Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

(TIỂU LUẬN) ĐƯỜNG lối PHÁT TRIỂN KINH tế và THÀNH tựu của ĐẢNG TA từ năm 1986 đến NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.25 KB, 50 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KĨ THUẬT TPHCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ THÀNH TỰU
CỦA ĐẢNG TA TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
(Môn học: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM)

MÃ SỐ LỚP HP: 15CLC (Sáng thứ 5, tiết 1-2)
GVHD: TRỊNH THỊ MAI LINH
NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 08
HỌC KỲ: II – NĂM HỌC: 2020 – 2021

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2021

1

0


DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Họ và tên
1.
2.
3.
4.
5.
6.


7.
8.

Mssv

Võ Thị Quỳnh Như
Nguyễn Văn Toàn
Lê Hoài Lâm
Huỳnh Thị Diễm Quỳnh
Nguyễn Thành Đạt
Lê Minh Quốc
Lê Trung Dũng
Võ Thị Ái My

-

19124166 (Nhóm trưởng)
19124195 (Thư ký)
20161220
19124177
19146172
19146248
19146166
19124141

Tên đề tLi: Đường lối phát triển kinh tế và thành tựu của Đảng ta từ năm 1986 đến nay
Thời gian thực hiện: 1 tháng
NHÂRN XÉT CỦA GIẢNG
VIÊN .................................................................................................................................
............................................................................................................................................

............................................................................................................................................
................................................................................................. ..........................................
........... ......................................................

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 05 năm 2021
GiUng viên hưXng dZn

Trịnh Thị Mai Linh

1

0


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
Họ VL Tên
Võ Thị Quỳnh Như
Nguyễn Văn Toàn
Lê Hoài Lâm
Huỳnh Thị Diễm Quỳnh
Nguyễn Thành Đạt
Lê Minh Quốc
Lê Trung Dũng
Võ Thị Ái My

Nhiệm Vụ
Phân công nhiệm vụ, tìm và tóm tắt bài
báo cáo, tìm tài liệu chương 1, làm file
powepoint và tổng kết file word
Tóm tắt bài báo cáo, lịch sử nghiên cứu

vấn đề và phương pháp nghiên cứu, tìm
tài liệu chương 3
Tóm tắt bài báo cáo, lịch sử nghiên cứu
vấn đề và phương pháp nghiên cứu, tìm
tài liệu chương 2
Lý do chọn đề tài, lịch sử - phương
pháp nghiên cứu và đóng góp của đề tài
Tóm tắt bài báo cáo, lịch sử nghiên cứu
vấn đề và phương pháp nghiên cứu, tìm
tài liệu chương 2
Tóm tắt bài báo cáo, lịch sử nghiên cứu
vấn đề và phương pháp nghiên cứu, tìm
tài liệu chương 3
Tóm tắt bài báo cáo, lịch sử nghiên
cứu, phương pháp nghiên cứu. Phần kết
luận, hình ảnh tham khảo
Tóm tắt bài báo, lịch sử vấn đề và
phương pháp nghiên cứu, tìm tài liệu
chương 2

Kết QuU
Hồn Thành
Tốt
Hồn Thành
Tốt
Hoàn Thành
Tốt
Hoàn Thành
Tốt
Hoàn Thành

Tốt
Hoàn Thành
Tốt
Hoàn Thành
Tốt
Hoàn Thành
Tốt

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, nhóm 8 chúng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất đến
giảng viên bộ môn của chúng em – cô Trịnh Thị Mai Linh. Trong q trình học tập và tìm
hiểu bộ mơn Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, nhóm em đã nhận được sự quan tâm,

1

0


hướng dẫn rất tận tình và tâm huyết của cơ; cùng với đó là cách giảng dạy mới lạ, ln tạo
sự hào hứng và thích thú cho sinh viên trong suốt q trình học mà cơ mang lại. Thơng
qua bài tiểu luận này, nhóm em xin trình bày lại những gì mà nhóm đã tìm hiểu về vấn đề
này trong lịch sử nhà nước ta gửi đến cô.
Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là môn học thú vị, vơ cùng bổ ích và
đặc biệt là giúp sinh viên bổ sung thêm những kiến thức tưởng chừng như đã cũ, nhưng
thực ra lại vô cùng quan trọng và ý nghĩa với mỗi sinh viên. Tuy nhiên, do vốn kiến thức
còn nhiều hạn chế và khả năng tiếp thu thực tế còn nhiều bỡ ngỡ. Mặc dù em đã cố gắng
hết sức nhưng chắc chắn bài tiểu luận khó có thể tránh khỏi những thiếu sót và nhiều chỗ
cịn chưa chính xác, kính mong cơ xem xét và góp ý để bài tiểu luận của em được hoàn
thiện hơn.
Cuối cùng, một lần nữa xin gửi lời cảm ơn đến cô và bộ môn. Xin chúc cô Mai

Linh luôn mạnh khỏe và tràn đầy năng lượng, để có thể mang đến cho sinh viên những
kiến thức thiết thực và quý báu!

