Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Đề bài tìm hiểu về công cuộc đổi mới của việt nam và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (649.36 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


BÀI TẬP LỚN

Đề bài: Tìm hiểu về cơng
Nam và xây dựng nền kinh
xã hội chủ nghĩa từ năm 1986 đến nay

Sinh viên thực hiện
Mã sinh viên
Lớp học phần
Giáo viên hướng dẫn

Hà Nội, Năm 2022

1

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................... 3
I. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................................5
1.1. Cơ sở phương pháp luận........................................................................................5
1.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể....................................................................5
II. Nội dung....................................................................................................................... 5
2.1. Bối cảnh lịch sử.......................................................................................................5
2.1.1. Trên thế giới.....................................................................................................5
2.1.2 Trong nước........................................................................................................7
2.2. Nội dung và các đường lối hoạch định đổi mới của Đảng từ đại hội Đảng VI...8


( tháng 12/1986) đến nay...............................................................................................8
2.2.1. Thời kỳ 1986-2000: Thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế......................8
2.2.2. Thời kỳ 2001 đến nay: Thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng.........................17
III. Thành tựu, những hạn chế và bài học lịch sử của công cuộc thời kỳ đổi mới 1986
đến nay............................................................................................................................ 28
3.1. Thành tựu của công cuộc thời kỳ đổi mới.......................................................... 28
3.1.1. Kinh tế............................................................................................................. 28
3.1.2. Chính trị.......................................................................................................... 29
3.1.3. Văn hóa, giáo dục........................................................................................... 29
3.2. Hạn chế của công cuộc thời kỳ đổi mới.............................................................. 30
3.3. Bài học lịch sử....................................................................................................... 32
4. Nguồn tài liệu tham khảo:...................................................................................... 35

2

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


LỜI MỞ ĐẦU
Mùa xuân năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt của cách
mạng Việt Nam. Kể từ đó đến nay, dưới dự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành được
những thắng lợi vĩ đại, cách mạng tháng 8-1945 thành công thành lập nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa ( nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ), thắng lợi của cuộc
chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước đem lại độc lập tự do và thống nhất đất nước,
thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Với những thắng lợi giành được trong thế ký XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường XHCN có
quan hệ rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và thế giới. Nhân dân ta từ
thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một
nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu bước vào thời kỳ đổi mới cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trên một chặng đường dài có bao nhiêu biến cố, sự kiện phức tạp của tình hình
trong nước và quốc tế, đất nước phải đương đầu với đủ loại kẻ thù với bao khó khăn thử
thách có những lúc ở trong tình thế ‘’ngàn cân treo sợi tóc’’ nhưng dưới dự lãnh đạo của
Đảng, đứng đầu là Hồ Chủ Tịch, con thuyền cách mạng Việt Nam vẫn cập bến vinh
quang. Thực tế lịch sử đã chứng minh hùng hồn một điều khơng thể phủ nhận, đó là sự
lãnh đạo của Đảng – nhân tốt quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
77 năm qua Đảng ta không ngừng tôi luyện lãnh đạo nhân dân đi theo con đường
Bác chọn: “ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Con đường mà Nguyễn Ái
Quốc – Hồ Chí Minh đã trải qua bao nhiêu khó khăn, vất vả mới tìm được.
Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Leenin tìm ra con đường giải phóng
dân tộc Việt Nam. Người đã xác định con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt
Nam là con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa cộng
sản.
Chính vì vậy, bên cạnh việc chỉ đạo chiến lược để xây dựng lực lượng cách mạng,
chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc tay sai, giành độc lập, chính quyền cho nhân dân
Đảng cịn quan tân đến việc thực hiện cách mạng XHCN với mục tiêu nâng cao đời sống
vật chất và tính thần của nhân dân, Đảng cũng có những chuyển hướng trong chủ trương
đường lối đã có sự đổi mới tư duy và biện pháp phát triển kinh tế văn hóa.

3

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


Vì vậy, tìm hiểu quá trình nhận thức của Đảng về con đường tiến lên CNXH là một
nội dung quan trọng nghiên cứu lịch sử của Đảng nói chung và thời kỳ đổi mới đất nước
nói riêng.
Nghiên cứu vấn đề xây dựng CNXH ở nước ta là một vấn đề rất quan trọng đối với
sinh viên nghành lịch sử. Bởi “ đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta,
là sự chọn lựa sáng suốt của Bác Hồ của Đảng ta. Nghiên cứu về vấn đề này sẽ giúp

chúng ta nhận thức một cách có hệ thống , cơ bản ban đầu về đường lối cách mạng
CXNH của quá trình nhận thức cảu Đảng về con đường tiến lên CNXH, nhất là các bước
ngoặt có tính sáng tạo và đột phá quan trọng nhất là việc đổi mới tư duy về CNXH và con
đường đi lên CNXH của Đảng.

4

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


I. Phương pháp nghiên cứu
1.1. Cơ sở phương pháp luận
Lấy Chủ Nghĩa Mác – Lenin và các quan điểm có tính phương pháp luận của Hồ
Chí Minh và của Đảng Cộng Sản Việt Nam làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên
cứu quá trình hình thành đường lối đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
1.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp logic,
ngồi ra có sự kết hợp các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp
và diễn dịch, cụ thể hóa và trừu tượng hóa…thích hợp với từng nội dung phân tích
II. Nội dung
2.1. Bối cảnh lịch sử
2.1.1. Trên thế giới
2.1.1.1 Cuộc cách mạng khoa học công nghệ
Đầu thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX, một trong những đặc điểm lớn nhất của thời
đại lúc đó là sự phát triển "kiểu dịng thác" chưa từng có trong lịch sử lồi người đó chính
là thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công
nghệ được tiến hành từ giữa thế kỉ XX đã tạo ra những lực lượng sản xuất to lớn và mới
về chất, góp phần thúc đẩy nhiều q trình hiện đại của xã hội loài người như: cấu trúc lại
các nền kinh tế, thay đổi, chuyển hướng các kết cấu hạ tầng của sản xuất, tăng cường xu
thế toàn cầu hóa trên nhiều lĩnh vực quan trọng của các quốc gia, ảnh hưởng to lớn đến

các thiết chế xã hội, đến văn hóa, lối sống các dân tộc...
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã đẩy nhanh q trình quốc tế hóa
nền kinh tế và đời sống kinh tế thế giới. Các quốc gia lần lượt bị cuốn hút vào q trình
phân cơng lao động, hợp tác hóa quốc tế và thị trường thế giới...
Tình hình trên vừa tạo ra những thời cơ hiếm có đồng thời cũng đặt ra những thách
thức gay go cho mọi quốc gia, đặc biệt là các nước chậm phát triển. Trước những sự kiện,
những nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội diễn ra với nhịp độ dồn dập, tính chất phức tạp và
với một quy mô to lớn chưa từng thấy, tất cả đang đặt ra yêu cầu bức thiết là cần phải có
sự phát triển, bổ sung lý luận cho phù hợp mà trước tiên phải có cách nhìn mới, nhận thức
mới về chủ nghĩa xã hội. Đây chính là cơ sở khách quan của đường lối đổi mới, cải cách
mà nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã và đang tiến hành, trong đó có Việt Nam.
2.1.1.2. Các vấn đề tồn cầu
Bên cạnh đó, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, thế giới đang đứng trước những vấn
đề tồn cầu và việc giải quyết những vấn đề đó địi hỏi phải có sự nỗ lực chung của tồn
5

