Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

(TIỂU LUẬN) báo cáo NHÓM môn tài CHÍNH TIỀN tệ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN các CÔNG cụ của THỊ TRƯỜNG tài CHÍNH ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.27 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM KHOA
QUẢN TRỊ - TÀI CHÍNH BỘ MƠN TÀI CHÍNH
NGÂN HÀNG

BÁO CÁO NHĨM MƠN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC CƠNG CỤ CỦA
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn: Tô Văn Tuấn
Họ và tên sinh viên:
1. Trần Đức Phú-86339
2. Vũ Thị Quyên-88968
3. Lê Thị Tiến Thành-89697
4. Nguyễn Văn Tuấn Minh-87513
5.Lê Tất Tùng Dương-88981

Hải Phòng, tháng 12 năm 2021


MỤC LỤC
Lời mở đầu.............................................................................................................................. 3
Phần 1: Tổng quan về thị trường tài chính.............................................. 4
I.
II.

Các cơng cụ trên thị trường tiền tệ.............................................. 4
Các công cụ trên thị trường vốn..................................................... 5

Phần 2: Thực trạng phát triển hiện nay của các công cụ thị trường
tài chính Việt Nam............................................................................................................ 6


I.
II.

Các cơng cụ trên thị trường tiền tệ.............................................. 6
Các công cụ trên thị trường vốn.................................................. 10

Phần 3: Cơ hội và thách thức của sự phát triển các cơng cụ thị
trường tài chính Việt Nam..................................................................................... 14
I.
Cơ hội.................................................................................................................... 14
II. Thách thức........................................................................................................ 16
III. Đề xuất và khuyến nghị......................................................................... 19
Kết Luận................................................................................................................................. 23

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT:

TTC: Thị trường tài chính
NHTW: Ngân hàng trung ương
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NSNN: Ngân sách nhà nước
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
KBNN: Kho bạc nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
TTCK: Thị trường chứng khoán
TCTD: Tổ chức tín dụng
TPKB: Tín phiếu kho bạc
TPKBNN: Tín phiếu kho bạc nhà nước

2



LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển và bền vững,
cùng với sự phát triển đó, thị trường tài chính có bước phát triển vượt bậc, ln giữ vai
trị trọng yếu trong mọi nền kinh tế, bởi đây vừa là nguồn lực quan trọng, vừa là huyết
mạch kết nối, thúc đẩy dòng chảy sản xuất, kinh doanh trên thương trường. Vì thế, thị
trường tài chính khơng đơn thuần thực hiện vai trị kết nối cung - cầu nguồn lực tài
chính, mà đó cịn là nơi khơi thơng những ách tắc cho nền kinh tế - xã hội, đóng vai
trị quan trọng, chủ chốt đối với tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế, vì thế nhu cầu
về vốn trong nền kinh tế là cần thiết đặc biệt là các phương thức lưu chuyển vốn và
việc hình thành một thị trường tài chính cho phát triển kinh tế xã hội là vô cùng quan
trọng, cho nên chúng ta phải đặc biệt chú trọng các công cụ lưu thông trên thị trường.
Với tốc độ đang phát triển của nền kinh tế thị trường tài chính, các cơng cụ của thị
trường tài chính có nhiều cái khá mới mẻ, các cơng cụ này đã thể hiện được tầm quan
trọng của nó trong việc cung cấp và dẫn vốn cho sản xuất và tiêu dùng làm cho các
dịng vốn lưu thơng một cách hiệu quả nhất và đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội.

Để làm rõ vấn đề trên chúng em sẽ tìm hiểu “thực trạng phát triển các cơng cụ của
thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay”

3


PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ
TRƯỜNG TÀI CHÍNH
I.

Các cộng cụ thị trường tiền

tệ a. Tín phiếu kho bạc

Là cơng cụ vay nợ ngắn hạn của chính phủ, nhằm bù đắp thâm hụt ngân
sách tạm thời.
Những công cụ vay nợ ngắn hạn này của chính phủ thường được phát hành với kỳ
hạn thanh toán 3, 6 và 12 tháng. Chúng được trả lãi với mức lãi suất cố định và được
hoàn trả vốn khi đến hạn thanh toán hoặc trả trước.
Tin phiếu kho bạc là loại lỏng nhất trong tất cả các công cụ trên thị trường tiền tệ,
do vậy, chúng được mua bán nhiều nhất. Chúng cũng là loại công cụ an tồn nhất
trong tất cả các loại cơng cụ ở thị trường tiến tệ vì đây là khoản chính phủ vay. Để trả
nợ chính phủ có thế bằng cách tăng thuế hoặc phát hành giấy bạc.
Tin phiếu kho bạc chủ yếu do các ngân hàng nắm giữ, cũng có một lượng nhỏ các
hộ gia đình, các cơng ty và các trung gian tài chính khác nắm giữ.

b. Giấy chứng nhận tiền gửi của ngân hàng
Giấy chứng nhận tiền gửi là một công cụ vay nợ do Ngân hàng trường cấp 2 và
như thương mại bán cho người gửi tiền. Người gửi được thanh toán lãi hàng năm
theo một tỷ lệ nhất định và khi đến kỳ hạn thanh toán thì hồn trả gốc theo giá mua
ban đầu.
Hiện nay cơng cụ này được hầu hết các ngân hàng thương mại lớn phát hành và thu
được thành công to lớn, với tổng số dư gần đây vượt quá tổng số dư của tín phiếu kho
bạc. Chúng là nguồn vốn đặc quan trọng mà những ngân hàng thương mại thu hút
được từ các công ty, các quỹ tương trợ thị trường tiền tệ, các tổ chức từ thiện và các cơ
quan của chính phủ.

c. Thương phiếu
Thương phiếu là cơng cụ vay nợ ngắn hạn do các ngân hàng lớn và các công ty nổi
tiếng phát hành. Trước đây các công ty thường vay vốn ngắn hạn ở các ngân hàng
thương mại, nhưng sau đó họ dựa chủ yếu vào việc bán thương phiếu cho các trung gian
tài chính và các cơng ty khác để vay vốn tức thời, tức là họ đã thực hiện hoạt

4



động tài chính trực tiếp.

d. Hồi phiếu được ngân hàng chấp thuận
Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận là một hối phiếu ngân hàng (sự hứa hẹn
thanh toán tương tự một tấm séc) do một công ty phát t hành, được thanh toán trong
thời hạn sắp tới và được ngân hàng bảo vi đảm với một khoản lệ phí bằng cách ngân
hàng đóng dấu "đã chấp nhận" lên hối phiếu.
Cơng ty phát hành hối phiếu phải gửi món tiền bắt buộc vào tài h khoản của mình
tại ngân hàng để đủ trả cho hối phiếu.
Nếu cơng ty khơng có khả năng thanh tốn thì ngân hàng buộc in phải thanh tốn
theo số tiền đã ghi trên hối phiếu Cơng ty phát hành m hối phiếu có thêm khả năng
được chấp nhận khi mua hàng hố ở nước ngồi vì nhà xuất khẩu ngoại quốc biết
rằng ngay cả trường hợp công ty đã phá sản thì hối phiếu vẫn được ngân hàng thanh
toán đầy đủ.
Các hối phiếu "đã chấp nhận" này thường được bán lại ở thị trường cấp 2 và
như vậy, nó có tác dụng tương tự như tín phiếu kho bạc.

II. Các công cụ trên thị trường vốn
Các công cụ trên thị trường vốn là các công cụ nợ và cổ phiếu, với kỳ hạn trên một
năm hay vô hạn, Khác với các công cụ trên thị trường tiền tệ, các cơng cụ thị trường
vốn có độ dao động lớn hơn nhiều, Do vậy mức độ rủi ro lớn và lợi tức thường cao.

a. Cổ phiếu
Cổ phiếu là trái phiếu quyền về vốn đối với thu nhập ròng và tài sản của một
cơng ty, Tức là nó chứng thực quyền sở hữu một phần của công ty và quyền được
chia cổ tức.
Cổ phiếu có thể được chia làm 2 loại :
+ Cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu có thu nhập không ổn định, lợi tức biến

động tuỳ theo sự biến động lợi nhuận của công ty.
Tuy nhiên, thị giá cổ phiếu lại rất nhạy cảm trên thị trường, khơng chỉ phụ thuộc vào
lợi nhuận cơng ty mà cịn rất nhiều nhân tố khác như môi trường kinh tế, thay đổi lãi
suất, hay nói cách khác là nó tuân theo quy luật cung câu cụ thể hơn nữa , Thị giá cổ
phiếu thông thường phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế nói chung và biến động theo chiều
nghịch với biến động lãi suất của trái phiếu chính phủ, của các công cụ vay nợ dài hạn lãi
suất cố định và lãi suất huy động tiền gửi của ngân hàng ( Vì Khi lãi suất của những cái
này tăng thì người ta ít mua cổ phiếu lên giá trị trên thị trường giảm).
+
Cổ phiếu ưu đãi : Là loại cổ phiếu có quyền nhận được thu nhập cố định
theo tỷ