MỤC LỤ

PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................... 4
1. Lý Do Chọn Đề TLi.................................................................................................... 4

1

0


2. Lịch Sử Nghiên Cứu Vấn Đề.....................................................................................4
3. Phương Pháp Nghiên Cứu Vấn Đề...........................................................................9
4. Bố Cục Tiểu Luận..................................................................................................... 11
5. Đóng Góp Của Đề TLi..............................................................................................11

PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................... 13
CHƯƠNG 1: ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ THÀNH TỰU CỦA
ĐẢNG TA TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY. …………………………………………………13
CHƯƠNG 2: ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ V CỦA ĐẢNG VÀ
CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI KINH TẾ (1982 – 1986)....................24
2.1. Đường lối phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986 – 1996
2.2. Đường lối phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 1996 - 2001
2.3. Đường lối phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 – nay
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG VẤN ĐỀ VÀO THỰC TIỄN.............................................32
3.1. Khống chế vL đẩy lùi lạm phát
3.2. Kinh tế tăng trưởng liên tục, cơ cấu có sự chuyển dịch tích cực
3.3. Cân đối của nền kinh tế

3.4. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hưXng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
gắn sUn xuất vXi thị trường
3.5. Thực hiện có kết quU chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thLnh phần, phát
huy ngLy cLng tốt hơn tiềm năng của các thLnh phần kinh tế
CHƯƠNG 4: VẬN DỤNG VẤN ĐỀ VÀO THỰC TIỄN - TÌNH HÌNH KINH TẾ
NƯỚC TA HIỆN NAY……………………………………………..…………………..
PHẦN KẾT LUẬN......................................................................................................... 36

1

0


HÌNH ẢNH TƯ LIỆU……………………………………………………………......
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tLi

Trong nửa cuối thế kỷ 20, Việt Nam là một quốc gia nghèo, đông dân, bị tàn phá
bởi những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm kéo dài nhiều năm. Nền kinh tế vào đầu
những năm 1980 rơi vào tình trạng suy thối trầm trọng do hậu quả chiến tranh, do mất

1

0



nguồn viện trợ kinh tế từ các nước xã hội chủ nghĩa và do sự yếu kém của cơ chế quản lý
kinh tế, kế hoạch hóa tập trung.
Trước bối cảnh đó, Nhà nước Việt Nam chính thức khởi xướng cơng cuộc đổi mới
nền kinh tế từ năm 1986 Việt nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về
tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội
nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt nam giảm nhanh được tình trạng nghèo
đói,bước đầu xây dựng nền kinh tế cơng nghiệp hóa đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao đi đôi với nợ công bằng tương đối trong xã hội
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Đường lối kinh tế của ĐUng khi đất nưXc hoLn toLn giUi phóng đến nay
Nếu đánh giá một cách tổng thể về đường lối kinh tế của Đảng ta kể từ khi đất
nước hồn tồn giải phóng đến nay có thể thấy có sự khác nhau giữa 2 giai đoạn trước và
sau đại hội VI năm 1986. Ở thập kỉ đầu tiên cả nước thống nhất đi lên CNXH, đường lối
kinh tế của Đảng ta có nhiều điểm khơng hợp lý, khơng phù hợp với điều kiện, tình hình
của nước ta. Bước vào thời kì đổi mới (từ năm 1986), Đảng ta đã đưa ra được một đường
lối kinh tế đúng đắn, đường lối kinh tế đó vừa gắn liền với những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-Lênin, vừa có sự phát triển sáng tạo, phù hợp với điều kiện , hoàn cảnh nước ta. Nhờ
có đường lối kinh tế đúng đắn đó đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng: đất
nước thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế luôn ở mức
cao (năm 2004 là 7,7 %), tình hình chính trị ổn định, quốc phòng an ninh vững chắc, đời
sống nhân dân khơng ngừng được cải thiện (tính đến 31/12/2002 là khoảng 500 USD/
người, vị thế đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế…Những thành tựu
đó chính là cơ sở để khẳng định đường lối kinh tế đúng đắn của đảng ta trong giai đoạn
hiện nay.
Đường lối đổi mXi của ĐUng CSVN từ 1986 đến nay


1

0


Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đổi mới tồn diện, đồng
bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp; đổi mới phải vì lợi ích của
nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát
từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới; phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác
ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; đổi mới
và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Quan điểm của ĐUng về đổi mXi kinh tế ở Việt Nam từ 1986 đến nay
Trên lĩnh vực kinh tế, Đảng ta đề ra chủ trương đổi mới cơ cấu kinh tế, thừa nhận
sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Thực hiện ba chương trình kinh tế lớn: lương
thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Từ quan điểm, chủ trương đổi mới,
kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, Việt Nam từ một trong những
nước nghèo, kém phát triển, với thu nhập bình quân đầu người khoảng 100 USD trở thành
một nước thoát nghèo với thu nhập bình quân đầu người đạt 2.228 USD năm 2015. Trong
suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao.
Quan điểm và chính sách đổi mới về kinh tế do Đại hội VI của Đảng đem lại những
thành tựu quan trọng: nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã được hình thành, tạo cơ
sở và nền tảng để Đại hội VII khẳng định tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần và đổi mới quản lý kinh tế. Từ đó, đất nước ta tiếp tục đạt được nhiều thành
tựu trên lĩnh vực kinh tế-xã hội, đồng thời là cơ sở để Đảng ta tiếp tục hoạch định đường
lối kinh tế qua các kỳ đại hội sau.
Với quyết sách chiến lược, độc đáo, sáng tạo về đổi mới cơ cấu kinh tế tại đại hội

VI tiếp tục được kế thừa, phát triển tại Đại hội XII của Đảng. Cùng với đổi mới kinh tế,
Đảng ta luôn đổi mới phương thức lãnh đạo nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng
trong quá trình thực hiện quyết sách về kinh tế. Trong giai đọan hiện nay với tình hình thế

1

0


giới và trong nước có những thuận lợi và khó khăn mới, Đảng ta huy tính chủ động, sáng
tạo đề ra, thực hiện những quyết sách chiến lược vượt qua nguy cơ, thách thức, chớp thời
cơ nhằm đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Khẳng định đường lối đổi mXi đúng đắn của ĐUng
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ năm
1986 đến nay đã trải qua gần 30 năm. Đó là một cơng trình vĩ đại của Đảng và nhân dân
ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ngay
từ thời điểm đó cũng như trong suốt q trình lãnh đạo cơng cuộc đổi mới, Đảng ta luôn
xác định đúng đắn đường lối, chủ trương đổi mới, hình thức, bước đi và cách tiến hành
phù hợp.
Do vậy, công cuộc đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta từng bước thu được
những thành tựu ngày càng to lớn. Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã vượt qua khủng
hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu
nhập trung bình, đang đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập quốc tế. Kinh
tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình
thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phịng, an ninh được tăng cường. Văn
hố - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay
đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn
dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được
nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa