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


nhân loại, ở các quốc gia với những chế độ chính trị khác nhau. Đó là vấn đề bảo vệ hịa
bình, chống chiến tranh hạt nhân hủy diệt, đó là vấn đề bảo vệ tài ngun thiên nhiên mơi
trường, phịng chống bệnh hiểm nghèo, vấn đề bùng nổ dân số, sự nghèo đói… Trước tình
hình đó, mỗi quốc gia, dân tộc trong việc lựa chọn con đường phát triển của mình khơng
thể khơng quan tâm đến những vấn đề chung, vì "giải quyết những vấn đề đó chính là
điểm hội tụ, nơi gặp gỡ của các dân tộc vì số phận và tương lai của chính mình cũng như
của tồn nhân loại" Về cương lĩnh đổi mới và phát triển, NxbThơng tin lí luận, Hà Nội.
1991, tr 166] .
Chính vì vậy, những vấn đề chung của nhân loại trở thành yêu cầu khách quan tác
động đến sự phát triển và đổi mới của chủ nghĩa xã hội trong đó có Việt Nam. Và chỉ có
như vậy, chủ nghĩa xã hội hiện thực mới chứng minh bản chất ưu việt của mình, chứng

minh chủ nghĩa xã hội tất yếu là con đường đi tới của các dân tộc.
2.1.1.3. Sự khủng hoảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa
Sau hơn 70 năm tồn tại, đến cuối thập niên 80 của thế kỉ XX, toàn bộ hệ thống xã
hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện và sâu sắc. Vào đầu những năm 1980, cơ
chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới bắt
đầu bộc lộ sự lạc hậu. Trong xây dựng kinh tế, các quốc gia này chỉ duy trì quan hệ khép
kín trong Hội đồng Tương trợ kinh tế (Khối SEV). Điều này đi ngược xu thế quốc tế hóa,
tồn cầu hóa về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ. Quan hệ giữa các Đảng Cộng sản và các
nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng mắc nhiều sai lầm. Một khuôn mẫu Xô Viết đã áp đặt cho
hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa mà bỏ qua sự khác nhau về lịch sử, xã hội, địa lý, văn
hóa cũng như điểm xuất phát và những điều kiện riêng của từng nước.
Đứng trước sự thủ thách, nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã tìm cách thốt ra khỏi cuộc
khủng hoảng bằng nhiều cách khác nhau. Trước hết, phải kể đến công cuộc “cải cách, mở
cửa” với những thành tựu rõ rệt của Trung Quốc - một nước xã hội chủ nghĩa láng giềng
và cuộc “cải tổ” ở Liên Xô - một cường quốc xã hội chủ nghĩa đứng đầu hệ thống xã hội
chủ nghĩa thế giới với những diễn biến phức tạp, đầy sóng gió. Trung Quốc tiến hành cải
cách kinh tế theo hướng thị trường mở cửa từ năm 1978. Những thành tựu của Trung
Quốc đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nước trong đó có Việt Nam.
Tiếp đó, những nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, những sai lầm trong
thực tiễn chậm được phát hiện, những hậu quả chưa khắc phục kịp thời, cùng với sự phá
hoại của chủ nghĩa đế quốc bằng chiến lược “diễn biến hịa bình” đã đẩy các nước xã hội
chủ nghĩa trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào sự khủng hoảng
tồn diện. Lịng tin của người dân vào Đảng Cộng sản ở các nước, vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội giảm sút nghiêm trọng. Công cuộc cải tổ không thành công dẫn tới
sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là bài học phản diện cho Việt
Nam những kinh nghiệm không thể cải tổ theo kiểu “phủ định sạch trơn”, giải quyết
không biện chứng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.

6


TIEU LUAN MOI download : moi nhat


Cũng trong thời gian này, thành công của các nước công nghiệp mới (NIC) như
Singapo ở Đông Nam Á đã đưa ra những gợi ý hết sức quan trọng về cách thức và giải
pháp phát triển đối với những nước xuất phát từ nền kinh tế nơng nghiệp và có kiểu quan
hệ xã hội, văn hóa Phương Đơng. Động lực để phát triển của các nước này là phát huy nội
lực, huy động mọi tiềm năng của đất nước, thực hiện cơ chế thị trường, mở cửa, hướng
vào xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
Sự tác động của những biến đổi của tình hình thế giới địi hỏi chúng ta phải suy
nghĩ, phải có cách nhìn nhận đúng đắn, khách quan khoa học trên cả phương diện lý luận
và thực tiễn.
2.1.2 Trong nước
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội tuy chúng ta đã đạt được những thành tưu
nhất định nhưng chúng ta đã mắc phải những sai lầm hạn chế. Một trong những sai lầm
dẫn đến những sai lầm tiếp theo là không nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác
– Leenin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Leenin đã từng chỉ rõ rằng quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ dài quanh co đầy phức tạp và trải qua nhiều chặng đường.
Trong quá trình chỉ đạo Đảng ta khơng thấu suốt nắm vững điều đó nên đã “chủ quan,
nóng vội bỏ qua những bước khơng cần thiết”.
Một sai lầm khác cũng khơng kém phần quan trọng đó là đường lối xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta khơng xuất phát từ đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam.
Từ những sai lầm trên đã dẫn đến khi xác định những mâu thuẫn cơ bản của nước ta
giống như mâu thuẫn của các nước đã qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa do ý
muốn có ngay xã hội chủ nghĩa thuần khiết trong thời kỳ quá độ. Cả một thời gian dài
chúng ta đã bỏ qua giai đoạn phát triển nền kinh tế hàng hóa, xóa bỏ mọi thành phần kinh
tế phi xã hội chủ nghĩa, chỉ thừa nhận hai hình thức sở hữu: tồn dân và tập thể do đó
khơng khai thác được tiềm năng để phát triển sản xuất. Vì vậy đã áp dụng cải tạo xã hội
chủ nghĩa và các thành phần kinh tế cũng như giai cấp đến mức quyết liệt, triệt để trong
một thời gian ngắn dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng.