5


lệ lãi suất nhất định , Không phụ thuộc vào lợi nhuận của công ty.
Như vậy, việc đầu tư vào cổ phiếu không chỉ đơn giản là nhận được cổ tức, mà
quan trọng hơn chính là giá cổ phiếu được mua bán trên thị trường dao động mang lại
lợi nhuận nhiều hơn số cổ tức thu được. Khi cổ phiếu của công ty được nhiều người
mua, chứng tỏ thị trường tin tưởng vào hiện tại và khả năng phát triển của công ty
trong tương lai và ngược lại.

b. Vay thế chấp
Vay thế chấp là những món tiền cho các cá nhân hoặc công ty kinh doanh vay để
đầu tư và để vay được tiền thì người đi vay phải thế chấp tài sản hoặc những giấy tờ
nào đó.
Hình thức này chiếm được một phần lớn trong nguồn tài trợ của các cơng ty, thậm
chí cịn chiếm một tỷ trọng lớn tại các nước phát triển.Người cho vay hàng đầu trong lĩnh
vực này là ngân hàng và cách thức tiết kiệm. Những tổ chức cung cấp vốn cho thị trường
vay thế chấp bằng cách bán tài khoản và dùng tiền để mua các món thế chấp.


c.

Trái khốn cơng ty

Trái qn cơng ty là loại trái khốn dài hạn, do các cơng ty phát hành với lãi suất
cao, giúp công ty huy động khối lượng vốn lớn trong một khoảng thời gian ngắn.
Ngồi ra, tài khoản cơng ty cịn có khả năng chuyển đổi, và một số loại có thể chuyển
thành cổ phiếu. Do vậy trái khoản công ty là một công cụ được lưu hành rộng rãi trên
thị trường vốn.

d. Chứng khốn chính phủ
Chứng khốn chính phủ là các cơng cụ vay nợ do chính phủ phát hành: trái phiếu
kho bạc nhà nước, tín phiếu kho bạc nhà nước, cơng trái quốc gia.

PHẦN 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
HIỆN NAY CỦA CÁC CƠNG CỤ THỊ
TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
A. CÁC CƠNG CỤ CỦA THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
I. TÍN PHIẾU KHO BẠC NHÀ NƯỚC

1. Thực trạng :
- Ngày 1 - 4 - 1990 ở Việt Nam mới hình thành KBNN. Khi đó chính

6


phủ giao cho kho bạc nhiệm vụ phát hành tín phiếu với thời gian 3 tháng.
Nhưng ngân sách vẫn mất cân đối Chính phủ đã phải phát hành tiếp có đợt số
thuế mới phục vụ cho trả nợ cũ chiếm tới 60 - 75%. Hiện tại TP KBNN Việt

Nam vẫn là một cơng cụ vay nợ ngắn hạn với chính phủ để bù đắp thâm hụt
ngân sách tạm thời. Với tình hình chính trị ổn định ở Việt Nam cùng với các
biện pháp trả nợ của chính phủ thì TPKBNN đảm bảo độ an toàn cao, mức lãi
suất phù hợp, thế nhưng năm 1990, lãi suất KBNN lại lớn hơn lãi suất tiền gửi
tiết kiệm ngân hàng. Vì trong thời gian đầu khi KBNN phát hành TPKB, dân
chúng chưa biết nhiều, họ vẫn quen gửi tiết kiệm vì vậy để hấp dẫn dân chúng
thì lãi suất TPKB tăng lên. Mặt khác lúc đó nhu cầu vay của chính phủ lớn để bù
đắp thâm hụt ngân sách. Hiện nay thì TPKB có lãi suất nhỏ hơn lãi suất tiền gửi
ngân hàng.
Nhìn chung những năm gần đây thị trường đấu thầu TPKB có nhiều
mới mẻ, đặc biệt 1998 KBNN phối hợp với NHNN tổ chức được 46 phiên
đấu thầu loại kỳ hạn 1 năm tăng 9 lần so 1997. Năm 1998 là năm khá sôi
động, thành công của thị trường đấu thầu TPKB. Cho đến năm 2000 thị
trường đấu thầu TPKBNN đã hoạt động thường xun, góp phần hồn thiện
thị trường tài chính ở nước ta. Đến tháng 10/2000 đã có 47 thành viên tham
gia thị trường. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các “ phiên chợ ”
đấu thầu TPKB vẫn cịn kém sơi động. Nhận diện các thành phần tham dự
thầu hầu hết chỉ có NHTM quốc doanh và các cơng ty bảo hiểm, rất ít NHTM
cổ phần tham dự và khơng có NH liên doanh hay chi nhánh NH nước ngoài
tham gia. Về lãi suất trúng thầu đã giảm từ 6 %/ năm trong phiên thứ nhất
xuống 5,95%; 5,88%; 5,7% trong các phiên tiếp theo. Và từ ngày 12/6 năm
2000 đến nay, lãi suất trúng thầu chỉ giao động quanh mức 4,95% - 5,10%/
năm. Qua hoạt động của thị trường này, cùng với thị trường mở mua bán
TPKB và TTCK, nơi phát hành trái phiếu chính phủ..... sẽ làm tăng tính linh
hoạt chu chuyển vốn trong nền kinh tế, góp phần cho NHNN hồn thiện
cơ chế điều hành lãi suất cơ bản.
* Những tích cực trong việc phát hành TPKBNN và trong hoạt động
của thị trường đấu thầu TPKBNN :
Với mức lãi suất thấp nhưng TPKBNN có độ an toàn gần như tuyệt đối, mức
rủi ro rất thấp. Có tính lỏng cao nhất trong số các cơng cụ nợ ngắn hạn. Do

đó dễ thu hút đầu tư của các nhà đầu tư vào TPKB. Trong những năm gần
đây thị trường TPKB hoạt động sơi động có hiệu quả giúp nhà nước đã tiết

7


kiệm được hàng tỷ đồng từ khoản chênh lệch lãi suất giữa phát hành trực tiếp
và qua đấu thầu, thị trường này đã dần dần đi vào ổn định, nề nếp, tổ chức
đấu thầu đã đựơc duy trì khá tốt, tổ chức một phiên đấu thầu trên 1 tuần. *
Những tồn tại hạn chế trong thị trường đấu thầu TPKB :
Các thành viên tham gia là còn hạn chế, KBNN, NHNN vẫn chưa tìm được
phương thức hữu hiệu nhất thu hút vốn thích hợp để có thể tăng khối lượng
thành viên tham gia và trúng thầu lên cao hơn trên cơ sở đó tăng khối lượng
KBNN đưa ra đấu thầu. Thị trường thứ cấp nơi diễn ra việc mua đi bán lại
TPKB đã phát hành lần đầu qua đấu thầu là chưa hoạt động.Việc thanh tốn
lãi suất TPKB cịn cứng nhắc chưa linh hoạt.
II. CÁC CHỨNG CHỈ TIỀN GỬI
Ở Việt Nam hiện nay chưa có một thị trường thứ cấp phát triển nên
mặc dù chứng chỉ tiền gửi ngân hàng đã có nhưng chưa phát triển. Vì vậy
biện pháp hữu hiệu nhất để chứng chỉ tiền gửi ngân hàng phát triển được
thì một địi hỏi khơng thể thiếu là phải có một thị trường thứ cấp phát triển.
III. CÁC THƯƠNG PHIẾU
1. Thực trạng :
- Ở Việt Nam đã ra đời kỳ phiếu thương mại, phát triển theo luật lệ nhà nước
nhưng chưa ở mức độ phổ biến rộng rãi. Để tạo môi trường cho sự tồn tại và
phát triển của thương phiếu trong điện hoạt ngân hàng còn sơ khai vốn tự có của
nền sản xuất thấp, từ năm 1995 việc soạn thảo pháp lệnh thương phiếu đã được
đề cập đến nhưng phải đến tháng 6/1999 dự thảo pháp lệnh thương phiếu mới
được trình lên để UBTVQH thơng qua. Được kiến nghị định hướng dẫn chi tiết
PLTP được bắt đầu soạn thảo từ tháng 1/ 2000 với sự phối hợp của Bộ tài chính,

