với một nước tiểu
nông trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Những bất hợp lý của Chính sách “cộng sản
thời chiến” bị bãi bỏ, chế độ “trưng thu lương thực thừa” được thay bằng thuế
lương thực với tư cách là khâu đầu tiên, là “liệu pháp cấp tốc, cương quyết nhất,
cấp thiết nhất” để phát triển lực lượng sản xuất nông nghiệp. Thực hiện chế độ
thuế, tự do bn bán, trao đổi hàng hóa, sử dụng quan hệ hàng - tiền trong xây
dựng CNXH là “đòn xeo” chủ yếu để phát triển kinh tế, là hình thức cơ bản của các
mối liên hệ kinh tế giữa cơng nghiệp với nền nơng nghiệp hàng hóa, giữa thành thị
với nông thôn.
(II) Phát triển “chủ nghĩa tư bản nhà nước” - mắt xích “trung gian quan trọng để
xây dựng chủ nghĩa xã hội”. V.I. Lê-nin đặt câu hỏi: ...“liệu có thể kết hợp, liên
hợp, phối hợp Nhà nước Xơ-viết, nền chun chính vơ sản, với chủ nghĩa tư bản
nhà nước được không? Tất nhiên là được” . Người cho rằng, việc tìm cách ngăn
cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của trao đổi tư nhân, của CNTB - một sự
phát triển khơng thể tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ, “chính sách
ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó”. Từ đó, Người
chủ trương: ...“chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng
nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền
tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp,
phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”.
(III) Phải học tập và sử dụng những giá trị của chủ nghĩa tư bản; kiên quyết phản
đối việc “đem chủ nghĩa tư bản đối lập một cách trừu tượng với chủ nghĩa xã hội”.
Theo V.I. Lê-nin: “lùi một bước” và “thỏa hiệp” bằng việc thu phục và trả lương
cao cho chuyên gia tư sản là giải pháp tốt nhất xúc tiến CNXH. Người cho rằng,
khơng có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và
có kinh nghiệm tổ chức quản lý, thì không thể nào chuyển lên CNXH được.
18
(IV) Củng cố chính quyền Xơ-viết, tăng cường vai trị của quản lý, kết hợp chặt
chẽ hành chính, tổ chức và kinh tế là biện pháp tốt nhất để xây dựng chủ nghĩa xã
hội. “Cần thực hiện ở khắp mọi nơi và hết sức nghiêm ngặt sự kiểm kê và kiểm
soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm” của nhà nước đối với đời sống kinh tế xã hội, trên cơ sở liên minh kinh tế để tăng cường củng cố liên minh cơng nơng về
chính trị.
Những quan niệm mới mẻ và đúng đắn về CNXH từ NEP đã được cuộc sống
chấp nhận. Đó là phát triển kinh tế hàng hóa, áp dụng cơ chế và quy luật thị trường,
tạo ra những địn bẩy kinh tế để giải phóng lực lượng sản xuất, kích thích sản xuất
và tính tích cực của người lao động thơng qua lợi ích. Ra sức vận dụng những
thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ, kinh nghiệm quản lý của CNTB, sử
dụng các chun gia tư sản có tài vì lợi ích lâu dài của CNXH. Xây dựng và phát
triển nền dân chủ, nhà nước XHCN, phát huy những “sáng kiến vĩ đại” của quần
chúng nhân dân… Bằng cách đó, NEP đã tạo ra nguồn lực và động lực mới cho sự
phát triển của CNXH ở nước Nga.