Trong thời kỳ 1981 – 1985 chúng ta đã gặp khơng ít khó khăn: “ 5 năm qua là một
đoạn đường đầy thử thách. Bên cạnh những thắng lợi mà chúng ta đã đạt được, chúng ta
đã mắc một số những khuyết điểm sai lầm. Cách mạng nước ta có những thuận lợi mới
nhưng cũng gặp khơng ít những thử thách khó khăn và quyết liệt.
Đó là :
ra.

Sản xuất tuy có tăng nhưng tăng chậm so với khả năng sản có của cơng sức bỏ

Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp. Các xí nghiệp nói chung chỉ sử dụng được
khoảng một nửa công suất thiết kế, năng suất lao động giảm, chất lượng lao động kém.

7


TIEU LUAN MOI download : moi nhat


Tài nguyên của đất nước chưa được khai thác tốt thậm chí cịn bị sử dụng lãng phí,
kém hiệu quả.
Lưu thông không thông suốt, phân phối rối ren, vật giá tăng nhanh, đã tác động
tiêu cực tới sản xuất, đời sống và xã hội.
-

Mất cân đối trong nền kinh tế giữa cung và cầu về lương thực và thực phẩm.

-

Quan hệ sản xuất, xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố.


-

Đời sống của nhân dân, cơng nhân viên chức cịn nhiều khó khăn.

-

Hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển

Tình hình đất nước với những khó khăn, thuận lợi như trên đang đặt chúng ta trước
ngưỡng cửa của một thời điểm lịch sử mới đầy những yêu cầu và thử thách. Nếu khơng
vượt qua thì phải chịu những hậu quả nặng nề. Vượt qua được tình hình đất nước sẽ được
cải thiện, giải quyết những vấn đề khó khăn trên, giành thêm nhiều thắng lợi đưa cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến lên thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng của xã hội
chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra từ chánh cương sách lược vắn tắt và cương lĩnh năm 1930.
Đó chính là u cầu đổi mới. Đổi mới đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa lúc này
thật sự là một yêu cầu tất yếu khách quan đặt ra trong toàn Đảng tồn dân thực hiện chứ
khơng phải là ý muốn tùy tiện của những cá nhân riêng biệt hay của nhóm nhà hoạt động
nào đó. Với tinh thần tiến cơng cách mạng, ý chí độc lập tự do của chủ nghĩa xã hội, được
vũ trang bằng lý luận khoa học chủ nghĩa Mac-Lenin, tại đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa
đáp ứng lòng mong mỏi của đồng bào tất cả các đồng chí, tiếp tục đưa cách mạng tiến lên
dưới là cờ vẻ vang của Đảng.
2.2. Nội dung và các đường lối hoạch định đổi mới của Đảng từ đại hội Đảng VI
( tháng 12/1986) đến nay
2.2.1. Thời kỳ 1986-2000: Thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế
2.2.1.1. Kinh tế
Việt Nam chính thức khởi xướng cơng cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm 1986. Kể từ
đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy nền kinh tế,
chuyển từ cơ chế nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa , thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa

và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con
đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình trạng nghèo đói, bước đầu xây
dựng nền kinh tế cơng nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trường kinh tế cao đi đôi với sự
công bằng tương đối trong xã hội

8

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


Đường lối đổi mới của Đảng nhanh chóng được sự hưởng ứng rộng rãi của quần
chúng nhân dân, khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo của các loại hình kinh tế để phát
triển sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, tăng sản phẩm cho xã hội.
1986 – 1990: GDP tăng 4,4%/năm. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản
lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH và
giải phóng sức sản xuất.Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là
phát triển sản xuất nông nghiệp, mà nội dung cơ bản là khốn gọn đến hộ nơng dân, thừa
nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ
đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững
chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước
thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới.
1991 – 1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trình trệ, suy thoái, đạt được
tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và tồn diện. GDP bình qn năm tăng 8,2%.
Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước
Từ năm 1996 - 2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực cùng thiên tai
nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách. Tuy nhiên,
giai đoạn này, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước
7%/năm
Những sản phẩm công nghiệp quan trọng phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư

đều tăng cả về số lượng và chất lượng.
+
Sản lượng điện năm 2000 gấp 4,7 lần so với năm 1986;
+ Sản lượng xi măng gấp 8,7 lần; thép cán gấp 25,6
lần; thiếc gấp 3,6 lần.
+
Sản lượng dầu thơ đã tăng từ 41 nghìn tấn năm 1986 lên gần 7,1 triệu tấn năm
1994 và 16,3 triệu tấn năm 2000.
Các cơ sở sản xuất công nghiệp đã quan tâm hơn đến chất lượng sản phẩm, không
ngừng cải tiến mẫu mã, áp dụng công nghệ tiên tiến và thay đổi phương án sản xuất theo
yêu cầu của thị trường.
Sau 15 năm đổi mới, sự thay đổi vượt bậc khi nhà nước chuyển từ cơ chế nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Là tiền đề quan trọng cho việc bắt kịp nền kinh tế của các nước phát triển trên thế
giới.

9

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


2.2.1.2. Chính trị
2.2.1.2.1. Bối cảnh nước ta
Những biến động phức tạp diễn ra tại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu gây ra nhiều bất lợi cho cách mạng Việt Nam.
Diễn biến phức tạp:
Liên Xô:
Tháng 3/1985, M Gooc -ba - chop (M.Gorbachev) tiến hành cải tổ đất nước theo
đường lối “cải cách kinh tế triệt để”, tiếp theo là cải cách hệ thống chính trị và đổi mới tư
tưởng.

- Sau 6 năm, do sai lầm trong quá trình cải tổ, đất nước Xơ Viết khủng hoảng tồn
diện:
+
Kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường vội vã, thiếu sự điều tiết của nhà nước nên
gây ra hỗn loạn, thu nhập giảm sút nghiêm trọng.
+
Chính trị và xã hội: mất ổn định (xung đột sắc tộc, ly khai liên bang...), thực hiện
đa nguyên chính trị làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng và nhà nước.
Tháng 08/1991, sau cuộc đảo chính lật đổ Gorbachev thất bại, Đảng Cộng sản Liên
Xơ bị đình chỉ hoạt động.Chính phủ Liên bang bị tê liệt.
Ngày 21/12/1991, 11 nước cộng hòa tách ra khỏi liên bang lập Cộng đồng các
quốc gia độc lập (SNG). Gooc ba chop từ chức Tổng thống, Liên Xô tan rã sau 74 năm
tồn tại.
Các nước Đông Âu:
Sự sụp đổ của Liên Xô và các hoạt động phá hoại của các thế lực phản động làm
cho cuộc khủng hoảng thêm gay gắt.
Các nước Đông Âu lần lượt từ bỏ quyền lãnh đạo của Đảng, chấp nhận đa nguyên,
đa đảng và tiến hành tổng tuyển cử, chấm dứt chế độ xã hội chủ nghĩa, lập các nước cộng
hòa.
Những nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, những sai lầm trong thực tiễn
chậm được phát hiện, những hậu quả chưa khắc phục kịp thời, cùng với sự phá hoại của
chủ nghĩa đế quốc bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” đã đẩy các nước xã hội chủ nghĩa
trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào sự khủng hoảng tồn diện.
Từ đó cơng cuộc cải tổ ở Liên Xô không sửa chữa được những sai lầm trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, trái lại, đất nước càng lún sâu vào khủng hoảng kinh tế,
chính trị.
Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế
giới bắt đầu bộc lộ sự lạc hậu