Bộ Tư pháp, Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Văn phịng Chính phủ.
Bên cạnh kỳ phiếu thương mại cịn có hối phiếu, ngày nay vẫn đang tồn tại và
thường được sử dụng trong quan hệ XNK.
- Những tồn tại tích cực trong khi lưu hành thương phiếu là một
phương tiện thanh toán, thương phiếu có tác dụng khơng thể phủ nhận là
thúc đẩy kinh doanh, mở rộng sản xuất trong nền kinh tế thị trường với đặc
trưng cơ bản là khan hiếm tiền tệ
Hạn chế sự lệch pha giữa nhu cầu và khả năng thanh khoản cũng như
giúp giảm sự hạn chế về khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng ngân hàng
của các đơn vị kinh tế.
Đi cùng với sự ra đời, phát triển của thương phiếu cũng là sự xuất hiện

8


và phát triển của thị trường thứ cấp, thị trường chiết khấu của NHTM và
thị trường tái chiết khấu của NHNN với các thương phiếu.
Thương phiếu giúp chủ sở hữu nó và các tác nhân trong nền kinh tế
thực hiện được mục tiêu lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Họ đến
với nhau và cùng thoả mãn nhu cầu bằng cách giao dịch ( mua - bán )
thương phiếu trên thị trường cấp 2.
Thương phiếu có tác dụng tích cực đối với hệ thống ngân hàng, hạn chế
bành trướng tín dụng ngân hàng, bảo đảm khan hiếm tiền tệ trong tồn bộ
nền kinh tế, góp phần thực hiện cân đối tiền hàng trên thị trường thương
phiếu. Ngân hàng sẽ có thêm một loại hình tài sản để đa dạng hố loại hình
hoạt động sử dụng vốn và tăng cường điều tiết vốn khả dụng. Giúp NHNN
thực hiện vai trò điều tiết trong điều kiện khan hiếm tiền tệ...
- Sự cần thiết và điều kiện cho việc lưu hành thương phiếu :
Do các kênh tạo nguồn vốn khác chưa phát triển cao do đó mọi nhu cầu
về vốn tạm thời cũng như nhu cầu về vốn đầu tư phát triển đều đổ dồn vào hệ

thống ngân hàng dẫn đến bành trướng tín dụng ngân hàng, chiếm dụng vốn giữa
các đơn vị đầu tư diễn ra trong nền kinh tế. Cùng với việc chưa có một khung
cơ sở pháp lý thích hợp nên tình trạng chiếm dụng vốn chưa được giải quyết ổn
thoả dẫn đến kém hiệu quả của một số đơn vị kinh tế và ảnh hưởng
đến hiệu quả củavà đổi mới hệ thống ngân hàng gây khó khăn cho việc hoạch định
và điều hành chính sách tiền tệ.
Điều kiện cho việc thương phiếu lưu hành : 1/ trên thị thị trường phải
tồn tại các nhu cầu về thương phiếu; 2/ khả năng trả nợ của con nợ đối với
thương phiếu phải được đảm bảo; 3/ thương phiếu phải có tính chuyển
nhượng; 4/ thương phiếu có thể cầm cố để vay ngân hàng hay đem chiết
khấu ở Ngân hàng.
IV. CÁC KỲ PHIẾU NGÂN HÀNG
Ở Việt Nam NHNN đã có thể phát hành kỳ phiếu ngân hàng và có quy
chế phát hành ngày 23/10/1999. Chúng thực chất là một công cụ vay nợ ngắn
hạn của NHTM để thu hút vốn phục vụ kinh doanh ngắn hạn của mình, vay
mang tính chất chủ động của NHTM. Có trường hợp NHTW phát hành kỳ
phiếu để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia ( thu hồi lượng tiền trực tiếp từ
NHTM về ). Hiện nay ở Việt Nam mệnh giá lớn tối thiểu là 100 triệu đồng
/ kỳ phiếu ngân hàng. Chúng được mua bán trên cơ sở tự nguyện trong trường
hợp cần thiết thì hệ thống NHNN bắt buộc phát hành cho NHTM để điều

9


hành chính sách tiền tệ quốc gia.

B. CÁC CƠNG CỤ THỊ TRƯỜNG VỐN
I. CỔ PHIẾU CƠNG TY :
Các cơng ty cổ phần và doanh nghiệp nhà nước ( DNNN ) ở Việt Nam
có quyền phát hành cổ phiếu theo quy định của luật cơng ty và luật DNNN

ngày 17/9/1994, chính phủ ban hành quy chế tạm thời về phát hành cổ phiếu,
trái phiếu của DNNN. Hiện tại đã có hơn 500 công ty cổ phần và khoảng hơn
6000 DNNN trong đó chỉ có vài trăm doanh nghiệp có cổ phiếu. Nhưng đa số
những cổ phiếu này được đông đảo những cổ đông nắm giữ như những chứng
chỉ sở hữu, chứ ít đưa vào lưu thông. Trên TTCK hiện nay với hơn 500 công
ty cổ phần như thế nhưng mới chỉ có 5 cơng ty đã có giấy phép niêm yết cổ
phiếu : SAM - REE - TMS - SECOM - HAP. Cịn một số cơng ty đã đủ điều
kiện niêm yết nhưng khơng niêm yết vì nhiều lý do khách quan, họ chưa có
nhu cầu hoặc chưa thấy lợi ích của việc niêm yết. Hoặc có cơng ty muốn
niêm yết nhưng chưa đủ điều kiện để niêm yết.
Hiện nay mặc dù TTCK đã đi vào hoạt động đã hút được sự quan tâm
của công chúng đầu tư nhưng việc mua bán cổ phiếu trên thị trường tự do
vẫn không ngừng sôi động với đủ loại cổ phiếu được giao dịch so với 5 loại
cổ phiếu và 2 loại trái phiếu giao dịch trên thị trường chính thức, ở thị trường
tự do có đến gần 60 loại cổ phiếu được mua bán. Các giao dịch khơng chính
thức này được thực hiện dưới nhiều dạng : qua môi giới, các mục rao vặt,
mạng internet, hay ở những quán cà phê... Một điểm đáng ghi nhận khác là
trên cả thị trường chính thức lẫn khơng chính thức, hiện nay chỉ mới dừng lại
ở việc mua đi bán lại, giá cổ phiếu có tăng nhưng thực vốn đưa vào cơng ty
làm ăn thì chỉ tăng trên danh nghĩa. Tất cả những công ty hiện nay chưa huy
động thêm một đồng vốn nào vào mở rộng sản xuất hay kinh doanh. Theo
các chuyên gia chứng khốn, chính những bất ổn này sẽ khiến cho việc mua
bán cổ phiếu hiện nay, đặc biệt là trên thị trường khơng chính thức, có nhiều
bấp bênh và đầy tính rủi ro.
Sự non yếu trong thị trường vốn, sự thiếu vốn đầu tư trong một số công ty và
cho các dự án lớn dẫn đến phải phát hành cổ phiếu để tạo ra vốn cho SXKD,
cho các dự án quốc gia. Tuy nhiên số lượng cổ phiếu này được phát hành hạn
chế, quy mô nhỏ, không công khai. Chẳng hạn năm 1997, SECOM đã phát
hành 240.000 cổ phiếu với mệnh giá 500.000đ nhờ đó mà tăng được tài sản lên
10 lần ( trong số đó Nhà nước đã mua 51% giá trị cổ phiếu, những


10


người lao động trong công ty mua 15%. Tổng công ty bưu chính viễn thơng
mua 32% và 2% cịn lại được bán cho công chúng.
Các ngân hàng cổ phần ở Việt Nam đa số cổ phiếu là của NHTM quốc
doanh lớn, của các tổng cơng ty và chỉ có một phần nhỏ do cá nhân nắm giữ.
Một số ngân hàng và tổng công ty đã phát hành cổ phiếu ra công chúng, các
phương pháp chào bán tương tự như quảng cáo, tiếp thị bán hàng, không áp
dụng hệ thống thông tin cơng khai nên làm giảm lịng tin của cơng chúng
vào hiệu năng cuả ngân hàng.
Việc cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam còn diễn ra chậm chạp. Đến cuối tháng
1/1998 mới có 20 DNN thực hiện được cổ phần. Nguyên nhân do : 1/ do nhận
thức vẫn còn tư tưởng sợ “ Chệnh hướng XHCN ”. 2/ Cán bộ lãnh đạo và
cơng nhân viên các doanh nghiệp cịn nhiều băn khoăn lo lắng về vị trí cơng
tác, việc làm, thu nhập, đời sống khi thực hiện cổ phần hoá. 3/ Một số văn
bản pháp quy ban hành còn chậm chạp, thủ tục, chế độ cho công ty cổ phần
chưa thoả đáng. 4/ tỷ lệ cổ phần giành cho XH q ít, truyền bá chưa sâu
rộng. 5/ Mơi trường kinh tế chưa đầy đủ.
Vấn đề định giá doanh nghiệp, xác định mệnh giá cổ phiếu, số cổ phiếu phát
hành cần được xem xét lại toàn diện. Cổ phiếu hiện nay thường có một số
đặc điểm : 1/ mệnh giá 10.000đ; 2/ cổ phiếu có nhiều loại cổ phiếu ưu đãi,
cổ phiếu thường.... Việc định giá cần phải định giá chính xác giá trị hữu hình
của doanh nghiệp ( tài sản cố định, tài sản lưu động, vốn tự có ) bên cạnh cả
về giá trị vơ hình của doanh nghiệp. Thực tế việc đánh giá trên còn chưa
đầy đủ nên chưa sát với giá trị thực tế dẫn đến việc xác định mệnh giá, số
lượng cổ phiếu chưa được phù hợp.
Vấn đề về phân chia cổ tức đối với các công ty cổ phần cần phân biệt
được thị giá cổ phiếu khác trị giá cổ phiếu làm cơ sở cho việc tính tốn cổ