được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ 1986 đến nay
Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta khẳng định đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức
thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống cịn. Đại hội VI đã đem lại luồng

1

0


sinh khí mới trong xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên. Trong quá
trình đổi mới Đảng ta nhận thức ngày càng cụ thể, sát thực tế hơn tính tất yếu, mục tiêu,
bản chất, đặc trưng, cấu trúc, thể chế và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường, định
hướng XHCN. Trong Cương lĩnh năm 1991 và Văn kiện Đại hội VII, Đảng ta xác định
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Những năm tiếp theo, Đảng ta đã nhận
thức rõ kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường là phương thức, điều kiện tất yếu để xây dựng
chủ nghĩa xã hội; từ chỗ áp dụng cơ chế thị trường tiến đến phát triển kinh tế thị trường,
đưa ra quan niệm và từng bước cụ thể hóa mơ hình và thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Từ Đại hội IX, Đảng ta khẳng định, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN là mơ hình kinh tế tổng qt trong thời kỳ quá độ với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh và phân phối. Tiếp đó,
Đại hội X của Đảng đã tiếp tục cụ thể hóa về định hướng XHCN của nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam. Với Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X), các vấn đề về mơ hình, bản
chất, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã được làm sáng tỏ. Và tới
Đại hội XI, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục được hoàn thiện với
quan niệm: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự

lãnh đạo của Đảng.
Đặc biệt Đảng ta nhận thức rõ hơn nội dung và các yếu tố bảo đảm định hướng
XHCN trong nền kinh tế thị trường với mục tiêu xuyên suốt là "dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, cơng bằng, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, từng bước hoàn thiện quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; bảo đảm tăng
trưởng kinh tế gắn với thực hiện công bằng xã hội… Nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức
kinh doanh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng
được củng cố và phát triển, kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển. Các thành phần kinh tế

1

0


hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng
trước pháp luật, cùng phát triển, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh...
3.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu gắn vXi lý luận thực tiễn
Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của
công tác lý luận nói chung. Để làm tốt cơng tác này, trước hết, cần nhận thức rõ mối quan
hệ biện chứng giữa lý luận và nghiên cứu lý luận với thực tiễn và tổng kết thực tiễn. Chỉ
trong môi trường dân chủ thì nghiên cứu lý luận mới có thể tìm tòi, khám phá, phát hiện
ra những vấn đề đòi hỏi phải tổng kết thực tiễn để kiểm chứng, chứng minh, khẳng định
hay bác bỏ.Cũng chỉ trong môi trường dân chủ thực sự thì tổng kết thực tiễn mới nhìn
thẳng vào sự thật, mới dám rút ra những kết luận trái với mong muốn của các chủ thể

nhưng khách quan, trên cơ sở đó, giải đáp và trả lời được về mặt lý luận. Nhiều năm qua,
giữa Ban Tuyên giáo Trung ương và Hội đồng Lý luận Trung ương đã có những cố gắng
phối hợp trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Hai bên đã tổ chức nhiều đề tài
nghiên cứu khoa học, nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm. Tuy nhiên, chất lượng các sản phẩm
đạt được chưa cao. Có những cơng trình được nghiệm thu với mức đánh giá cao nhưng ít
đi vào cuộc sống.

Phương pháp logic
Phương pháp lô-gic là phương pháp sử dụng các luận điểm khoa học nhằm xem
xét, nghiên cứu, khái quát, lý giải các sự kiện lịch sử. Từ đó, đánh giá, rút ra kết luận, chỉ
ra

bản

chất,

khuynh

hướng

tất

yếu,

quy

luật

vận


động

của

lịch

sử.

Để đảm bảo vận dụng phương pháp lô-gic trong công tác nghiên cứu, biên soạn
lịch sử Đảng bộ, đòi hỏi người viết phải đánh giá những thành tựu cũng như hạn chế,
khuyết điểm của Đảng bộ địa phương lãnh đạo phong trào cách mạng; nêu đúng mức

1

0


đóng góp của Đảng bộ và Nhân dân địa phương đối với phong trào cách mạng của Đảng
bộ cấp trên và cả nước.
Phương pháp lịch sử
Phương pháp lịch sử là phương pháp xem xét và trình bày quá trình phát triển của
các sự kiện lịch sử, phong trào cách mạng theo một trình tự liên tục, trong mối liên hệ tác
động lẫn nhau của chúng. Yêu cầu đối với phương pháp lịch sử là đảm bảo tính liên tục về
thời gian của các sự kiện, phong trào; làm rõ điều kiện, đặc điểm phát sinh, phát triển và
biểu hiện của chúng; làm sáng tỏ các mối liên hệ đa dạng của chúng với các sự kiện,
phong trào khác. Qua đó, chúng ta sẽ thấy trong quá trình hình thành, phát triển và lãnh
đạo của các Đảng bộ có sự liên hệ và tác động lẫn nhau trong suốt quá trình cách mạng để
cùng thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Vận dụng đúng phương pháp lịch sử giúp
chúng ta khôi phục sự thật lịch sử một cách chân thực, khách quan. Phương pháp lịch sử
có vai trị quan trọng. Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng riêng lẻ phương pháp lịch sử thì cơng

trình nghiên cứu, biên soạn sẽ rơi vào tình trạng chất đống sự kiện, khơng khái qt, đúc
kết, chỉ ra được những thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm; cần phải kết hợp
phương pháp lô-gic nhằm bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Việc vận dụng đúng hai phương pháp
này góp phần làm nên chất lượng của cơng trình.