10


TIEU LUAN MOI download : moi nhat


Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang lung lay.
Các thế lực thù địch lấy cớ quân tình nguyện Việt Nam chưa rút hết khỏi Campuchia
để tiếp tục cô lập Việt Nam. Mỹ vẫn cấm vận về kinh tế đối với nước ta.Quan hệ kinh tế
giữa Liên Xô và các nước Đông âu với nước ta bị thu hẹp.Các năm 1987 - 1988, lương
thực thiếu, nạn đói xảy ra ở nhiều tỉnh, lạm phát cao, đời sống nhân dân rất khó khăn. Các
hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội tăng.
Do ảnh hưởng từ các cuộc khủng hoảng, lòng tin của người dân vào Đảng Cộng sản
đã xuất hiện những dao động nhất định
Việt Nam và vẫn ở tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng.
2.2.1.2.2. Thay đổi về chính trị của nước ta 1986-2000
Chính trị xưa nay vốn là lĩnh vực nhạy cảm và cực kỳ phức tạp, đụng chạm đến mọi
mối quan hệ trong xã hội. Nói như V.I.Lê-nin, chính trị liên quan tới số phận của hàng
triệu quần chúng. Vì vậy, đổi mới chính trị nhất thiết phải tiến hành từng bước, phải trên
cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không xới tung mọi vấn đề cùng một lúc khi
chưa đủ điều kiện chín muồi, khơng cho phép xảy ra mất ổn định về chính trị dẫn tới sự
rối loạn xã hội. Với những nhận thức và quan điểm chỉ đạo đúng đắn ấy, Đảng và nhà
nước đã đi những bước thận trọng và chắc chắn. Bắt đầu từ việc đổi mới tư duy chính trị
trong việc hoạch định đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại
Ngày 12-9-1987, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về cuộc vận động làm trong sạch và
nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan
hệ xã hội
Tháng 6-1988, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị
quyết Về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng. Công tác xây dựng Đảng theo
phương hướng do Đại hội VI nêu ra là phải đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới đội
ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo, nâng cao giác ngộ, bồi dưỡng lý tưởng, kiến
thức và năng lực lãnh đạo, mở rộng dân chủ, đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng.

Qua hai năm thực hiện công cuộc đổi mới đã đem lại những kết quả bước đầu, song
chưa đồng bộ và cơ bản. Đất nước vẫn nằm trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu chủ trương cụ thể để chỉ đạo
công cuộc đổi mới vào chiều sâu và nêu ra các nguyên tắc cơ bản phải được toàn Đảng,
toàn dân trong q trình tiếp tục cơng cuộc đổi mới.Hội nghị đã quyết định 12 chủ trương,
chính sách lớn đẩy mạnh công cuộc đổi mới và đề ra những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo
công cuộc đổi mới như sau:
Một là, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà làm cho mục
tiêu đó được thực hiện tốt hơn bằng quan niệm đúng đắn, hình thức, biện pháp và bước đi
thích hợp.

11

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


Hai là, đổi mới không phải xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, mà là vận dụng sáng tạo
học thuyết Mác - Lênin và khắc phục những quan niệm không đúng về học thuyết đó.
Ba là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị phải nhằm
tăng cường, chứ không phải là làm yếu sức mạnh và hiệu lực của chun chính vơ sản.
Bốn là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Song dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo phải trên
cơ sở dân chủ; dân chủ với nhân dân, nhưng phải chuyên chính với kẻ địch.
Năm là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Năm 1989 nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã diễn ra những biến động chính trị lớn,
điều này đã tác động trực tiếp đến tư tưởng của đảng viên và quần chúng nhân dân, ảnh
hưởng xấu tới công cuộc đổi mới của Đảng ta. Để giữ vững ổn định chính trị, tháng 81989 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương ra Nghị quyết về Một số vấn đề
cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay.Nghị quyết
Hội nghị nêu rõ: Công tác tư tưởng phải được tiến hành toàn diện, tập trung vào các

nhiệm vụ và nội dung quan trọng :
Một là, khẳng định tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội và những thành tựu vĩ
đại của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.
Hai là, khẳng định tính khách quan và phương hướng xã hội chủ nghĩa của quá
trình cải tổ, cải cách, đổi mới.
Ba là, nhận rõ bản chất và con đường diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, nâng
cao cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động
quốc tế.
Bốn là, giáo dục trong Đảng và trong nhân dân kiên trì mục tiêu, lý tưởng xã hội
chủ nghĩa, trên cơ sở quán triệt năm nguyên tắc và những chính sách đổi mới của Đảng.
Năm là, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự
đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự thống nhất ý chí và hành động trong xã hội, đấu tranh
chống những biểu hiện tiêu cực.
Trên cơ sở bám sát tình hình quốc tế và trong nước, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (tháng 3- 1990) thông qua Nghị quyết về tình hình các nước xã
hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta. Hội
nghị cũng đã thảo luận và thông qua Nghị quyết Về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng
và dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh công cuộc đổi mới.
Cuối năm 1991 , chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ. Chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch âm mưu xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta đứng trước thử thách hết sức nghiêm trọng. Đại hội đại biếu tồn
quốc lần thứ VII thơng qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ

12

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991)Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội thơng qua đã trình bày: Đánh giá tổng quát quá trình

cách mạng Việt Nam và nêu lên năm bài học kinh nghiệm lớn; quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta; những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phịng - an ninh,
đối ngoại; hệ thống chính trị và vai trị lãnh đạo của Đảng. Cương lĩnh đã trình bày quan
niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ; những đặc trưng cơ bản của xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
Do nhân dân lao động làm chủ.
Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn
diện cá nhân.
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Đến tháng 6-1997, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông
qua Nghị quyết quan trọng. Nghị quyết về Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục
xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh nhấn
mạnh một số chủ trương nhiệm vụ phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nghị quyết đã
vạch ra chủ trương mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong xây dựng và quản lý nhà nước; nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ
chức Quốc hội; tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước; cải cách tư pháp; tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các biện pháp tổ chức thực hiện.
Thực hiện nhiệm vụ cải cách nhà nước, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VIII (tháng 8-1999) ra Nghị quyết Một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của
hệ thống chính trị nhằm tập trung củng cố, chỉnh đốn nội bộ từng tổ chức và các mối quan
hệ trong tồn bộ hệ thống chính trị. Bảo đảm bộ máy của hệ thống chính trị vận hành
thơng suốt và năng động; khắc phục tình trạng trì trệ, gây phiền hà, tiêu cực, yếu kém
trong tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Như vậy sau hơn 10 năm tích cực học hỏi và đổi mới không ngừng chúng ta cũng
gặt hái được những thành quả nhất định góp phần cho sự ổn định chính trị:
Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị: Hiến pháp
mới năm 1992 tiến hành cải cách một bước nền hành chính Nhà nước, tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hóa được phát huy. Các tầng lớp nhân dân, đồng bào