tức hàng năm, nên đưa vấn đề này đặt ra trước UB CKNN.
II. TRÁI PHIẾU :
* Căn cứ vào mục đích phát hành và người phát hành có trái
phiếu chính phủ và trái phiếu cơng ty.
2.
Trái phiếu chính phủ :
Ở Việt Nam được phát hành đầu những năm 90 bao gồm trái phiếu
KBNN và trái phiếu công trình. Trái phiếu KBNN được giao cho KBNN phát
hành, trái phiếu cơng trình là rất ít, chính phủ cho quy định các địa phương tự
quản lý điều hành ngân sách của mình bằng thuế, thu nhập khác. Trong

11


trường hợp địa phương xây dựng cơng trình lớn dẫn đến thâm hụt ngân sách
lớn thì chính phủ cho địa phương phát hành trái phiếu cơng trình, những
năm sau địa phương tự cân đối ngân sách.
Phần lãi mua trái phiếu chưa bị đánh thuế thu nhập ở Việt Nam. Việc
phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường trong nước và quốc tế dựa trên
những cơ sở pháp lý sau : 1/ Nghị định số 72 - CP ngày 26/7/1994 của chính
phủ về việc ban hành quy chế phát hành trái phiếu chính phủ; 2/ Nghị định số
23 - CP ngày 22/3/1995 của chính phủ về việc phát hành trái phiếu quốc tế; 3/
Các quy định thông tư khác liên quan đến việc phát hành và thanh toán trái
phiếu CP như thông tư số 75 - TC - KBNN ngày 14/9/1994 của Bộ Tài Chính.
Quyết định số 1179 - TC - KBNN ngày 5/12/1994 của Bộ Tài Chính.
Hiện nay trái phiếu CP có những đặc điểm chủ yếu sau : 1/ mệnh giá tối
thiểu là 1 triệu đồng do CP quyết định và công bố; 2/ kỳ hạn ngắn 1 tháng,
2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, gần đây là 2 hoặc 3 năm; 3/ trái
phiếu CP có thể chiết khấu với giá thấp hơn mệnh giá.
Với mục đích thực hiện CSTT, NHNN Việt Nam tham gia vào thị

trường này với tư cách vừa là người quản lý vừa là người tham gia thị trường.
Tất cả các hoạt động đấu thầu liên quan đến trái phiếu CP được thực hiện với
sự giám sát của ban đấu thấu bao gồm 2 đại diện cả KBNN và 2 đại diện của
NHNN theo quy chế đấu thầu trái phiếu CP. Để được tham gia vào thị trường
này các thành viên phải đáp ứng : 1/ có quy chế pháp nhân theo pháp luật Việt
Nam; 2/ có tài khoản tiền Việt và tài khoản tín phiếu KBNN ở sở giao dịch
của NHNN hay một chi nhánh của NHNN; 3/ có ít nhất 20 tỷ đồng vốn điều
lệ; 4/ có một khoản tiền gửi ít nhất bằng 50% giá trị đấu thầu tại NHNN. Một
số kết quả hoạt động phát hành trái phiếu CP đạt được :
Khối lượng phát hành ngày càng tăng, số lượng tín phiếu và trái
phiếu đăng ký phát hành tăng lên một cách liên tục : năm 1996 bằng 37,9
lần so với năm 1991.
Bước sang quý I/ 1998 thị trường đấu thầu trái phiếu KBNN rơi
vào tình trạng “ buồn tẻ ”. Trong cả tháng 2 mới tổ chức được 3 phiếu đấu
thầu với giá trị bán được có 17 tỷ đồng.
Lãi suất của trái phiếu KB được ghi nhận cao nhất ở mức 2,1%
tháng tức là 25,2% năm vào cuối năm 1993, một lãi suất chưa từng có trên thế
giới. Nhưng đối với trái phiếu CP bước đầu thực hiện khác thành cơng trong các
cơng trình lớn, trọng điểm quốc gia như cơng trình đường dây 500KV,

12


đường Nguyễn Tất Thành...
Hiện tại thời hạn của trái phiếu CP thay đổi theo hướng tích cực chuyển dần
từ loại ngắn hạn 3 - 6 tháng sang 2 - 3 năm. Trong năm 1996 có tới 98% số
phát hành là loại 1 năm trở lên. Từ năm 1997 chỉ phát hành loại 1 - 2 năm,
lãi suất trái phiếu KB đã gắn liền với điều kiện thị trường, trong những năm
gần đây có xu hướng giảm dần theo xu hướng thị trường góp phần làm giảm
gánh nặng trả lãi cho NSNN. Phương thức phát hành và thanh toán được cải

tiến từng bước, các hình thức thanh tốn lãi suất cũng đa dạng hơn như thanh
toán định kỳ, thanh toán lãi trước.... Đặc biệt đã cho phát hành loại trái phiếu
vô danh, in sẵn mệnh giá và được thanh toán trong cả nước. 2. Trái phiếu cơng ty :
- Tính khách quan cho sự ra đời của trái phiếu công ty ở thị trường Việt Nam,
trong cơ chế thị trường tuỳ theo tính chất của ngành nghề kinh doanh, khả
năng tự lực mà các doanh nghiệp có thể khai thác nguồn vốn bằng nhiều biện
pháp. Các doanh nghiệp có thể tăng nguồn vốn từ vốn tự có, điều này chỉ có
thể tiến hành đối với doanh nghiệp làm ăn tốt, các doanh nghiệp vay vốn ngân
hàng, coi ngân hàng là bà đỡ cho sự phát triển của mình. Tuy nhiên, điều quan
trọng nhất ở đây là bản thân doanh nghiệp phải có dự án kinh tế khả thi, mặt
khác ngân hàng phải thẩm định chắc chắn đối với người vay về tài sản tài
chính, tình hình SXKD... và giám sát chặt chẽ trước và sau khi cho vay. Một
số doanh nghiệp đã có nhiều cách khác nhau để huy động vốn như huy động
từ cán bộ công nhân viên, làm đại lý.... nhưng phương thức đó gặp nhiều khó
khăn. Trong khi đó phát hành trái phiếu ( TPDN ) là cần thiết và cấp bách
TPDN là những chứng khoán nợ chứng nhận một nghĩa vụ trả nợ theo hợp
đồng của doanh nghiệp đối với người sở hữu trái phiếu.
Quyền và nghĩa vụ của bên bán TPDN : buộc doanh nghiệp phải có
trách nhiệm cao trong việc sử dụng vốn và hồn trả vốn, lãi cho trái chủ một
cách hợp pháp đúng như cam kết. Cách huy động này đòi hỏi các doanh
nghiệp phải làm chủ được lập các dự án vay vốn, sử dụng vốn và cơng tác
khác như kế tốn, kiểm tốn, tài chính.... với những khoản vay lớn vượt quá
khả năng đảm bảo của DN thì các DN phải có người bảo lãnh địi hỏi DN phải
có mối quan hệ rộng, thường xuyên với giới tài chính - ngân hàng, bộ ngành
chủ quản, khách hàng,thị trường....
- Bên mua : TPDN đem lại nhiều lợi ích cho trái chủ. Vì TPDN có rất nhiều
loại nên họ có thể lựa chọn tuỳ theo mục đích và khả năng của mình. TPDN
mang tính rủi ro thấp hơn cổ phiếu. TPDN cho phép người đầu tư rút

13



ra khỏi loại đầu tư bằng cách bán chúng ra trên thị trường bất cứ lúc nào.
Ở Việt Nam hiện nay đã xuất hiện những yếu tố cần thiết cho các doanh
nghiệp phát hành trái phiếu. Trong những năm qua bản thân các DNNN,
CTCP, DNLD cũng đã sử dụng cách gọi vốn này để thực hiện được các mục
tiêu cụ thể của mình. Luật cơng ty, luật DNNN, luật NHNN, luật các tổ chức
tín dụng, Nghị định 20 - CP ngày 17/9/1994 của Chính phủ ban hành quy chế
tạm thời về việc phát hành TP, cổ phiếu DNNN. Quyết định số 211 - QĐ NH1 ngày 22/ 9/ 1994 của thống đốc NHNN.... là khuôn khổ pháp lý cho
việc phát hành các loại trái phiếu ở Việt Nam.
Hoạt động phát hành TPDN ở Việt Nam hiện nay có đặc điểm là tồn tại duy
nhất thị trường sơ cấp, tại đó chỉ có một phần TPDN được phép thanh tốn
trước thời hạn trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm, thời
hạn ngắn ( TPDN thời hạn dài nhất hiện nay mới chỉ có 5 năm, tỷ trọng trái
phiếu doanh nghiệp của các công ty kinh doanh rất nhỏ ( khoảng 9% ) so với
các trái phiếu do ngân hàng phát hành, hình thức phát hành thì “ Sơ đẳng ”
( chủ yếu các DN bán TPDN trực tiếp )

PHẦN 3: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA SỰ
PHÁT TRIỂN CÁC ƠNG CỤ THỊ TRƯỜNG
TÀI CHÍNH VIỆT NAM
I.