Phương pháp quy nạp
Quy nạp là q trình rút ra nguyên lý chung từ sự quan sát một loạt những sự vật
riêng lẻ. Điều kiện khách quan của quy nạp là tính lặp lại của một loại hiện tượng nào
đó.Phương pháp quy nạp giúp cho việc khái quát kinh nghiệm thực tiễn về những cái
riêng để có được tri thức kết luận chung. Quy nạp đóng vai trị lớn lao trong việc khám
phá ra quy luật, đề ra các giả thuyết. Tuy nhiên, quy nạp cũng có những hạn chế của nó,
nhất là đối với loại quy nạp phổ thơng theo lối liệt kê giản đơn. Thuộc tính chung được rút
ra bằng quy nạp từ một số hiện tượng lại có thể khơng có ở tất cả các hiện tượng cùng loại

1

0


nếu nó khơng liên quan đến bản chất của hiện tượng và do các điều kiện bên ngoài quy
định. Quy nạp chưa thể xác định được thuộc tính đó là tất nhiên hay ngẫu nhiên. Để khắc
phục hạn chế của quy nạp, cần phải có diễn dịch và bổ sung bằng diễn dịch.
Phương pháp nghiên cứu phân tích
Phân tích là phương pháp nghiên cứu, là sự phân chia cái chung, các bộ phân khác
nhau nhằm nghiên cứu sâu sắc các sự kiện, mốc thời gian, quá trình; nhận biết các mối
quan hệ bên trong và sự phụ thuộc trong sự phát triển của các sự kiện, q trình đó theo
chiều dài lịch sử. Phân tích có nghĩa là chẻ vấn đề ra thành từng mảnh nhỏ, để hiểu được
vấn đề từ ngoài vào trong, từ trong ra ngoài của những vấn đề đã xảy ra trong các thời kì
trước trong quá khứ. .Lịch sử là môn học khá trừu tượng trong đó sử dụng câu chuyện để
kiểm tra và phân tích chuỗi các sự kiện trong quá khứ, và khách quan xác định các mơ

hình nhân quả đã ảnh hưởng đến các sự kiện trên. Các nhà sử học đôi khi tranh luận về
bản chất của lịch sử và tính hữu dụng của nó bằng cách thảo luận nghiên cứu về chính
lịch sử như một cách để cung cấp “tầm nhìn” về những vấn đề hiện tại.Các kỹ năng suy
nghĩ và lý luận thì có lẽ kỹ năng phân tích được xem là quan trọng hơn cả. Phương pháp
phân tích giúp nhận thức vấn đề đúng đắn,sáng suốt về hiện thực lịch sử đấu tranh và lãnh
đạo của Đảng và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam.

Phương pháp tổng hợp
Tổng hợp là quá trình ngược với q trình phân tích, nhưng lại hỗ trợ cho q trình
phân tích để tìm ra cái chung cái khái qt.Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt, phải
tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra được bản chất, quy luật
vận động của đối tượng nghiên cứu. Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp gắn bó
chặt chẽ quy định và bổ sung cho nhau trong nghiên cứu, và có cơ sở khách quan trong
cấu tạo, trong tính quy luật của bản thân sự vật. Trong phân tích, việc xây dựng một cách
đúng đắn tiêu thức phân loại làm cơ sở khoa học hình thành đối tượng nghiên cứu bộ

1

0


phận ấy, có ý nghĩa rất quan trọng. Trong nghiên cứu tổng hợp vai trò quan trọng thuộc về
khả năng liên kết các kết quả cụ thể( có lúc ngược nhau) từ sự phân tích, khả năng trìu
tượng, khái qt nắm bắt được mặt định tính từ rất nhiều khía cạnh định lượng khác nhau.
Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp nghiên cứu nhờ so sánh mà vạch ra cái chung và cái đặc thù trong
các hiện tượng lịch sử, trình độ phát triển và xu hướng phát triển của các hiện tượng ấy.
Các hình thức của phương pháp so sánh – lịch sử gồm: phương pháp đối chiếu, so sánh
loại hình lịch sử, so sánh nguồn gốc phát sinh, so sánh trong đó ghi lại ảnh hưởng lẫn
nhau của các hiện tượng khác nhau. Phương pháp so sánh – lịch sử được công nhận rộng

rãi từ thế kỉ 19 và được áp dụng trong các khoa học khác nhau như sử học, ngôn ngữ học,
dân tộc học, luật học,... Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã sử dụng phương pháp
này để nghiên cứu các hình thái kinh tế - xã hội, các kiểu kiến trúc kinh tế và chính trị
khác nhau của cùng một hình thái, các phong trào xã hội và các hệ tư tưởng.
Phương pháp diễn dịch
Là quá trình vận dụng nguyên lý chung để xem xét cái riêng, rút qua kết luận riêng
từ nguyên lý chung đã biết. Tuy nhiên, muốn rút ra kết luận đúng bằng con đường diễn
dịch thì tiền đề phải đúng và phải tuân theo các quy tắc lô-gic, phải có quan điểm lịch sử
cụ thể khi vận dụng cái chung vào cái riêng, diễn dịch là phương thứ xây dựng lý thuyết
như tốn học… Phương pháp diễn dịch có ý nghĩa quan trọng đối với các khoa học lý
thuyết như toán học… Phương pháp diễn dịch bao gồm ba bộ phận: tiền đề, quy tắc xây
dựng lô-gic và kết luận. Tiền đề là những phán đoán để biết, chúng là căn cứ và lý do để
suy luận.

1.

-

Bố cục tiểu luận


Lời cảm ơn



Phần mở đầu:

Lý do chọn đề tài

1


0


-

Lịch sử nghiên cứu của vấn đề

-

Phương pháp nghiên cứu vấn đề

-

Bố cục tiểu luận

-

Đóng góp của đề tài


Phần nội dung:

-

Chương 1: Sự cấp thiết trong vấn đề phát triển nền kinh tế Việt Nam 1986

-

Chương 2: Quá trình phát triển nền kinh tế Việt nam theo đường lối của Đảng

CSVN

-

Chương 3: Những thành tựu của Đảng trong việc phát triển nền kinh tế Việt Nam
từ năm 1986 đến nay

-

2.