13

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


các dân tộc đồn kết, gắn bó trong sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh.
Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích
cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên vào thời này đất nước vẫn còn nhiều vấn đề tồn đọng chưa được giải
quyết:
Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước,
hiệu quả hoạt động của các đồn thể chính trị, xã hội chưa nâng lên kịp với địi hỏi của
tình hình. Bộ máy đảng, nhà nước, đoàn thể chậm được sắp xếp lại, tinh giản và nâng cao
chất lượng; còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ của nhân
dân. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay đổi, trẻ hóa cán bộ, chuẩn bị cán bộ kế cận còn
lúng túng, chậm trễ. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu
cầu của nhiệm vụ. Điều đáng lo ngại là khơng ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách
mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức; sức chiến đấu của một bộ phận tổ chức cơ sở đảng
suy yếu.
2.2.1.3. Văn hóa, giáo dục
Nội dung tư tưởng HCM về văn hóa giáo dục:
Thứ nhất, mục tiêu của văn hóa giáo dục là nhằm phát triển toàn diện con người, xây

dựng đất nước: Trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nền giáo dục mới sẽ “đào tạo
các em nên những người cơng dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm
phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”. Nền giáo dục mới phải thực hiện
dạy và học theo hướng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Thứ hai, giáo dục phải có tính tồn diện:
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, sự tài giỏi và kiến thức vô cùng quan trọng nhưng đạo
đức cũng quan trọng không kém. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Có tài mà khơng
có đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Thứ ba: Phương pháp giáo dục
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra phương pháp học đi đôi với hành, kết hợp lý luận
với thực tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu cao cần chú trọng việc tự học, học suốt đời, học
thực tiễn, học nhân dân, học lẫn nhau, học ở sách vở, học ở trường. Dạy và học không
phải chạy theo kiến thức đơn thuần, mà chú trọng tư duy sáng tạo, tự do tư tưởng. Người
học nên “Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người, học suốt đời, coi trọng việc tự học, tự
đào tạo và đào tạo lại”.
Thứ tư: Giải pháp phát triển giáo dục
Trong những giải pháp phát triển giáo dục được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập, vấn
đề kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội có vị trí khá nổi bật. Người nói: “ Giáo dục
14

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


trong nhà trường, chỉ là một phần, cịn cần có sự giáo dục ngồi xã hội và trong gia đình
để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù
tốt mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngồi xã hội thì kết quả cũng khơng hồn
tồn”; “ Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình dạy ngược lại, sẽ có những ảnh hưởng không
tốt tới trẻ em và kết quả cũng không tốt”. Người yêu cầu trong việc giáo dục nhà trường
phải liên hệ chặt chẽ với gia đình và xã hơi.

Nội dung đổi mới văn hóa giáo dục thời kỳ 1986-2000
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12/1986 đã mở đầu cho cơng cuộc
đổi mới tồn diện ở Việt Nam.
Đổi mới về văn hóa ở Việt Nam được biết đến dưới tên Cởi mở. Cởi mở là q
trình đổi mới về mặt văn hóa, nhất là trong lĩnh vực văn học tại Việt Nam bắt đầu từ năm
1986 và vẫn có ảnh hưởng tới tận ngày nay. Năm 1986 là dấu mốc quan trọng trong đời
sống xã hội nói chung và đời sống văn học nghệ thuật nói riêng. Tháng 12 năm 1986, bộ
chính trị theo đó thông qua Nghị quyết số 5 do tướng Trần Độ thuộc Ban Văn hóa soạn ra.
Nghị quyết cho phép tự do sáng tạo, sách báo được lưu hành dễ dàng hơn nếu khơng có
nội dung phản động.
Quan điểm chỉ đạo là tư tưởng cốt lõi dẫn dắt tư duy và hành động của con người
trong xây dựng và phát triển văn hóa. Để cụ thể hóa chủ trương đổi mới của Đảng nêu
trong Đại hội VI với tinh thần giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo, năm 1987, Bộ Chính trị
khóa VI ban hành Nghị quyết 05-NQ/TW về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản
lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và
văn hóa phát triển lên một bước mới, thể hiện rõ quan điểm “Tự do sáng tác là điều kiện
sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hóa, văn nghệ, để phát triển tài năng”
Đại hội VII (1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, khẳng định mơ hình xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội với
6 đặc trưng, trong đó nổi bật đặc trưng: “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc” . Đây cũng là mục tiêu phấn đấu xây dựng nền văn hóa ở nước ta trong suốt thời kỳ
quá độ.
Năm 1993, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII ra Nghị quyết Trung ương 4,
về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt, tư duy về văn hóa của Đảng
đã có bước phát triển mới, văn hóa, văn nghệ được nhận thức ở tầm cao hơn: “Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội... Văn
học, nghệ thuật là một bộ phận trọng yếu của nền văn hóa dân tộc, thể hiện khát vọng của
nhân dân về Chân - Thiện - Mỹ” . Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội thì văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa khơng chỉ bó hẹp là bộ phận của xã hội, công cụ
tư tưởng của Đảng mà văn hóa là nền tảng kiến tạo nên đời sống tinh thần lành mạnh của

xã hội, văn hóa cịn gắn kết với sự phát triển kinh tế - xã hội.