Cơ hội cho thị trường tài chính

Bối cảnh hội nhập sâu rộng, buộc Việt Nam phải mở cửa thị trường, trong đó có thị
trường tài chính (TTTC). Chính phủ giảm dần sự can thiệp trực tiếp vào thị trường và
các chủ thể tham gia thị trường buộc phải nâng cao năng lực cạnh tranh. Theo đó, thị
trường sẽ trở nên sơi động hơn, các chi phí giao dịch giảm, các dự án được ưu tiên
nguồn vốn sẽ phải giảm dần và chuyển sang những khoản đầu tư có lợi nhuận cao

hơn, góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế. TTTC sẽ đứng
trước các cơ hội cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng:
- Tiếp cận với thị trường rộng hơn: Luồng vốn chu chuyển qua hệ thống tài chính,
ngân hàng gia tăng do các doanh nghiệp (DN) nội địa có nhiều cơ hội thâm nhập vào
thị trường hàng hóa quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu. Các nhà đầu tư, DN quốc tế cũng
có nhiều cơ hội tiếp cận và xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Việt Nam.
- Môi trường kinh doanh lành mạnh và hiệu quả hơn: Hội nhập cũng buộc các DN
phải đổi mới tư duy, nâng cao năng lực và kinh doanh có hiệu quả hơn, từ đó, giảm

14


thiểu được mức độ rủi ro trong môi trường kinh doanh, hoạt động của các ngân
hàng sẽ an toàn, lành mạnh và hiệu quả hơn.
- Nâng cao năng lực quản trị, điều hành đối với ngân hàng thương mại (NHTM):
Các cam kết song phương và đa phương là kết quả của hội nhập sẽ dẫn tới việc mở
rộng thị trường dịch vụ ngân hàng. Hệ thống tài chính Việt Nam sẽ đón nhận thêm các
ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh… Các ngân hàng
và các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam nhờ đó cũng sẽ có điều kiện học hỏi kinh
nghiệm, nâng cao trình độ công nghệ và quản trị ngân hàng thông qua liên kết, hỗ trợ
về tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức mới của các ngân hàng nước ngoài và các tổ
chức tài chính quốc tế.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành của Ngân hàng Nhà nước (NHNN): Hệ
thống NHTM và thị trường tiền tệ hoạt động hiệu quả và an tồn góp phần quan trọng
tạo mơi trường hoạt động hữu hiệu cho chính sách tiền tệ.
Thứ hai, đối với thị trường chứng khoán:
- Phát triển các định chế chứng khoán trung gian: Việc hội nhập và mở rộng tiếp
cận thị trường có thể thúc đẩy phát triển các định chế chứng khốn trung gian, thúc
đẩy tính công khai, minh bạch và kỷ luật thị trường, qua đó thúc đẩy tăng cầu đầu tư

trên thị trường và tăng cung chứng khốn thơng qua bảo lãnh phát hành.
- Thu hút vốn đầu tư nước ngồi thơng qua thị trường chứng khoán (TTCK): Việc
hội nhập sẽ mở ra cơ hội thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm cả đầu tư
trực tiếp và đầu tư gián tiếp thơng qua TTCK. Với các u cầu cam kết có độ mở sâu
rộng trên nhiều lĩnh vực, quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam với các nước
khác dự kiến sẽ phát triển mạnh mẽ, từ đó kéo theo sự gia tăng dòng vốn đầu tư giữa
Việt Nam với quốc tế.
Thứ ba, đối với thị trường bảo hiểm:
- Gia tăng nhu cầu bảo hiểm ở nhiều ngành, nghề: Sự tăng trưởng đầu tư nước
ngoài và trong nước, xuất hiện nhiều ngành nghề mới, cơng nghệ cao như đóng tàu,
xây dựng đường tàu điện ngầm, xây dựng ngành điện tử, công nghệ thông tin, xây
dựng nhà máy lọc dầu, điện nguyên tử, vệ tinh, sản xuất linh kiện máy bay… đòi hỏi
ngành Bảo hiểm phải nghiên cứu sản phẩm để đáp ứng nhu cầu.
- Gia tăng nhu cầu bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm: Việc Việt Nam tham
gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) sẽ thúc đẩy tự do hóa thương mại hàng hóa,
dịch vụ giữa các nước thành viên, khuyến khích các hoạt động kinh doanh và đầu tư
vào các ngành kinh tế tăng trưởng mạnh. Theo đó, nhu cầu bảo hiểm phi nhân thọ, đặc
biệt là bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm cũng sẽ tăng cao.
- Gia tăng nhu cầu bảo hiểm y tế, giáo dục: Hội nhập buộc Nhà nước phải giảm
dần sự trợ cấp ở một số lĩnh vực. Xã hội hóa trong một số lĩnh vực như hoạt động thể
dục thể thao, y tế, văn hóa, giáo dục cũng kích thích nhu cầu tham gia bảo hiểm. Trợ
cấp của Nhà nước càng giảm, diễn biến thiên tai, tai nạn khó lường với mức độ ngày
càng tăng buộc người dân phải nghĩ tới bảo hiểm.

15


II.

Những thách thức


Bên cạnh những cơ hội, vấn đề hội nhập cũng đặt sự phát triển của TTTC Việt Nam
trước nhiều thách thức. Cụ thể như:
Một là, đối với hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng:
- Hệ thống pháp luật ngân hàng vẫn còn thiếu, chưa đồng bộ và phù hợp với thông
lệ quốc tế: Điều này đặt ra thách thức đối với NHNN trong việc sửa đổi, bổ sung, thay
thế pháp luật ngân hàng nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thơng thống
theo ngun tắc khơng phân biệt đối xử trong quá trình hội nhập. Việc mở cửa cũng sẽ
làm gia tăng những rủi ro cho thị trường do NHNN còn nhiều hạn chế trong điều hành
chính sách tiền tệ cũng như năng lực giám sát hoạt động.
- Áp lực cạnh tranh từ các NHTM nước ngoài: Hội nhập dẫn đến sự xuất hiện nhiều
ngân hàng nước ngồi với năng lực tài chính tốt, cơng nghệ, trình độ quản lý và hệ
thống sản phẩm đa dạng và có chất lượng cao hơn có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của
khách hàng. Lợi thế cạnh tranh đối với các TCTD trong nước theo đó có nguy cơ suy
giảm, trong khi số lượng các ngân hàng các nước trong khu vực và thế giới có tiềm
lực mạnh về tài chính, cơng nghệ và trình độ quản lý tham gia vào thị trường tài chính
nội địa ngày càng tăng.
- Sự yếu kém của hệ thống NHTM trong nước: Hệ thống NHTM nước ta hiện nay
có nhiều loại hình hoạt động và đa dạng về hình thức sở hữu, tuy nhiên quy mơ và
năng lực tài chính cịn rất nhỏ bé so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Các
sản phẩm tài chính và dịch vụ ngân hàng hiện chưa phủ hết các vùng miền lãnh thổ
và các loại hình sản xuất kinh doanh. Các TCTD chủ yếu tập trung ở thành phố và đô
thị lớn.
- Hệ thống NHTM Việt Nam hiện cũng đang phải đối diện với các thách thức khác:
Chất lượng nguồn nhân lực cịn nhiều bất cập, thiếu cán bộ có kỹ năng nghiệp vụ
cũng như quản trị điều hành và hoạch định chính sách, các chương trình đào tạo chưa
phù hợp với yêu cầu thực tế; Hệ thống thanh tra, giám sát và các quy định an tồn,
thận trọng cịn có khoảng cách xa với khu vực và thế giới. Chế độ báo cáo tài chính,
cơng khai tài chính của các TCTD nội địa cịn thấp và có khoảng cách khá xa so với
chuẩn mực quốc tế...