Chương 4: Vận dụng vấn đề vào thực tiễn – tình hình kinh tế nước ta hiện nay


Phần kết luận



Hình ảnh tư liệu



Tài liệu tham khảo

Đóng góp của đề tLi
Đối vXi người học:
Giúp người học nắm được Đường lối, Cương lĩnh, những kiến thức có hệ thống về

q trình phát triển đường lối đổi mới và phát triển kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thông qua những kiến thức đã trang bị giúp học viên có kỹ năng phân tích, tổng

hợp và tư duy lý luận gắn liền với thực tiễn, phát huy tính năng động, sáng tạo. Từ đó,
khái quát được tình hình kinh tế của nước ta trong bối cảnh hiện nay.
Củng cố niềm tin của sinh viên về những thắng lợi của Đảng trong lãnh đạo đưa
nền kinh tế vực dậy và phát triển (1986 – nay), củng cố niềm tin và lòng tự hào vào sự
lãnh đạo của Đảng đối với sự bối cảnh kinh tế hiện nay.
Đối vXi cơ sở đLo tạo:

1

0


Thấy được những ưu điểm – đưa ra định hướng kịp thời và hiệu quả. Bên cạnh đó
là những mặt hạn chế trong công cuộc xây dựng đường lối đổi mới, từ đó xây dựng các
chính sách cải thiện tốt hơn, góp phần vào sư phát triển của kinh tế Việt Nam trong thời
điểm khó khăn hiện nay.
Đối vXi mơn đường lối ĐUng cộng sUn Việt Nam:
Tạo sự hứng khởi khi tìm hiểu bộ mơn.
Xây dựng giáo án vững chắc của bộ môn.

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: SỰ CẤP THIẾT TRONG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH
TẾ VIỆT NAM NĂM 1986
Thực trạng nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986:
Trong nửa cuối thế kỷ 20, Việt Nam là một quốc gia nghèo, đông dân, bị tàn phá
bởi những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm kéo dài nhiều năm. Nền kinh tế vào đầu

1

0



những năm 1980 rơi vào tình trạng suy thối trầm trọng do hậu quả chiến tranh, do mất
nguồn viện trợ kinh tế từ các nước xã hội chủ nghĩa và do sự yếu kém của cơ chế quản lý
kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Nền kinh tế Việt Nam vận hành theo kiểu kế hoạch hóa tập trung và cùng với cơ
chế quan liêu bao cấp đã bắt đầu bộc lộ bất cập, tác động tiêu cực đến sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp và đời sống xã hội.
Sản xuất nông nghiệp trì trệ, nạn thiếu lương thực xảy ra triền miên, sản xuất công
nghiệp theo thống kê vẫn tăng về giá trị nhưng thật ra đại đa số nhà máy, xí nghiệp quốc
doanh ở tình trạng lãi giả, lỗ thật, vì được nhà nước bao cấp tràn lan lưu thơng phân phối
ách tắc. Lạm phát đạt tới tốc độ “phi mã” với chỉ số tăng giá bán lẻ năm 1986 là 774,7%. .
Đồng tiền mất giá theo từng năm, vì thế mọi giao dịch như bán nhà, xe máy hay các vật
dụng có giá trị đều tính bằng cây, bằng chỉ (vàng). Tại Hà Nội, tiêu chuẩn lương thực
cung cấp cho cán bộ và nhân dân vẫn như vậy song ngành lương thực chạy bở hơi tai vẫn
không lo đủ nên các cửa hàng chỉ bán một số lượng nhất định cho một lần mua. Có gia
đình tiêu chuẩn chỉ 60 cân gạo nhưng phải mua tới 6 lần và dĩ nhiên một lần mua gạo là
một lần vất vả. Lương của cán bộ và công nhân viên chức chỉ đủ sống từ 1 tuần đến 10
ngày. Ví dụ: Ăn gạo “mậu dịch” (gạo từ kho các cửa hàng lương thực của Nhà nước) hôi
đủ các thứ mùi: gián, mốc và có khi là xăng dầu..., có khi lẫn những hạt sạn to như hạt
ngô. Mỗi tháng được nhận thịt theo chỉ tiêu nhất định. Mỗi tổ phải tự bắt thăm. Ai trúng
thì lĩnh trước, khơng trúng thì chờ đợt sau. Tất cả các mặt hàng đều cần phải mua qua tem
phiếu: phụ tùng xe đạp, phụ tùng xe máy, vải, xăng… Những điều nói trên cộng với
những hậu quả nặng nề chưa giải quyết xong của hơn 30 năm chiến tranh ác liệt, đã khiến
cho đời sống của tầng lớp nhân dân sa sút nghiêm trọng. ở thành thị lương tháng của công
nhân, viên chức không đủ chi tiêu cho các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. ở nơng thơn
lúc giáp hạt có tới hàng triệu gia đình thiếu ăn; tiêu cực xã hội lan rộng, lòng dân không
yên.