15

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


Để huy động mọi nguồn lực xã hội cho phát triển văn hóa, Văn kiện Đại hội VIII
(1996) đã đưa ra chủ trương mới: “Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng xã hội hóa các
hoạt động văn hóa - thông tin” .
Năm 1998, Đảng ban hành Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết ra đời trong bối
cảnh Đảng ta chủ động đổi mới tư duy, thoát dần tư duy giáo điều, bao cấp, lãnh đạo tồn
dân thực hiện cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, trong đó có văn hóa. Với tư tưởng
chỉ đạo làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi hoạt động xã hội, Nghị quyết đưa ra 5 quan
điểm chỉ đạo: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa
dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp
của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng; Văn hóa
là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, địi
hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Các quan điểm nêu trong Nghị quyết thực sự đổi mới tư duy về văn hóa, có giá trị
chỉ đạo cao trong thực tiễn, được nhân dân đón đợi và đồng tình thực hiện.
Đại hội IX (2001), Đảng ta nhìn nhận văn hóa khơng những là mục tiêu, là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội mà cịn có nhiệm vụ cao cả xây dựng con người.
“Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lịng
nhân ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hịa trong gia
đình, cộng đồng và xã hội” (9); đồng thời văn kiện Đại hội đặt vấn đề: “Hoàn thiện hệ giá

trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và
tiếp thu tinh hoa văn hóa của lồi người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc
hại” . Tiếp cận văn hóa qua góc nhìn của giá trị học cũng là một nét mới trong tư duy lãnh
đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa.
Đổi mới về giáo dục đào tạo: Trong lĩnh vực giáo dục, Việt Nam đang thực hiện
Đổi mới giáo dục: chuyển từ lối giáo dục từ chương (vốn là truyền thống trong cách giáo
dục Á Đông) sang phương pháp giáo dục lấy người học làm trung tâm, tăng tính chủ động
cho học sinh và tấn cơng vào căn bệnh thành tích; tăng tính tự chủ và tự do của nền giáo
dục.
Chủ trương của đổi mới giáo dục thời kỳ này là đa dạng hóa các loại hình trường
lớp, các hình thức đào tạo, quy chế các trường lớp dân lập, tư thục đã được ban hành.
Năm 1986, mục tiêu đổi mới giáo dục là hoàn thành cơ bản phổ cập tiểu học cho trẻ
em, phổ cập trung học cơ sở ở những nơi có điều kiện và từng bước mở rộng giáo dục phổ
thơng trung học bằng nhiều hình thức.
Năm 1987, theo quyết định của Nhà nước, Ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em
Trung ương được sáp nhập vào Bộ Giáo dục; nhà trẻ, mẫu giáo hợp nhất lại thành ngành
16

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


học Mầm non, nay còn gọi là bậc học Mầm non. Bộ trưởng Bộ Giáo dục thời kỳ này là
GS, Viện sĩ Phạm Minh Hạc.
Năm 1988: Sáp nhập Tổng cục Dạy nghề vào Bộ Đại học và Trung học chuyên
nghiệp thành Bộ Đại học, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề.
Năm 1990: Chính phủ quyết định thành lập Bộ Giáo dục và Đào tạo trên cơ sở sáp
nhập Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề. Bộ Giáo dục và
Đào tạo quản lý thống nhất hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến giáo dục đại học
và sau đại học.
Năm 1991, trong Báo cáo chính trị, giáo dục và đào tạo vẫn được xác định là một

trong năm vấn đề cơ bản của chính sách xã hội, nhưng khơng cịn nói đến phổ cập giáo
dục, khơng nói đến mở rộng cơ hội đến trường, mà chuyển sang tập trung vào đổi mới
mục tiêu, nội dung, phương pháp và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo.
Tại thời điểm 01/4/1999, cả nước có 90% số trẻ em 14 tuổi tốt nghiệp tiểu học; 94%
dân số trong độ tuổi 15-35 biết chữ. Sau 10 năm nỗ lực phấn đấu, đến giữa năm 2000, cả
nước hồn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.
2.2.2. Thời kỳ 2001 đến nay: Thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng
2.2.2.1. Kinh tế
Chủ trương kinh tế chung
Từ một đất nước chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh tàn khốc, Việt Nam dần
khẳng định được vị thế của mình và có một nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã
thể hiện sức chống chịu đáng kể trong những giai đoạn khủng hoảng, mới đây là đại dịch
Covid-19.
Những quan điểm từ các Đại hội giai đoạn trước tiếp tục được khẳng định tại Đại
hội IX, X của Đảng với mục tiêu: “đổi mới tồn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi,
hình thức và cách làm phù hợp”. Nội dung cơ bản là: “đổi mới tất cả các mặt của đời sống
xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn
kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng
là then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội”. Nội dung này bao hàm
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và chính trị, trong đó vẫn lấy đổi mới kinh tế làm trung
tâm.
Đại hội XI của Đảng (năm 2011) đánh dấu 20 năm thực hiện Cương lĩnh, lần đầu
Đảng ta đặt vấn đề phải nghiên cứu các mối quan hệ lớn gắn với tổng kết việc thực hiện
các mối quan hệ đó trong thực tiễn nhằm bảo đảm thực hiện được tám phương hướng xây
dựng CNXH, phấn đấu “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn đảng, toàn dân ta phải ra sức
phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”. Trong tám mối quan hệ lớn đó, có mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị. Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng

17


TIEU LUAN MOI download : moi nhat


nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cụ
thể là: “Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi
mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng
cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao
nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển”.
Tại Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đã nhấn mạnh, “đổi mới mạnh mẽ, tồn diện
và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”. Do
đó, để thúc đẩy mạnh hơn q trình này, trước hết cần tập trung đổi mới thể chế phát triển
cả kinh tế và chính trị. Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, nhiều chủ trương lớn được Đảng,
Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện; về kinh tế có 3 đột phá chiến lược: cơ cấu lại
nền kinh tế, đổi mới mơ hình tăng trưởng, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và hoàn
thiện quan hệ sản xuất mới.
Về đổi mới kinh tế, “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển
đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; ưu tiên nguồn lực
phát triển hạ tầng nông thôn miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đẩy mạnh chuyển
đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và cơng nghệ, đổi mới sáng
tạo; gắn kết hài hịa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế; nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”.

Vấn đề cơ cấu lại nền kinh tế, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế. Cơ
cấu lại, nâng cao hiệu quả đầu tư, nhất là đầu tư công. Cơ cấu lại, phát triển lành mạnh
các loại thị trường, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất để huy động, sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực. Ở đây, cần chú ý cơ cấu lại thị trường bất động sản, đất đai, tài nguyên
để đất đai, tài nguyên được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả cao. Cơ cấu lại các
ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ theo hướng tập trung phát triển các lĩnh vực,
sản phẩm có tiềm năng, lợi thế công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, sức cạnh tranh cao
trong hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt, cần chú ý tới cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp
nói chung để phát triển lực lượng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, tăng cường gắn kết
giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi với doanh nghiệp trong nước. Đây cũng
chính là để khắc phục sự thiếu gắn kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi dẫn đến chưa tạo ra được sự chuyển giao công nghệ, thúc đẩy phát
triển doanh nghiệp trong nước. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân để thực sự trở thành
một động lực quan trọng của nền kinh tế. Ta có thể thấy rõ chủ trương của Việt Nam hiện