- Gia tăng rủi ro từ khách hàng: Mở cửa có thể dẫn tới phá sản và giải thể các doanh
nghiệp nội địa làm ăn không tốt, khơng có sức cạnh tranh. Điều này có thể làm tăng
rủi ro cho hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra, hạ tầng tài chính phát triển chưa đầy đủ
(cơng nghệ, hệ thống thanh toán, thị trường liên ngân hàng...) cũng là thách thức
không nhỏ để phát triển một khu vực ngân hàng ổn định.
Hai là, đối với thị trường chứng khốn:
Với hệ thống tài chính dựa nhiều vào hệ thống ngân hàng, quá trình phát triển của
TTCK trong giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn tới 2030 vẫn cịn đối diện khá nhiều
thách thức. Cụ thể như:
- Hệ thống pháp luật và mơi trường đầu tư cịn nhiều bất cập: Có thể nói đây là
thách thức lớn nhất đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn lạc hậu so với một số nước trong khu vực ASEAN,

16


làm chi phí đầu vào của DN tăng và ảnh hưởng đến mơi trường kinh doanh.
- TTCK cịn nhỏ và yếu: Quy mơ, cơ cấu, hàng hóa trên thị trường vẫn còn nhỏ so
với các nước trong khu vực; các yếu tố thị trường và các loại thị trường vẫn chưa phát
triển đồng bộ, đặc biệt là cơ chế giá thị trường đối với giá vốn (lãi suất, tỷ giá), giá
đất, giá cả hàng hóa, sức lao động (tiền lương, tiền công) và giá dịch vụ công. Thị
trường vốn, thị trường khoa học công nghệ, thị trường lao động… vẫn chưa có những
bước phát triển mạnh.
- Áp lực cạnh tranh của các cơng ty chứng khốn nước ngồi: Hiện Việt Nam chỉ
cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài hoạt động qua biên giới đối với các dịch
vụ chuyển thông tin, dịch vụ tư vấn và dịch vụ phụ trợ. Tuy nhiên, theo quy định của
pháp luật, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép thành lập hiện diện thương mại
dưới hình thức văn phịng đại diện và liên doanh. Chưa kể, dù giới hạn vốn góp của
nhà đầu tư nước ngồi vào các cơng ty chứng khốn, công ty quản lý quỹ hiện đang ở
tỷ lệ dưới 49% nhưng nhà đầu tư nước ngoài lại được phép thành lập cơng ty 100%

vốn đầu tư nước ngồi tại Việt Nam, thành lập chi nhánh của các công ty chứng khốn
nước ngồi tại Việt Nam và chỉ cung cấp một số dịch vụ nhất định.
Ba là, đối với thị trường bảo hiểm:
- Thị trường bảo hiểm Việt Nam đứng trước nhiều thách thức, điển hình như: Yếu
tố chủ quan từ các cơng ty, sự thiếu hồn thiện của hệ thống văn bản pháp luật và công
tác quản lý nhà nước đã và đang ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển lành mạnh của
ngành Bảo hiểm.
- Áp lực cạnh tranh của các cơng ty bảo hiểm nước ngồi: Q trình hội nhập cùng
cam kết mở cửa sẽ địi hỏi Việt Nam phải xóa bỏ các hạn chế trong lĩnh vực bảo hiểm,
chứng khoán, kế toán, kiểm toán ở mức ngang bằng với các nước thành viên khác của
các tổ chức, hiệp định mà Việt Nam tham gia.
- Sự yếu kém của các công ty bảo hiểm Việt Nam: Kênh phân phối sản phẩm bảo
hiểm đã và đang bộc lộ nhiều yếu kém. Sau thời gian tăng trưởng nhanh và mở rộng
kênh phân phối qua các đại lý, có nghĩa là cứ tăng đại lý là tăng doanh thu nên
nhiều DN bảo hiểm không quan tâm đến chất lượng tuyển chọn đào tạo và sử dụng
đại lý. Các DN bảo hiểm phi nhân thọ khai thác chủ yếu từ cán bộ bảo hiểm, cạnh
tranh về phí bảo hiểm, tăng hoa hồng, tăng hỗ trợ cho đại lý, chưa xây dựng được
đội ngũ đại lý bảo hiểm phi nhân thọ mang tính chuyên nghiệp.
+,Thị trường tài chính, ngân hàng chịu tác động bởi hệ lụy từ đại dịch Covid19
Do tác động của đại dịch Covid-19, nền kinh tế Việt Nam nói chung và lĩnh vực tài
chính, ngân hàng nói riêng khơng tránh khỏi những tác động tiêu cực, mặc dù Chính
phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm khắc
phục những tác động tiêu cực đó. Đối với thị trường tài chính, ngân hàng, các tác
động tiêu cực có thể kể đến như sau:
Thứ nhất: Trong tháng 8 đầu năm 2021, đợt dịch Covid-19 lần thứ tư (từ tháng
4/2021) vẫn diễn biến phức tạp khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước phải tiếp tục
thực hiện giãn cách, đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất nhập khẩu; thị trường

17



hàng hóa, sản xuất tiêu dùng trong nước bị thu hẹp, thu nhập người dân giảm mạnh.
Tín dụng tăng trưởng chậm do các ngân hàng thương mại (NHTM) thận trọng cho vay
vì thị trường, doanh nghiệp biến động mạnh. Nợ xấu khu vực có tâm dịch, thành phố
lớn tăng do khó khăn từ khối doanh nghiệp cầm cự với giãn cách xã hội và chống dịch
theo chỉ đạo của Chính phủ và chính quyền địa phương. Khả năng thanh tốn hạn chế
do doanh nghiệp ứ đọng hàng hóa, bất động sản đóng băng… đã ảnh hưởng trực tiếp
tới các NHTM.
Thứ hai: Các dòng vốn đầu tư biến động mạnh theo hướng tiêu cực, thị trường
chứng khoán bị tác động do ảnh hưởng lớn từ việc các nhà đầu tư nước ngồi bán
rịng, mặt khác, một lượng tiền mặt lớn đọng trong khối dân cư vì tâm lý tiêu cực do
dịch bệnh nên nắm giữ tiền mặt. Hoạt động đầu tư các dòng vốn mua cổ phần giảm
do chiến lược tăng vốn điều lệ của NHTM và ảnh hưởng của quá trình hiện đại hóa
hoạt động sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Tuy chỉ là tác động tạm thời nhưng đã ảnh
hưởng đến quản trị chiến lược của các NHTM.
Thứ ba: Hoạt động liên kết chuỗi kinh doanh các sản phẩm của NHTM bị gián đoạn,
đứt gãy hoạt động tạm thời, làm giảm đi đáng kể lượng khách hàng cũ và mới.

Thứ tư: Lãi suất, giá vàng và ngoại tệ mạnh trên thị trường quốc tế biến động
khó lường, tạo ra bất lợi cho thị trường kinh doanh ngoại hối.
Thứ năm: Với việc hoạt động sản xuất ngưng trệ, các doanh nghiệp có thể tạm thời
ngừng hoạt động. Theo Tổng cục Thống kê, trong 8 tháng đầu năm 2021, có 85,5 nghìn
doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải
thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm 2020, bao gồm: 43,2
nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 25,9% so với cùng kỳ năm
trước; 30,1 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 24,5%;
12,2 nghìn doanh nghiệp hồn tất thủ tục giải thể, tăng 17,8%. Trung bình mỗi tháng có
gần 10,7 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Theo đó, một số lượng lớn người lao
động ngưng việc hay thậm chí rơi vào trạng thái thất nghiệp. Sự mất mát trong thu nhập
sẽ khiến cho cầu của đối tượng này giảm mạnh. Ảnh hưởng kể trên sẽ đặc biệt nghiêm

trọng đối với những người nằm ngoài vùng phủ của bảo hiểm thất nghiệp. Một số ngành
chịu ảnh hưởng nặng nề, các doanh nghiệp (thuộc các lĩnh vực hàng khơng, du lịch,
thương mại, dịch vụ) có khả năng phá sản hàng loạt hậu Covid-19 sẽ ảnh hưởng lớn tới
nền kinh tế nói chung, lĩnh vực ngân hàng nói riêng.