Hiệu quả thực tế là, ở Liên Xơ từ năm 1922, thành thị đã có đủ lương thực thực phẩm, năm 1925 sản xuất nông nghiệp đạt 87%, công nghiệp đạt 75% sản
lượng của năm 1913; thương nghiệp đã được tăng cường mạnh mẽ (về nội thương:
tổng mức lưu chuyển hàng hóa năm 1926 bằng hai lần năm 1924; về ngoại thương
nhà nước mở rộng quan hệ buôn bán với hơn 40 nước); ngân sách nhà nước tăng
lên gần năm lần trong năm 1925 so với năm 1922; đời sống nhân dân cải thiện rõ
rệt, tình hình chính trị - xã hội ổn định, khối liên minh công nông được củng cố,
mối liên hệ thành thị nơng thơn được khơi phục phát triển…
3. Từ “Chính sách cộng sản thời chiến” đến NEP, V. I. Lênin đã trở thành nhà
cách tân vĩ đại đầu tiên trong lịch sử xây dựng CNXH và để lại nhiều chỉ
dẫn kinh điển quý báu cho công cuộc cải cách, đổi mới hiện nay.
19
Nhấn mạnh giá trị khai sáng, tinh thần mở lối và xác lập một kiểu phát triển “một tuyến tiến hóa mới” cho nhân loại, nhà triết học chính trị học A.Dinoviev viết
về V.I.Lênin và Cách mạng Tháng Mười: Nếu khơng có Lênin, khơng có Cách
mạng XHCN Tháng Mười và sau đó là Liên bang Xơ-viết thì trong lịch sử khơng
thể xuất hiện cả một tuyến tiến hóa có quy mô ngang với tuyến mà đại diện là thế
giới tư bản phương Tây. Tuyến tiến hóa đó có ảnh hưởng to lớn đến toàn bộ sự phát
triển tiếp theo của nhân loại. “Chính sách kinh tế mới” là đóng góp đặc sắc của V. I.
Lênin về vấn đề mơ hình và con đường xây dựng CNXH. Nó là cuộc cải cách đầu
tiên và cũng là nơi hình thành những tư duy mới và bước phát triển lớn lao về lý
luận CNXH trong thời đại ngày nay.
Kiến tạo một mơ hình CNXH phù hợp với điều kiện lịch sử và trung thành với
nguyên lý lý luận là khó, nhưng phát hiện và dũng cảm thừa nhận những khuyết tật
và phủ định mơ hình đó cịn khó hơn, vì nó địi hỏi không những kiến thức và sự
sáng suốt, mà cả sự dũng cảm để phủ nhận chính mình. Phải có một tầm vóc lớn về
tư duy lý luận và quyết tâm chính trị mạnh mẽ thì V. I. Lênin mới có thể đưa ra và
thuyết phục những người đồng chí của mình cùng hướng tới sự đổi mới. Cũng cần
phải khẳng định uy tín chính trị của V. I. Lênin trong tồn Đảng, nhưng điều cốt lõi
chính là khả năng phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề của thực tiễn bằng tư duy
lý luận của Người.
Những tư duy mới mẻ của V. I. Lênin trong NEP là những chỉ dẫn lý luận cơ
bản định hướng cho quá trình cải cách, đổi mới của các nước XHCN trên thế giới
hiện nay. Trong sự nghiệp đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất
nước hiện nay, cần tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn,
hoàn thiện hệ thống các quan điểm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận
20
cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.Sự nghiệp đó ln gắn liền với những
cống hiến lý luận của V. I. Lênin trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH ở quốc
gia đầu tiên trên thế giới.
III. Sự vận dụng của chủ tịch Hồ Chí Minh trong đường lối cứu
nước
Tư tưởng biện chứng này có mối quan hệ đến việc xây dựng và phát triển lực
lượng cách mạng, tập hợp và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc. Trong khi mâu
thuẫn dân tộc nổi lên gay gắt, vấn đề giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu, thì
phương pháp luận mà Hồ Chí Minh luôn quán xuyến là phát huy những yếu tố
tương đồng, khai thác cái giống nhau để loại bỏ cái khác nhau, tìm ra điểm chung
của tồn dân tộc thay vì khoét sâu sự khác biệt, quy tụ sức mạnh tổng hợp của cả
dân tộc thay vì sự loại trừ lẫn nhau giữa các nhân tố cấu thành cộng đồng dân tộc.