18

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


nay là: Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư
nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa cơng nghệ và phát triển nguồn
nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích hình thành, phát triển những tập
đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế.
Ngồi ra, ta cịn hướng tới cơ cấu lại kinh tế vùng, đổi mới thể chế liên kết giữa các
địa phương trong vùng và giữa các vùng, phát huy vai trò các vùng kinh tế động lực, quan
tâm phát triển các vùng cịn khó khăn, thu hẹp chênh lệch phát triển giữa các vùng.
Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của khoa học - công
nghệ và đổi mới sáng tạo, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Trước hết, cần điều chỉnh, bổ sung, nâng cao chất lượng chiến lược, quy hoạch, kế

hoạch phát triển nền kinh tế, các ngành, lĩnh vực, các vùng phù hợp với thực tiễn đất nước
và trình độ phát triển khoa học - công nghệ hiện đại trên thế giới. Đẩy mạnh nghiên cứu
chuyển giao, ứng dụng, phát triển, làm chủ công nghệ hiện đại; phát triển một số sản
phẩm chủ lực có thương hiệu, có uy tín trong khu vực và thế giới. Nâng cao tiềm lực khoa
học - công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh, phát triển
kinh tế số. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 nhấn mạnh:
"Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng lợi thế và
còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt
lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới".
Tiếp tục hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được bắt đầu ngay từ khi
tiến hành công cuộc đổi mới và đây là vấn đề rường cột trong nội dung đổi mới. Vì vậy,
trong nhiều nhiệm kỳ vấn đề này luôn được coi là một nội dung trọng tâm, cần phải được
quán triệt cả về nhận thức và hành động.
Thứ nhất, thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt của
nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại,
hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh" phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp
tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng; kinh tế
có vốn đầu tư nước ngồi ngày càng được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến
lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.

19


TIEU LUAN MOI download : moi nhat


Kinh tế nhà nước được khẳng định là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà
nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng điều tiết dẫn dắt thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Đây là chức năng quan
trọng của kinh tế nhà nước, đồng thời cũng là điểm đặc trưng, tiến bộ của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có vai trị cung cấp dịch
vụ cho các thành viên; liên kết phối hợp sản xuất, kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều
kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phát triển bền
vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác
xã.
Kinh tế tư nhân được khẳng định là một trong những động lực quan trọng của nền
kinh tế và được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không
cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ được hỗ trợ thành các cơng ty,
tập đồn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai
trị lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở
rộng thị trường xuất khẩu.
Thứ hai, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; nâng cao chất
lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch. Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường vừa qua đã xác định một trong
những cản trở chính là hệ thống pháp luật cịn chưa hồn thiện, chồng chéo. Đồng thời,
trước yêu cầu phát triển mới, đặc biệt là do tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư nhiều ngành, nghề mới ra đời cần phải có mơi trường pháp lý bảo đảm cho sự phát

triển. Vì vậy, nghị quyết nêu rõ: "Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi
thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ
trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mơ hình kinh doanh mới.
Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Đẩy
mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ
luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các
ngành". Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ,
hiệu quả, cải thiện nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành
mạnh, bình đẳng, minh bạch. "Phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt
Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu".
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại
thị trường.

20

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


Tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước nhiệm vụ trọng tâm là đẩy nhanh việc xử
lý nợ xấu, thối vốn, cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới, nâng cao
trình độ cơng nghệ và áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại. Đồng thời, kiểm tra,
giám sát chặt chẽ khơng để thất thốt, lãng phí vốn, tài sản của Nhà nước. Nhà nước hỗ
trợ, khuyến khích phát triển các mơ hình kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp
nhỏ và vừa, kinh tế hộ trang trại trong nơng nghiệp. Hồn thiện cơ chế, chính sách để thúc
đẩy phát triển kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng
của nền kinh tế. Phát triển doanh nghiệp tư nhân Việt Nam lớn mạnh, nâng cao trình độ
cơng nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở rộng thị trường, cải thiện thu nhập, điều kiện
làm việc của người lao động và tham gia các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường, thực
hiện các trách nhiệm xã hội. Nâng cao hiệu quả các dự án đối tác công - tư trong lĩnh vực

xây dựng kết cấu hạ tầng. Ưu tiên những dự án đầu tư nước ngồi có trình độ cơng nghệ
cao, sẵn sàng chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát
triển, tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ ba, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế.
Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối chiến lược phát
triển kinh tế của đất nước; phát triển kinh tế Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của
kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không
ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế
quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của
nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hồn
thiện hệ thống phịng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù
hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các
lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt
Nam đã ký kết. Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế,
thương mại, đầu tư quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế
quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế.
Trong những năm vừa qua, Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Độ
mở của nền kinh tế nước ta được đánh giá là cao trên thế giới với tỷ trọng xuất, nhập khẩu
trên tổng sản phẩm nội địa (GDP) là hơn 200%. Việt Nam cũng tham gia nhiều hiệp định
đa phương thế hệ mới, cụ thể Việt Nam đã tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến
bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và
Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và
mới đây là Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam, Anh và Bắc A-len (UKVFTA).
Để tham gia các hiệp định này Việt Nam đã căn bản hoàn thiện hệ thống pháp luật theo
yêu cầu, chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Thực tiễn hơn 35 năm đổi mới cho thấy, mở cửa,
hội nhập quốc tế góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn mà đất nước đã đạt

21


TIEU LUAN MOI download : moi nhat


được. Đồng thời, chính mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng cũng tạo áp lực để chúng ta cải
cách thành cơng. Tuy nhiên, q trình đổi mới, hội nhập quốc tế cũng cho thấy cần phải
giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Để hội nhập thành
cơng phải có nội lực mạnh, đồng thời phải đa phương hóa, đa dạng hóa các đối tác, các thị
trường để tránh rủi ro và lệ thuộc. Kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài cũng cho thấy
cần nhận thức sâu sắc về hiệu quả của thu hút đầu tư trong giai đoạn hiện nay, phải bảo
đảm thu hút được công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường và làm tốt việc
chuyển giao công nghệ, cũng như gắn kết giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh
nghiệp nước ngồi.
Tồn cầu hố:
Trước những bước nhảy vọt về mặt cơng nghệ cùng xu thế tồn cầu hoá mạnh mẽ
bao trùm hầu hết các lĩnh vực, Việt Nam đa vuơt qua đuơc thê bi bao vay, câm vạn vê
kinh tê, và trở thành một quốc gia tich cưc va chu đọng họi nhạp kinh tê khu vưc va toan
câu. Có thể thấy, giai đoạn đổi mới từ năm 2001 tới nay, Việt Nam đã hội nhập quốc tế và
tham gia vào tồn cầu hố một cách sâu rộng.
Nếu như trước Đại hội IX năm 2001, văn kiện của Đảng chỉ nói đến “quốc tế hóa”,
chưa đề cập tới “tồn cầu hóa” thì từ Đại hội IX của Đảng, Việt Nam đề cập đến “tồn
cầu hóa kinh tế”. Khi đó, Báo cáo chính trị Đại hội IX nhận định: “Tồn cầu hóa kinh tế là
một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một
số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng
nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu
tranh”. Qua hai nhiệm kỳ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng, Việt Nam nhấn mạnh tới
“tồn cầu hóa kinh tế”. Đến Đại hội XI của Đảng (năm 2011), Việt Nam chuyển từ nhận
thức về “toàn cầu hóa kinh tế” sang nhận thức về “tồn cầu hóa”. Báo cáo chính trị Đại
hội XI nhận định: “Tồn cầu hóa và cách mạng khoa học - cơng nghệ phát triển mạnh mẽ,
thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức”. Đại hội XII của Đảng