1


0


Đảng quyết định đưa ra đường lối mới để phát triển nền kinh tế Việt Nam:
Liên tưởng một cách nôm na thì nền kinh tế cũng giống như con người. Khi cách
thức sinh hoạt và làm việc không hợp lý hoặc khơng cịn phù hợp với hồn cảnh mới thì
cơ thể sẽ trở nên ốm yếu mệt mỏi, các bộ phận làm việc cũng khơng cịn hiệu quả. Chuỗi
ngun nhân này dẫn đến việc chúng ta không giữ được thành tích làm việc như trước, và
cuối cùng là thu nhập của chúng ta giảm sút. Chất lượng cuộc sống theo đó mà đi xuống.
Khi rơi vào hồn cảnh như vậy, điều cần thiết đối với con người là thay đổi cách
thức sinh hoạt và làm việc nói trên. Cịn đối với một nền kinh tế mệt mỏi thì điều cần thiết
chính là những cuộc tái cơ cấu.
Nhận thức được những vấn đề cấp bách trên, Đảng ta đã đề ra đường lối xây dựng
một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo hướng xã hội chủ nghĩa hoạt động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thay cho cơ chế kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp – cơ chế được xây dựng trong tình trạng cơ sở vật chất và trình độ phát triển lạc
hậu. Nhà nước Việt Nam chính thức khởi xướng cơng cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm
1986. Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy kinh tế,
chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa
và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế.

CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM THEO
ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1 Đường lối phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986 – 1996
Sự thất bại trong công cuô c‘ cải tổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu và thành công
của công cuô ‘c cải cách ở Trung Quốc đã có tác đơ n‘ g mạnh mẽ đến nước ta. Tình hình đó
chứng minh rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hô i‘ ở Liên Xô và các nước Đơng Âu khơng
phải là sự khủng hoảng mang tính bản chất của chủ nghĩa xã hơ i‘ nói chung mà chỉ là sự


1

0


thất bại của mơ t‘ mơ hình xã hơ i‘ chủ nghĩa cụ thể không phù hợp; nhiệm vụ của Đảng
Cô ‘ng sản tại các nước là phải đẩy nhanh tiến trình đổi mới, cải cách, tìm ra mơ hình kinh
tế - xã hô ‘i phù hợp với thực tiễn mỗi nước. Hơn nữa, những kinh nghiệm thành công của
các nước công nghiệp mới (NIC) ở Đông Á cũng đã cung cấp cho Việt Nam những bài
học sâu sắc về con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là những bài học về hô i‘
nhập quốc tế, hướng về xuất khẩu, phát huy cao nhất nô i‘ lực của đất nước,… Thế nhưng
đối với công cuô ‘c đổi mới ở Việt Nam thì nguyên nhân chủ quan trong nước mới là nhân
tố quyết định nhất. Những khó khăn từ tình hình bên ngồi cơ ‘ng với sai lầm và bất cập
trong chính sách kinh tế cũng như quản lý điều hành đã dẫn đến sự mất cân đối lớn trong
nền kinh tế. Như việc phủ nhận, dẫn đến chủ trương xóa bỏ hồn tồn thành phần kinh tế
tư nhân; xem nhẹ vai trò của cơ chế thị trường tế: kinh tế quốc doanh và tập thể không
phát huy được hiệu quả, ln trong tình trạng thua lỗ trong khi kinh tế tư nhân, cá thể bị
ngăn cấm; sản xuất tăng trưởng chậm, năng xuất lao đô n‘ g thấp, đời sống nhân dân gặp
nhiều khó khăn.
Trước tình hình đó, Đại hơ i‘ Đảng tồn quốc lần thứ VI (12/1986) đã thể hiện rõ tư
duy đổi mới với tinh thần “chỉ có đổi mới thì mới thấy đúng và thấy hết sự thật, thấy
những nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa chữa”, do đó phải “nhìn thẳng vào
sự thật, tơn trọng sự thật, nói đúng sự thật” Đại hô ‘i xác định, trong nhiều năm qua, Đảng
đã mắc phải “những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương chính sách lớn”. Mơ ‘ t
trong những nguyên nhân quan trọng được chỉ ra là “do chưa nhận thức đầy đủ rằng, thời
kỳ quá đô ‘ lên chủ nghĩa xã hô i‘ là mô ‘t quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều
chặng đường và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vô i‘ , muốn bỏ qua những bước đi cần
thiết…”. Trên cơ sở đó, Đại hơ ‘i chỉ ra sự cần thiết không thể thay thế của các thành phần
kinh tế trong mô ‘t nền kinh tế thống nhất, phải “sử dụng mọi khả năng của các thành phần

kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ theo nguyên tắc bảo đảm phát triển sản xuất, nâng
cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao đô n‘ g”… Cụ thể hóa những tư duy đổi
mới trên, trong “phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế xã hô i‘ 5 năm 1986-1990”, nêu
lên mục tiêu ba chương trình kinh tế lớn: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu. Có thể nói, Đại hơ ‘i Đảng lần thứ VI năm 1986 đánh dấu bước chuyển quan

1

0


trọng trong định hướng xây dựng phát triển đất nước trên tinh thần đổi mới mơ ‘ t cách tồn
diện và sâu sắc, trước hết là đổi mới trong tư duy kinh tế; đã phá vỡ những quan điểm cũ
kỹ, bảo thủ, mở đường cho những tư duy tiến bô ,‘ mới mẻ. Và do đó, những hiện tượng
“phá rào” trong những năm trước đó khơng những đặt ra u cầu cấp thiết cho cơng c c‘
đổi mới mà cịn là cơ sở thực tiễn để kiểm chứng, là những hạt giống đầu tiên cho quá
trình phai phá những ý tưởng, cách làm mới trong chặng đường đổi mới sắp tới. Từ đây,
“sau hơn một thập kỷ, ý tưởng phát triển bằng cách huy động toàn diện Đảng và Nhà
nước đã nhường chỗ cho ý tưởng cho rằng chức năng chính của Nhà nước là tạo ra cơ sở
hạ tầng vật chất xã hội và mơi trường chính sách ổn định cần thiết cho sự phát triển công
bằng, dựa trên cơ sở thị trường”. Như vậy, sau mô t‘ quá trình tìm kiếm, thử nghiệm, đến
Đại hơ i‘ VI Đảng ta đã nắm bắt được chính xác cái “chìa khóa” quyết định nhất đề đổi mới
nền kinh tế nước ta chính là đổi mới cơ chế kinh tế, chấm dứt cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường. Tư duy đổi mới đã có, nhưng những năm
sau đó, nhất là giai đoạn 1987-1988 là những năm áp dụng đường lối đổi mới vào thực
tiễn mơ t‘ cách khó khăn do tác đơ ‘ng bởi những hệ lụy của quá khứ bao cấp lẫn những vấn
đề mới đặt ra trong bối cảnh tình hình trong và ngồi nước có nhiều chuyển biến phức tạp.
Đây cũng là giai đoạn chứng kiến những điều chỉnh hợp lý, cẩn trọng, hiệu quả trong việc
áp dụng dụng các chính sách kinh tế mới.
Từ ngày 11/3/1987, Nhà nước ban hành quy định bãi bỏ các trạm kiểm soát trên tất