Thứ sáu: Do biện pháp chống dịch được áp dụng chủ yếu là giải pháp cách ly xã
hội khiến nguồn cung lao động giảm mạnh, đặc biệt trong những khu vực đòi hỏi sự
cách ly trực tiếp lao động vào q trình sản xuất. Ngồi ra, với những vùng tâm dịch,
việc đóng cửa những hoạt động khơng thiết yếu, thực thi những quy tắc hạn chế đi
lại, khiến cho nhiều hoạt động sản xuất bị ngưng trệ, tác động gián tiếp đến hoạt động
cung cấp dịch vụ ngân hàng.
Thứ bảy: Trước tình hình dịch bệnh Covid-19 được kiểm sốt rồi lại bùng phát ở

18


Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, dịch bệnh khó có thể được kiểm sốt một cách
triệt để trên bình diện rộng, hoạt động sản xuất có thể rơi vào trạng thái “tắt/bật”
(on/off) trước những diễn tiến cụ thể của tình hình dịch bệnh. Điều này gây bị động
trong kế hoạch sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng đến nhu cầu vốn, do đó, ảnh
hưởng gián tiếp đến hoạt động ngân hàng ít nhất 2 đến 3 năm nữa.
Thứ tám: Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 gây ra tâm lý tiêu cực trong và sau
đại dịch khiến cho khách hàng tiêu dùng và nhà đầu tư có trạng thái tâm lý trì hỗn
tiêu dùng, khơng có nhu cầu vay vốn và đầu tư, điều này ảnh hưởng gián tiếp đến các
dịch vụ ngân hàng như Internet banking, giao dịch các sản phẩm ngân hàng… ảnh
hưởng lợi nhuận ròng từ tín dụng và phi tín dụng của ngân hàng.
Thứ chín: Sau đại dịch Covid-19, sự phá sản của các doanh nghiệp có thể tạo ra
khủng hoảng nợ, là tiền đề cho nợ xấu ngân hàng tăng và hệ lụy ảnh hưởng những
“đổ vỡ” trong hệ thống tài chính.


III. Đề xuất và khuyến nghị
Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Quá trình này diễn
ra ngày càng mạnh mẽ, thể hiện bằng những hiệp định, cam kết song phương và đa
phương giữa Việt Nam và các quốc gia khác. Việc mở cửa thị trường đã đặt ra nhiều
cơ hội và thách thức đối với TTTC Việt Nam. Bối cảnh trên đặt ra các yêu cầu về
khung pháp lý đối với TTTC Việt Nam như sau:
Một là, cần rà sốt tồn bộ các văn bản pháp lý về TTTC hiện có và chỉ ra các quy
định hiện hành tương thích và khơng tương thích với các nghĩa vụ của các hiệp định
để từ đó có kế hoạch điều chỉnh, bổ sung, thay thế cho phù hợp. Mục đích của việc rà
sốt, đối chiếu giữa hệ thống pháp luật hiện hành với các nghĩa vụ của hiệp định là để
xác định các biện pháp, chính sách khơng phù hợp với các nghĩa vụ đó.
Trên cơ sở rà soát khung pháp lý hiện đang áp dụng, cần rà sốt các cam kết quốc tế
có liên quan đến TTTC bao gồm, các hiệp định song phương, hiệp định đa phương liên
quan đến lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm và TTCK. Việt Nam cũng cần xây dựng và ban
hành một khung pháp lý thận trọng, phù hợp với thông lệ quốc tế, phòng ngừa rủi ro từ
các biến động của TTTC bên ngoài nhằm phát triển ổn định và bền vững hệ thống tài
chính và các định chế tài chính.
Hai là, yêu cầu về rà soát hệ thống pháp lý về TTTC hiện đang áp dụng để chuẩn bị
cho cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh theo yêu cầu của hội nhập. Việc áp dụng cơ
chế giải quyết tranh chấp trong các cam kết quốc tế sẽ tạo ra một số thách thức cho hệ
thống pháp lý về TTTC. Những thách thức này nảy sinh từ những khái niệm, nghĩa vụ
mới của các hiệp định mới sẽ được ký kết so với các hiệp định thương mại tự to mà
Việt Nam đã là thành viên. Giải pháp ổn định thị trường tài chính, ngân hàng thời kỳ
hậu Covid-19

19


Để chuẩn bị cho thời kỳ trong và hậu Covid- 19, góp phần phục
hồi nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn mới, cần đưa ra một số

khuyến nghị như sau:
Một là, trong giai đoạn hiện nay, vai trò chủ yếu của NHNN là đưa ra chính sách tiền
tệ đảm bảo hệ thống tài chính vận hành thơng suốt, duy trì khả năng thanh khoản của các
tổ chức tài chính, hỗ trợ khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Bộ Tài chính, Bộ Cơng
Thương, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (giải ngân vốn
dự án) cần tham mưu Chính phủ có các biện pháp tháo gỡ cho doanh nghiệp, các giải
pháp dân sinh thời kỳ trong và hậu Covid-19. Mặt khác, NHNN tiếp tục thường xuyên
nghiên cứu, dự báo, đánh giá tác động của dịch bệnh đối với nền kinh tế; bám sát diễn
biến thị trường để cập nhật, điều chỉnh các kịch bản điều hành chính sách tiền tệ, tín
dụng; chủ động điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, điều tiết
nghiệp vụ thị trường mở với kỳ hạn, khối lượng, lãi suất hợp lý và chuẩn bị các phương
án hỗ trợ khi cần thiết để đảm bảo thanh khoản thị trường thông suốt, cung ứng vốn kịp
thời, giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm sốt
lạm phát theo mục tiêu đề ra của Chính phủ.
Ngày 24/8/2021, tại Hà Nội, Ngân hang Thê giơi công bô Bao cao Điểm lại câp nhât
tinh hinh kinh tê Viêt Nam ấn bản tháng 8/2021. Theo báo cáo, trong tháng 7, doanh số
bán lẻ giảm 19,8% so cùng kỳ năm trước, là mức giảm lớn nhất kể từ tháng 4/2020, trong
khi Chỉ số sức mua hàng (PMI) cũng giảm đáng kể. Các chuỗi cung ứng và các khu công
nghiệp bị gián đoạn do đại dịch Covid-19 tái bùng phát diện rộng đã buộc các đơn vị xuất
khẩu phải tạm thời đóng cửa nhà máy hoặc đình hỗn sản xuất...
Bao cao nhận định, GDP Việt Nam dự kiến tăng trưởng khoảng 4,8% cho cả năm
2021, dự báo này thấp hơn hai điểm phần trăm so với dự báo do Ngân hàng Thế giới
đưa ra vào tháng 12/2020, có xét đến tác động tiêu cực của các đợt dịch Covid-19 đến
hoạt động kinh tế. Do vậy, nước ta sẽ phải đương đầu với các chỉ số tài chính “ốm
yếu” thời gian tới, do đó, các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, NHNN là cần thiết sao
cho không bị đổ vỡ hệ thống tài chính, ngân hàng với những hệ lụy trên.
Hai là, các NHTM tiếp tục chủ động cân đối, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn
phục vụ sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xét
duyệt hồ sơ vay vốn, nâng cao khả năng tiếp cận vốn vay của khách hàng; căn cứ tình
hình thực tiễn để kịp thời áp dụng các biện pháp hỗ trợ như cơ cấu lại thời hạn trả nợ,

miễn giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ, giảm phí đối với khách hàng khó khăn. Nhiều
doanh nghiệp bị ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19 đang phải đối mặt với việc sụt giảm
nguồn thu để bù đắp cho các chi phí khác hay hoạt động sản xuất kinh doanh vận hành
dưới mức bình thường. Bên cạnh đó, 43,4% doanh nghiệp trong số này gặp khó khăn do
khơng có nguồn thu; 39,4% khơng thực hiện được hoạt động sản xuất kinh doanh, chẳng
hạn, phải đóng cửa trường học, cơ sở sản xuất kinh doanh theo quy định để phịng, chống
dịch. Ngồi ra, 31,2% doanh nghiệp khơng tiêu thụ được hàng hóa sản xuất trong nước;
17,20% khơng xuất khẩu được. Các vấn đề về thiếu hụt vốn, thiếu hụt nguyên liệu sản
xuất cũng là một khó khăn lớn, đặc biệt nguồn nguyên liệu từ nhập