(năm 2016) tiếp tục khẳng định: “Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học cơng nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh”. Báo cáo chính trị Đại hội XIII của
Đảng (năm 2021) nhấn mạnh: “Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng
đang phải đối mặt với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc...”.
Cùng với nhận thức về tồn cầu hóa, Việt Nam từng bước tiến hành hội nhập quốc
tế. Đại hội IX của Đảng đã đề ra chủ trương: “
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ
môi trường”. Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiến thêm một bước trong nhận thức và
hành động hội nhập quốc tế; đề ra chủ trương:
“Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế
trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng

22

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Đến Đại hội XI của
Đảng, Việt Nam nhấn mạnh đến hội nhập quốc tế:
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn,
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia,
dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Trong Đại hội XII của
Đảng, ta khẳng định tồn cầu hố, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ,
kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh và mục tiêu sẽ hội nhập quốc tế với tầm mức sâu
rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước. Tới Đại hội XIII, Đảng ta lần nữa nhấn mạnh về
việc chủ động và tích cực hội nhập quốc tế tồn diện, sâu rộng, có hiệu quả.
2.2.2.2. Chính trị
1.

Vấn đề hội nhập quốc tế về kinh tế đã được đề cập trong nhiều văn kiện của
Đảng. Đại hội IX của Đảng đề ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”; ngày
27/11/2001, Bộ Chính trị khóa X ban hành Nghị quyết số 07-NQ/ TW “Về hội nhập kinh
tế quốc tế”; Đại hội X của Đảng khẳng định: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác”; ngày 5/2/2007, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ
trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành
viên của Tổ chức Thương mại thế giới”; Đại hội XI của Đảng xác định vấn đề “chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế”; ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 22-NQ/TW
“Về hội nhập quốc tế”, trong đó đề cập đến những kết quả đã đạt được, đồng thời chỉ ra
những hạn chế, yếu kém trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ đối
ngoại.
Cùng với quá trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế là một xu thế khách quan. Đây là
một bước đi tất yếu, phản ánh q trình “Tồn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan,
lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia… vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa
có hợp tác, vừa có đấu tranh”[1], và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Đặc biệt, Đại
hội X của Đảng đã khẳng định: “Tồn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng
chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc gia, nhất là
các nước đang phát triển”[2].
2.
Trong hội nhập quốc tế, chúng ta tận dụng được nhiều cơ hội lớn, nhưng cũng
phải đối mặt với những thách thức không nhỏ. Những cơ hội và thách thức đó diễn ra trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặt ra nhiều vấn đề mới cho cách mạng Việt Nam,
trong đó có việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Dưới góc độ xây dựng nền quốc phịng tồn dân, an
ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, có thể thấy, khi chúng ta hội nhập quốc
tế một cách chủ động và tích cực, những cơ hội đó sẽ được thể hiện ở các khía cạnh sau
đây:

23


TIEU LUAN MOI download : moi nhat


Chúng ta được tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước, nhất là
các nước trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Qua đó, có thể mở rộng thị trường
xuất khẩu - một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế. Xét theo
mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phịng, an ninh, có thể thấy, sự tăng trưởng kinh tế sẽ
tạo điều kiện để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, nhất là tiềm lực kinh tế, quân
sự, mà trước hết, là khả năng thực hiện từng bước hiện đại hóa quốc phịng, hiện đại hóa
các lực lượng quân đội và công an. Cụ thể, chúng ta sẽ có điều kiện để đẩy nhanh q
trình hiện đại hóa trang bị của qn đội và cơng an thơng qua việc mua sắm những trang
bị kỹ thuật của các nước, nhất là các nước trong WTO; đồng thời, những trang bị kỹ thuật
do nền cơng nghiệp quốc phịng của chúng ta tạo ra cũng có điều kiện để trao đổi với các
nước. Để làm được điều đó, địi hỏi chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật
về kinh tế, các thiết chế quản lý kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh. Đây là những
điều kiện rất quan trọng để phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước, thu
hút đầu tư nước ngồi, qua đó tiếp nhận vốn, cơng nghệ sản xuất và kinh nghiệm quản lý,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm
tăng trưởng kinh tế. Qua đó, sẽ tạo điều kiện để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh,
đặc biệt là tạo ra nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng nền quốc phịng tồn dân và nền
an ninh nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân, công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong cộng đồng quốc
tế, có điều kiện đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới cơng bằng hơn, hợp lý
hơn, bảo đảm lợi ích của đất nước. Việc bảo đảm lợi ích của đất nước về mặt kinh tế sẽ
tạo điều kiện bảo đảm lợi ích của đất nước trên các mặt khác. Sự độc lập về kinh tế không
chỉ là điều kiện bảo đảm cho sự độc lập về chính trị, xét trong mối quan hệ kinh tế với
chính trị, mà cịn tạo thế cho hoạt động đối ngoại, kể cả đối ngoại qn sự, quốc phịng.
Nhờ đó, sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh mới trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân

và nền an ninh nhân dân, cũng như trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung, nhất là
việc gắn kết chặt chẽ hơn giữa các mặt kinh tế, chính trị, quốc phịng, an ninh, đối ngoại.
Trong điều kiện các nước trong cộng đồng quốc tế có lợi ích kinh tế đan cài nhau, kéo
theo sự đan cài về an ninh, tạo ra những khả năng để bảo đảm an ninh chung trong cả
cộng đồng, thì vấn đề bảo đảm an ninh của chúng ta sẽ có được những yếu tố tích cực.
Tạo điều kiện cho nước ta tiếp thu khoa học - công nghệ tiên tiến, nhất là dưới sự
phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ hiện đại. Cùng với đó, sự
phát triển chung của kinh tế thương mại, dịch vụ, đầu tư… sẽ làm cho thị trường hàng hóa
phục vụ quốc phòng, an ninh ngày càng phong phú hơn, tạo điều kiện thuận lợi trong
quan hệ trao đổi, đầu tư, đổi mới cơng nghệ, từng bước hiện đại hóa trang bị vũ khí - kỹ
thuật quân sự, tăng cường hiện đại hóa quốc phịng, hiện đại hóa qn đội, cơng an, tăng
cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.
3.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, xét ở góc độ xây dựng nền quốc phịng tồn dân
và nền an ninh nhân dân, cũng như ở góc độ bảo vệ Tổ quốc nói chung, chúng ta cũng

24

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


×