Ở đây, vấn đề kết hợp các mặt đối lập của tư duy biện chứng được Hồ Chí Minh
vận dụng một cách sáng tạo trong đường lối cũng như trong phương pháp, trong
chiến lược cũng như trong sách lược cách mạng.
Kết hợp các mặt đối lập là điều kiện tất yếu của quá trình tư duy biện chứng
nhằm phản ánh các mặt đối lập trong hiện thực và kết hợp các mặt đối lập ấy trong
tư duy để hình thành một khái niệm mới, đánh dấu sự xuất hiện một quá trình mới.
Ở đây vấn đề kết hợp các mặt đối lập được đề lên thành một nguyên tắc lý luận về
sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, đồng thời khi vận dụng vào thực tế,
lại giúp ta nhận rõ một sự kết hợp như vậy trong chiến lược cũng như sách lược,
trong chính trị cũng như trong kinh tế.
Hồ Chí Minh chính là nhà chính trị đã học được cách làm thế nào và khi nào
có thể và cần phải kết hợp các mặt đối lập. Khi thực dân Pháp rồi phátxít Nhật xâm
chiếm nước ta, mâu thuẫn dân tộc bao trùm lên xã hội Việt Nam, khi mà quyền lợi
dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, Hồ Chí Minh kêu gọi “phải đoàn kết lại đánh
21
đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nịi ra khỏi nước sơi lửa nóng”
(Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.198). Trong
khi vấn đề giải phóng dân tộc nổi lên hàng đầu, đáng lẽ phải nêu cao chữ “đồng”
đối với các giai cấp, các tầng lớp, các tôn giáo thì Quốc tế cộng sản lại đề cao khẩu
hiệu “Giai cấp chống giai cấp”, đặt mục tiêu đấu tranh lật đổ giai cấp phong kiến,
tư bản, phú nông. Với bản lĩnh phi thường và trí tuệ sáng suốt, trong văn kiện thành
lập Đảng tháng 2-1930, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đảng lơi kéo tiểu tư sản, trí thức và
trung nơng về phía giai cấp vơ sản; Đảngtập hợp hoặc lơi kéo phú nông, tư sản và
tư bản bậc trung” (Sđd, t.3, tr.4). Rõ ràng, Hồ Chí Minh ln đặt trung tâm chú ý
vào việc phát hiện ra sự đồng nhất, sự nhất trí, sự tương đồng giữa các tầng lớp, các
giai cấp xã hội nhằm làm cho họ ngày càng xích lại gần nhau để đấu tranh vì quyền
lợi dân tộc cao hơn hết thảy. Lúc này sự tương đồng lớn nhất của cả cộng đồng dân
tộc Việt Nam là giải phóng dân tộc. Chính sự tương đồng lớn nhất đó là cơ sở
khách quan để các giai cấp, các tầng lớp khác nhau cố kết, quy tụ lại thành khối đại
đoàn kết dân tộc. Biết phát huy sự tương đồng, tạo ra sự kết hợp các mặt đối lập là
phép biện chứng cách mạng, là bản lĩnh chính trị đặc biệt, là nghệ thuật ứng xử
tuyệt vời của Hồ Chí Minh trong mỗi bước ngoặt lịch sử.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trong lúc thù trong giặc ngồi
đang rình rập thơn tính nước ta, đất nước đang ở trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”,
Hồ Chí Minh và Đảngta đã thực hiện một loạt kết hợp các mặt đối lập, để đưa con
thuyền cách mạng đến bến bờ vinh quang. Chiến lược sáng suốt lúc này là làm sao
củng cố, giữ vững chính quyền cách mạng đang cịn trong “trứng nước”. Tư duy
chiến lược của Hồ Chí Minh là quy tụ cho được lực lượng toàn dân tộc “không
phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lịng u
nước thương nịi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra
giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, đánh tan giặc Pháp - Nhật xâm chiếm nước
ta. Sự liên minh tất cả lực lượng của các giai cấp, đảng phái, các nhóm cách mạng
22
cứu nước, các tôn giáo, các dân tộc kháng Nhật, đó là cơng việc cốt yếu của
Đảngta”(1). Nhiều chủ trương, biện pháp nêu cao chữ “đồng” (tức là đồng nhất hay
là kết hợp các mặt đối lập) mà Hồ Chí Minh đề xuất đã phát huy tác dụng đoàn kết
dân tộc, thu phục người tài, sử dụng nhân sĩ, trí thức phục vụ công cuộc kháng
chiến, kiến quốc. Nhiều nhân vật nổi tiếng được Hồ Chí Minh mời tham gia vào bộ
máy nhà nước và các cơ quan chuyên môn các cấp. Quốc hội đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa do Hồ Chí Minh sáng lập đã thu hút một số nhà tư sản
lớn, một số chức sắc cao trong tôn giáo như linh mục Phạm Bá Trực, Thượng tọa
Thích Mật Thế, và đại biểu quan lại cao cấp của chế độ cũ như Bảo Đại, Bùi Bằng
Đoàn v.v..