20


khẩu.
Ba là , theo Quyết định số 32/2020/QĐ-TTg ngày 19/10/2020 của Thủ tướng Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg ngày 24/4/2020 của
Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp
khó khăn do đại dịch Covid- 19 và Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của
Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp
khó khăn do đại dịch Covid-19; trên tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ban,
ngành đã khẩn trương nghiên cứu, xây dựng và ban hành các văn bản chỉ đạo cụ thể
trong từng lĩnh vực mà mình phụ trách, các NHTM tiếp tục triển khai thực hiện tốt các
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp kết hợp Tổng cục Thuế gia hạn nộp thuế và tiền thuê
đất cho đối tượng chịu ảnh hưởng bởi dịch; miễn, giảm thuế, phí, lệ phí cho các đối
tượng bị ảnh hưởng, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an
sinh xã hội. Các cơ quan liên quan hướng dẫn thực hiện tạm dừng đóng bảo hiểm xã
hội đối với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi đại dịch, khơng tính lãi phạt chậm nộp theo
thẩm quyền và quy định của pháp luật; xem xét thời điểm đóng phí cơng đồn phù
hợp, góp phần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, tổ chức.
Bốn là, cơ quan chức năng cần tiếp tục hỗ trợ thị trường chứng khoán, củng cố

niềm tin cho các bên tham gia thị trường. Theo đó, cần có hướng dẫn, quy định để cụ
thể hóa nhiệm vụ theo cơ chế tác động san sẻ rủi ro giữa các thành phần kinh tế. Ðiều
đó sẽ tạo cơ sở cho các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian và nhà đầu tư
tin vào nội lực của nền kinh tế, vào các giải pháp của Chính phủ cũng như sức bền
của thị trường.
Năm là, tích cực, chủ động tháo gỡ các rào cản, đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Trong đại dịch, thu hút đầu tư nước ngồi của Việt Nam bị ảnh hưởng lớn.
Theo thơng tin từ Tổng cục Thống kê, tổng số vốn FDI đăng ký cấp mới, vốn đăng ký
điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngồi vào
Việt Nam tính đến ngày 20/7/2021 đạt 16,7 tỷ USD, giảm 11,1% so với cùng kỳ năm
2020. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận khía cạnh tích cực từ bối cảnh hiện tại, khi Việt
Nam vẫn đang được coi là đất nước an toàn. Một số nhà đầu tư vẫn chuyển hướng đầu
tư sang Việt Nam, trong 7 tháng đầu năm 2021, Việt Nam vẫn thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào một số dự án lớn như: Dự án nhà máy điện LNG Long An I và II
(Singapore); dự án nhà máy nhiệt điện Ơ Mơn II (Nhật Bản); dự án LG Display Hải
Phòng (Hàn Quốc)...
Sáu là, các NHTM phát huy tối đa các kênh thanh toán, dịch vụ hỗ trợ doanh
nghiệp, người dân thực hiện dịch vụ liên kết với Bảo hiểm xã hội như tạm dừng đóng
bảo hiểm xã hội, kinh phí cơng đồn, thanh tốn phí điện, nước bên cạnh việc Chính
phủ chỉ đạo khơng tăng chi phí điện, nước và rà sốt, cắt giảm thủ tục hành chính cho
doanh nghiệp. Đây cũng là những chính sách rất cần thiết giúp giảm chi phí hoạt
động của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khắc phục những
hậu quả do đại dịch Covid-19 gây ra.

21


Bảy là, kinh tế Việt Nam đang đứng trước một đợt suy giảm lớn sau khi dịch bệnh
vẫn diễn biến phức tạp, xuất phát từ một nguyên nhân phi kinh tế. Trong bối cảnh này,
các NHTM cần thực hiện nhanh, nhạy, đúng các chính sách điều hành vĩ mơ của

Chính phủ và NHNN có ảnh hưởng quan trọng tới sức đề kháng của nền kinh tế, giảm
thiểu các tác động tiêu cực của dịch bệnh để lại. Đặc biệt, các chính sách hỗ trợ vốn là
yếu tố quyết định nền kinh tế có khả năng phục hồi nhanh chóng hay khơng một khi
bệnh dịch đã được kiểm sốt. Phân tích được tác động của dịch bệnh tới các ngành
kinh tế có sự khác biệt rất lớn để kiến nghị với NHNN.
Một số ngành chịu ảnh hưởng nặng nề, các doanh nghiệp có khả năng phá sản hàng
loạt như hàng khơng, du lịch, dịch vụ nếu vay vốn ngân hàng thì Chính phủ cần có
biện pháp hỗ trợ lãi suất phù hợp. Một số ngành vẫn có cơ hội phát triển tốt như cung
cấp nơng sản, thực phẩm, dược phẩm… thì tiếp tục hỗ trợ vốn bên cạnh việc khơi
nguồn các thị trường ngoài nước để tăng GDP. Do vậy, NHNN cần lựa chọn hợp lý
các chính sách, cũng như đối tượng để hỗ trợ. Bổ sung thêm danh mục về các đối
tượng được hưởng ưu tiên về lãi suất trần trong khoản 2, Điều 13, Thông tư số
39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động
cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngồi đối với khách hàng.
Việc kích thích tổng cầu nền kinh tế trong bối cảnh hiện nay hầu như không có tác
dụng trong ngắn hạn do sức mua ở những ngành chịu ảnh hưởng trực tiếp sẽ không
thể tăng do sau dịch bệnh doanh nghiệp, người dân đã kiệt sức. Do đó, các chính sách
lãi suất là liều thuốc kháng sinh cho doanh nghiệp và người dân phục hồi sản xuất,
đầu tư và mua sắm trở lại, dòng tiền khơi thơng sẽ sớm khơi phục nền kinh tế. Lãi suất
có thể cắt giảm thêm 1 - 2 điểm phần trăm. Khi chính sách tiền tệ hay tài khóa truyền
thống khơng đủ hỗ trợ khả năng thanh toán của doanh nghiệp, thì cần có các can thiệp
tài khóa trực tiếp từ Chính phủ như mua lại nợ, tăng sở hữu vốn Nhà nước… ở một số
lĩnh vực đặc biệt quan trọng; tránh tối đa sự đổ vỡ của các tập đoàn lớn sau đại dịch
Covid-19. Bên cạnh đó, giải cứu thị trường chứng khoán, tăng cường các biện pháp ổn
định tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn. Các NHTM tận dụng cơ hội để phát triển thị
trường, sản phẩm, kênh phân phối mới, tăng cường phát triển thanh toán Internet
banking và Mobile banking.
Tám là, kiểm định lại tính hiệu quả của các chính sách đã xây dựng về quản trị rủi
ro, trong đó có rủi ro hoạt động. Đây là cơ hội tốt để các tổ chức tín dụng đánh giá quy
trình hoạt động và hệ thống nhân sự hiện tại có vận hành hiệu quả khơng, có chỗ nào

có thể điều chỉnh để tối ưu hóa. Các tổ chức tín dụng cũng xác định được nhân sự tốt
và nhân sự có thể cắt giảm, từ đó tối ưu hóa được chi phí hoạt động. Ngồi ra, dịch
bệnh cịn là thời cơ giúp lãnh đạo các tổ chức tín dụng nhìn nhận lại các chính sách
đối phó với các loại rủi ro, chủ động điều chỉnh hoặc xây dựng lại các kịch bản có thể
gặp phải, từ đó hình thành các phương án đối phó hiệu quả hơn hậu Covid-19.

22


KẾT LUẬN
Chúng ta đang sống trong một thời đại mới, thời đại của điện tử viễn thông, mọi cái đều
biến đổi hết sức nhanh chóng, con người muốn tồn tại phải thích nghi được với hồn
cảnh đó. Một nền kinh tế mới đã và đang hoạt động rất sôi nổi, khơng sớm thì muộn mỗi
người cũng sẽ được và sẽ phải làm quen với thị trường tài chính mà điển hình là thị
trường chứng khốn. Ở đó diễn ra việc mua bán các cơng cụ tài chính. Các cơng cụ tài
chính đó ln ln biến động theo sự biến động của nền kinh tế, phản ánh phần nào về
sự phát triển, ổn định của một nền kinh tế của một quốc gia. Một vấn đề hết sức quan
trọng của nền kinh tế đó là vấn đề về vốn : nhu cầu về vốn là bao nhiêu, sử dụng vốn
như thế nào là có hiệu quả, biện pháp để tạo vốn.... phần lớn được giải
quyết trên TTTC, thể hiện rõ nhất thơng qua các cơng cụ tài chính như là các công cụ
luân chuyển vốn trong nền kinh tế.
Việc nắm bắt được tình hình về các cơng cụ tài chính những ưu điểm nhược điểm, xu
hướng phát triển,.... là thực sự cần thiết, không chỉ cho riêng em mà cần thiết cho tất cả
những ai quan tâm đến vận mệnh nền kinh tế đất nước, khi nghiên cứu về vấn đề này,
đã giúp em rất nhiều trong việc trau dồi hơn kiến thức cho bản thân, giúp cho em có
cơ hội tìm tịi, tiếp cận được với thơng tin mới về các cơng cụ thị trường tài chính
đang ngày càng có sự thay đổi tích cực như tình hình cổ phiếu của cơng ty cổ phần,
vấn đề cổ phần hố doanh nghiệp hiện nay, tình hình về trái phiếu chính phủ, trái
phiếu cơng ty, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu... với những thơng
tin mới mẻ đó là thật sự cần thiết cho bất cứ một sinh viên kinh tế nào. Từ những kiến

thức cơ sở này sẽ làm nền tảng cho một kiến thức tổng quát sau này làm hành trang
cho một cử nhân kinh tế bước ra thương trường, phần nào bớt bỡ ngỡ, giảm bớt sự
chênh lệch, khập khi

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài chính tiền tệ - Đại học hàng hải Việt Nam




23



×