cả các tuyến giao thông trong nước, tạo điều kiện cơ bản cho thúc đẩy lưu thơng hàng hóa
giữa các địa phương. Ngày 14/11/1987, Hô i‘ đồng Bô ‘ trưởng ban hành Quyết định số 217HĐBT về việc giao quyền tự chủ cho các xí nghiệp quốc doanh, xóa bỏ hệ thống chỉ tiêu
kinh tế, chỉ còn hai chỉ tiêu là giá trị sản lượng và khoản nô ‘p ngân sách. Với Quyết định
này, Nhà nước tiến tới xóa bỏ phần lớn các chỉ tiêu kinh tế mang tính áp đặt, giao quyền
tự chủ lớn hơn cho các xí nghiệp quốc doanh, tạo điều kiện để đẩy mạnh sản xuất, tăng
năng xuất lao đô ‘ng trên cơ sở thực tế hoạt đơ ‘ng tại xí nghiệp. Ngày 9/3/1988, Hơ i‘ đồng
Bô ‘ trưởng ban hành Nghị định số 27-HĐBT về kinh tế tư doanh và và Nghị định số 29HĐBT về kinh tế gia đình, cho phép phục hồi lại thành phần kinh tế tư nhân. Các Nghị
định này không những tháo gỡ những ách tắc trong sản xuất kinh doanh, phát huy tối đa

1

0


các nguồn nôi‘ lực vào phát triển kinh tế, mà cịn thể hiện rõ mơ ‘ t bước tiến lớn trong việc
cụ thể hóa quan điểm thừa nhận mơ t‘ nền kinh tế có nhiều thành phần. Ngày 5/4/1988, Bơ ‘
Chính trị ban hành Nghị quyết 10/NQ về đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp, tiếp
tục cải tiến chế đơ ‘ khốn sản xuất nơng nghiệp . Nghị quyết nêu rõ: “Công nhận sự tồn tại
lâu dài và tác động tích cực của kinh tế cá thể tư nhân trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã
hội, thừa nhận tư cách pháp nhân, đảm bảo bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp
luật, bảo hộ quyền làm ăn chính đáng và thu nhập hợp pháp của các hộ cá thể tư nhân” .
Cho đến năm 1990, “nền kinh tế Việt Nam về những phương diện quan trọng nhất có thể
được xem như một nền kinh tế thị trường – dù rằng với những thị trường kém phát triển
hoặc không tồn tại đối với đất đai, lao động và vốn. Sự chuyển đổi đã hoàn tất. Hầu hết
các giao dịch đều dựa trên cơ sở trao đổi tự nguyện và cùng có lợi. Điều này hồn tồn
khác với những chỉ thị bắt buộc của hệ thống kế hoạch hóa tập trung”. Những chủ trương
đổi mới, chuyển hướng nền kinh tế tiếp tục được khẳng định và đẩy mạnh thực hiện trong
các kỳ Đại hơ ‘i Đảng tồn quốc kế tiếp. Đại hô i‘ VII (1991) và Đại hô i‘ VIII (1996) đã
khẳng định sự tồn tại và định hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam theo cơ chế thị
trường.

Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam bước ra khỏi cuô c‘
chiến với hành trang xây dựng đất nước là niềm hân hoan của ngày vui thống nhất. Từ
đây, đất nước ta đứng trước những thời cơ, vận hô i‘ mới xen lẫn với những thử thách
khơng nhỏ trong q trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: vừa đồng thời tiếp tục cầm súng
bảo vệ biên giới lãnh thổ; vừa ra sức củng cố chính quyền thống nhất cịn non trẻ, xây
dựng và phát triển kinh tế - văn hóa - xã hơ i‘ … Những diễn biến khó lường và phức tạp
của đời sống quan hệ quốc tế những năm 1970-1980 đã có tác đơ n‘ g xấu đến tình hình
kinh tế - chính trị trong nước, đặc biệt là cuô ‘c khủng hoảng ở hàng loạt các nước xã hơ i‘
chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, bảo vệ thành quả
cách mạng vừa giành được, Đảng Cô n‘ g sản Việt Nam đã khởi xướng công cuô ‘c đổi mới ở
nước ta từ Đại hơ ‘i Đảng tồn quốc lần thứ VI (1986) với trọng tâm là chuyển đổi nền kinh
tế kế hoạch tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hơ i‘ chủ nghĩa. Kể
từ đó đến nay, nước ta đã từng bước ra khỏi khủng hoảng, ổn định đời sống kinh tế - xã

1

0


hôi,‘ tăng tốc phát triển kinh tế, giữ vững an ninh quốc phịng, chủ đơ ‘ ng hơ ‘i nhập quốc
tế… Cùng với Trung Quốc, nước ta mô ‘t trong số ít những nước xã hơ ‘i chủ nghĩa đã thành
công trong công cuô c‘ đổi mới, cải cách, giữ vững được chế đô ‘ xã hô i‘ chủ nghĩa và có
những bước phát triển đơ t‘ phá về kinh tế. Bài học về con đường đổi mới ở Việt Nam sẽ
cịn được nhắc đến như là mơ t‘ trong những hình mẫu chuyển đổi mơ hình kinh tế thành
cơng nhất, để lại nhiều bài học quý báu và sâu sắc.