Sau Cách mạng Tháng Tám, nhiều tổ chức và đảng phái chính trị phản động
chống phá cách mạng quyết liệt. Nổi bật nhất là các đảng Việt quốc, Việt cách dựa
thế của Tưởng Giới Thạch chống Việt Minh, chống ĐảngCộng sản, hịng lật đổ
Chính phủ cách mạng do Hồ Chí Minh đứng đầu. Cùng một lúc Anh, Mỹ, Pháp,
Tưởng lăm le, rình rập muốn thơn tính nước cộng hịa non trẻ. Hồ Chí Minh áp
dụng sách lược thỏa hiệp và nhân nhượng với Tưởng để loại trừ một trong số kẻ
địch nguy hiểm nhất. Chính phủ Liên hiệp lâm thời được thành lập ngày 1-1-1946,
và cuộc Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 đã lập nên Quốc hội đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa. Quốc hội khóa I đã dành cho Việt quốc, Việt cách 70 ghế
đại biểu không qua bầu cử. Ngày 2-3-1946, tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa
I, theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Quốc hội đã chấp nhận thành lập Chính phủ Liên
hiệp kháng chiến, trong đó Nguyễn Hải Thần (Việt cách) giữ chức Phó Chủ tịch,
Nguyễn Trường Tam (Việt quốc) giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Chu Bá
Phương (Việt quốc) giữ chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Trương Đình Tri (Việt cách)
giữ chức Bộ trưởng Bộ Y tế và Xã hội; đảm nhiệm cố vấn tối cao là Vĩnh Thụy
(Bảo Đại), Vũ Hồng Khanh (Việt quốc) giữ chức Phó Chủ tịch kháng chiến ủy viên
hội. Nhìn lại cơ cấu Hội đồng Chính phủ lâm thời, những chức vụ quan trọng đều
23
do hai đảng Việt quốc và Việt cách nắm giữ. Điều đó cho thấy sách lược thỏa hiệp
của Hồ Chí Minh thật là cao tay, thật là sáng suốt, ít nhất tạm thời giữ được hịa
khí, làm dịu đi âm mưu phá phách, chống đối của bọn chân tay Tưởng Giới Thạch.
Đối với bọn thực dân Pháp là kẻ thù cụ thể trước mắt, Hồ Chí Minh cũng vận
dụng phép biện chứng kết hợp các mặt đối lập. Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 là một
trường hợp điển hình về sự kết hợp đó. Trong tình hình mà ta và Pháp tìm thấy
điểm chung là cần hịa hỗn để chuẩn bị lực lượng, thì hai bên đều có nhu cầu phải
ký Hiệp định 6-3-1946. Ở đây, Hồ Chí Minh phân biệt rõ trong những trường hợp
nào cần phải kết hợp các mặt đối lập, và trong trường hợp nào không thể kết hợp
được. Đối với Người, điều đó tùy thuộc ở điều kiện khách quan, chứ không tùy
thuộc ở nguyện vọng chủ quan muốn hay không muốn kết hợp. Và ngay trong
những trường hợp không thể tránh được sự kết hợp các mặt đối lập, thì về phương
diện chỉ đạo chiến lược và sách lược, Hồ Chí Minh phân tích tỉ mỉ hoàn cảnh đặc
thù cũng như những điều kiện cụ thể của mỗi một sự kết hợp, hay của từng loại kết
hợp đối với kẻ thù dân tộc và ý thức một cách đầy đủ rằng đó chỉ là một sự kết hợp
tạm thời, để rồi chọn một lối đi khác, và bằng con đường có thể là quanh co nhưng
vẫn đưa cách mạng chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, hoàn thành mục tiêu
chiến lược cơ bản.
IV. Sự vận dụng của Đảng ta trong lãnh đạo đất nước
Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu cơ bản đối với việc kết
hợp các mặt đối lập trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay. Cơ sở khách quan
của yêu cầu cơ bản này biểu hiện ở tính tất yếu khách quan của quá trình vận động
phát triển lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong điều kiện tồn tại xen kẽ những yếu
tố của xã hội cũ, lạc hậu và cả những yếu tố của xã hội mới thì vấn đề định hướng
xã hội chủ nghĩa được đặt ra là một đòi hỏi khách quan khơng thể tránh khỏi.Điều
đó hồn tồn phù hợp với tư tưởng của C.Mác, Ăngghen, Lênin về thời kỳ quá độ
với tính cách là một giai đoạn “Cải biến cách mạng” sâu sắc .
24
Trong quá trình xây dựng CNXH trước kia cũng như hiện nay. Đảng ta luôn
coi vấn đề thực hiện công bằng xã hội là vấn đề chiến lược, là mục tiêu lý tưởng
của sự nghiệp xây dựng CNXH. Đảng ta quan niệm rằng, việc thực hiện công bằng
xã hội phải được tiến hành thường xuyên. Đảng ta cũng nhận thức được đây là vấn
đề không thể giải quyết một sớm một chiều. Do đó, trong q trình khơng ngừng
thực hiện công bằng xã hội, vẫn phải chấp nhận sự bất công xã hội ở một giới hạn
cho phép. Vấn đề chính là, làm sao để ngày càng thu hẹp giới hạn của sự bất cơng
xã hội đó. Đây cũng phản ánh tính chất quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đồng thời ở đây cũng thấy được sự khác biệt và bản chất giữa Chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa tư bản.
Trên cơ sở nhận thức về tính tất yếu, về vai trò to lớn của cơ chế thị trường,
Đảng ta chủ trương đẩy mạnh việc chuyển từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế
thị trường theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Nhưng việc kinh tế thị trường đã làm
nảy sinh những hiện tượng tiêu cực nhu sự phân hóa giàu nghèo, sùng bái đồng
tiền, hiện tượng giàu một cách bất chính, phi pháp,…Nhằm để khắc phục mặt trái
của cơ chế thị trường như vậy, Đảng ta chủ trương xây dựng kinh tế thị trường,
tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với việc thực hiện công bằng xã hội. Quan điểm
đổi mới của Đảng ta là khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đồng thời kiên
quyết trừng trị làm giàu phi pháp bằng buôn lậu, tham nhũng. Kết hợp với việc
khuyến khích làm giàu là đẩy mạnh cơng tác xóa đói giảm nghèo, thực hiện đền ơn
đáp nghĩa với những người những gia đình có cơng với cách mạng.(trang 138)
Trong q trình đổi mới, Đảng ta luôn quan niệm về việc xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, Đảng ta khẳng định vừa phải giữ gìn bản sắc
dân tộc, lại vừa phải biết tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới của các dân
tộc khác. Trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay, với chủ trương chủ động hội nhập
25