2.2 Đường lối phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 1996 - 2001
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, lực lượng sản xuất ở nước ta đã có những
bước phát triển mạnh mẽ, nền kinh tế – xã hội không ngừng được ổn định và phát triển.
Từ thực tiễn đó, tại Đại hội VIII năm 1996, Đảng ta nhận định: nước ta đã chuyển sang

thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá. Đây là một nhận
định cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa chỉ đạo đối với việc đề ra phương hướng, nhiệm vụ
sắp tới.
Mục tiêu của cơng nghiệp hố, hiện đại hoá được Đảng ta chỉ rõ là: “xây dựng
nước ta trở thành một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh”. “Từ 1996 đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp”. Cơng nghiệp hố, hiện đại hố chính là nhằm đẩy mạnh
sự phát triển của lực lượng sản xuất, giúp cho q trình cơ khí hố, hiện đại hố được diễn
ra nhanh hơn. Cơng nghiệp hố, hiện đại hố là nội dung không thể thiếu trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lê nin đã từng khẳng định: “cơ sở kinh tế duy nhất có thể có
được của chủ nghĩa xã hội là nền đại cơng nghiệp cơ khí. Ai qn điều đó, người đó
khơng phải là người cộng sản”. Tất nhiên, trong quá trình này người lao động phải khơng
ngừng nâng cao trình độ khoa học và kiến thức chuyên môn để sử dụng, cải tiến và sáng

1

0


tạo ra những công cụ lao động tiên tiến nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn những nhu cầu
của con người.
Để khẳng định nền kinh tế nhiều thành phần mà chúng ta đang xây dựng là nền
kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa , Đảng chỉ rõ: “cần thiết phải chăm lo
đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác, làm cho kinh tế nhà nước làm
ăn thực sự có hiệu quả, phát huy vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã phấn đấu dần
dần trở thành nền tảng của nền nền kinh tế quốc dân”. Một đặc trưng cơ bản của chủ
nghĩa xã hội là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy, Đảng ta đặc biệt coi trọng sự
phát triển của kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã nhằm củng cố và phát triển chế độ

công hữu về tư liệu sản xuất. Cho nên, mặc dù nền kinh tế nước ta có sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế khác nhau nhưng vẫn đảm bảo được sự phát triển của nền kinh
tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đối với kinh tế hợp tác xã, Đảng đã có những điều chỉnh thích hợp với cơ chế thị
trường: “Hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động
trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có
quyền như nhau đối với công việc chung”. Như vậy, sự điều chỉnh này đã đảm bảo được
tính tự nguyện của người lao động khi tham gia hợp tác xã do có được cơ chế gắn người
lao động với sản xuất, đảm bảo được lợi ích kinh tế của các xã viên. Đây chính là những
điều kiện, những yêu cầu đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế hợp tác xã trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với mục đích huy động vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy các doanh nghiệp nhà
nước làm ăn có hiệu quả, Đảng nhấn mạnh tới việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá một
bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Điều đó cũng có nghĩa là chấp nhận sự tham gia của các
thành phần kinh tế khác trong các doanh nghiệp nhà nước. Thực chất của giải pháp này
chính là để phát triển kinh tế tư bản nhà nước và đa dạng hố các loại hình sở hữu trong
các doanh nghiệp nhà nước.

1

0


Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
không thể tách rời việc xây dựng đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta khẳng định: “cơ chế thị
trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội. Nó chẳng
những khơng đối lập mà cịn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và
phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa”. Nền kinh tế đất nước sau những
năm vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã đạt được những thành

tựu to lớn, nền kinh tế đã thoát ra khỏi khủng hoảng, sản xuất phát triển, hàng hố dồi
dào, lưu thơng thuận lợi… Cơ chế thị trường có tác dụng như một guồng máy hoạt động
của nền sản xuất và trong lưu thông hàng hố, nó tạo được mối liên kết chặt chẽ giữa sản
xuất nông nghiệp với sản xuất công nghiệp. Đồng thời nó cũng có tác dụng như là một
cơng cụ, một phương thức để đảm bảo tăng trưởng kinh tế và mở ra cơ hội để tiếp xúc với
bên ngoài… Cho nên, sự tồn tại của cơ chế thị trường là yếu khách quan và tất yếu đối
với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

2.3 Đường lối phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 – nay
Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta có bước phát triển
mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế, thành công bước
đầu trong việc chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục một
bước tình trạng nước nghèo và kém phát triển, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, trình độ phát triển của nước ta còn thua kém nhiều so với một số nước
xung quanh và nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn vẫn là thách thức. Hồn cảnh đó địi hỏi
tồn Đảng, tồn dân ta phải tiếp tục nỗ lực phấn đấu để thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát
triển mạnh mẽ hơn nữa. Tại Đại Hội IX năm 2001, Đảng ta thể hiện rõ quyết tâm đưa

1

0


nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ
tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường
quốc tế được nâng cao. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì nhất thiết phải có

một nền sản xuất phát triển, lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định đối với sự phát triển
của nền sản xuất. Nhưng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ sản
xuất phù hợp với nó, chính vì vậy tại đại hội IX Đảng ta tiếp tục khẳng định thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc
triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định. Nền kinh
tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước. GDP
tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; trong đó, nơng nghiệp tăng 3,8%;
cơng nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô tổng sản
phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp đơi so với
năm 1995. GDP bình qn đầu người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt
mức bình quân của các nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD) . Từ một nước
thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở
thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới
về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;

Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mơ được duy trì, bảo đảm sự
ổn định chính trị, xã hội, quốc phịng và an ninh, bước đầu phát huy được nhiều lợi thế
của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế, từng bước hoàn

1

0


×