Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

(TIỂU LUẬN) PHÉP BIỆN CHỨNG về mâu THUẪN và vận DỤNG PHÂN TÍCH mâu THUẪN BIỆN CHỨNG TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.42 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
--------***--------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MÂU THUẪN VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH
MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA

Họ và tên sinh viên: Nguyễn Lê Mai Linh
Mã sinh viên: 2012450021
Lớp: Anh 02 – CLC Kinh tế quốc tế
Lớp tín chỉ: TRIE114CLC.2
Khóa: 59
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Huy Quang

Hà Nội, 04/2021


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Mâu thuẫn là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng. Sự tồn tại của mâu thuẫn có trong tất cả các lĩnh vực: tự
nhiên, xã hội và tư duy con người. Mâu thuẫn tồn tại khi sự vật xuất hiện và chỉ
mất đi khi sự vật khơng cịn nữa. Trong mỗi một sự vật mâu thuẫn hình thành
khơng phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng một lúc có
nhiều mặt đối lập, chúng vừa đấu tranh vừa thống nhất với nhau tạo nên đặc tính
của mâu thuẫn. Trong hoạt động kinh tế, mâu thuẫn cũng mang tính phổ biến,
chẳng hạn như hoạt động cung - cầu, tích lũy và tiêu dùng, tính kế hoạch hố của


từng xí nghiệp, tính tự giác và tính tự phát vơ chính phủ của nền sản xuất hàng
hố ...
Ăng Ghen nói: “Sự phát triển của chính trị, luật pháp, triết học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật đều dựa trên cơ sở phát triển kinh tế”. Kinh tế đóng vai trị vơ
cùng quan trọng, nó làm nền tảng vững chắc để mọi hoạt động vật chất của con
người được thực hiện. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh
đạo thực hiện từ năm 1986 đã giành được nhiều thành tựu quan trọng và chuyển
biến tích cực trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ
chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của nhà nước.
Chính sách tuy góp phần mang đến những thành công nhất định cho nền kinh tế
Việt Nam nhưng trong những thành cơng đó vẫn ln ln tồn tại những mâu
thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của cơng cuộc đổi mới. Chính vì thế mà việc
nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện,
hồn cảnh đất nước nói riêng, phù hợp với khu vực, thế giới và thời đại nói chung
là hết sức cần thiết.
Với tính cấp thiết trên cùng mong muốn tìm hiểu thêm những vấn đề của nền
kinh tế, chính trị - xã hội liên quan đến tiến trình cải cách nền kinh tế, quan điểm
lý luận cũng như những vướng mắc trong hướng đi để xử lý mâu thuẫn, em chọn


đề tài: “Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện
chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” để
viết tiểu luận Triết học Mác-Lênin. Là một sinh viên năm thứ nhất, với kiến thức
và kinh nghiệm còn hạn chế nên nội dung bài tiểu luận này không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong được sự nhận xét, đóng góp ý kiến của các thầy cơ
trong trường. Em xin chân thành cảm ơn!


PHẦN I. LÝ LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MÂU THUẪN
1. Mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của mọi vận động và phát triển

1.1. Mâu thuẫn là gì
Trong phép biện chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống
nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng
hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Đây là quan niệm biện chứng về mâu
thuẫn khác căn bản với quan niệm siêu hình về mâu thuẫn. Theo quan niệm siêu
hình, mâu thuẫn là cái đối lập phản lơ-gíc, khơng có sự thống nhất, khơng có sự
chuyển hóa biện chứng giữa các mặt đối lập.
Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập. Khái niệm mặt đối lập dùng để
chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau
nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau. Thí dụ, điện tích âm và
điện tích dương trong một ngun tử, đồng hóa và dị hóa của một cơ thể sống,
sản xuất và tiêu dùng trong hoạt động kinh tế của xã hội, chân lý và sai lầm trong
quá trình phát triển của nhận thức,... .
1.2. Tính chất của mâu thuẫn
a) Mâu thuẫn có tính khách quan và phổ biến
Trong quan điểm của triết học Mác thì rõ ràng vật chất tự thân vận động, nó
hồn tồn khơng phụ thuộc vào một lực lượng siêu nhiên nào, kể cả con người.
Chính vì vậy mà khi thừa nhận mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động thì nó đã
bao hàm mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan, nó khơng những khơng lệ
thuộc vào ý thức của con người mà còn chi phối, quy định cả hoạt động thực tiễn
của con người.
Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy con
người. Trong xã hội, có những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng...
b) Mâu thuẫn có tính đa dạng và phong phú


Tính đa dạng của mâu thuẫn thể hiện ở chỗ: mỗi sự vật, hiện tượng, q
trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau
trong những điều kiện lịch sử, cụ thể khác nhau; chúng giữ vị trí, vai trị khác

nhau đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Đó là: mâu thuẫn bên
trong và bên ngồi, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu,... Trong các lĩnh
vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất khác nhau tạo
nên tính phong phú trong sự biểu hiện của mâu thuẫn.
1.3. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Đối lập là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, khuynh hướng phát triển
ngược chiều nhau, cùng tồn tại bên trong sự vật, hiện tượng và tạo nên sự vật hiện
tượng đó.Khơng phải bất kì hai mặt đối lập nào cũng hình thành nên mâu thuẫn.
Bởi chính bên trong sự vật đã có rất nhiều mặt đối lập, chỉ có những mặt đối lập
nào thống nhất với nhau như một chỉnh thể mới tạo thành mâu thuẫn.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau là điều kiện tồn tại
của nhau. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì khơng
tồn tại sự vật đó. Bởi vậy, sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không
thể thiếu trong bất kỳ sự vật hiện tượng nào.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia làm nhiều giai đoạn. thông thường,
khi nó mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt người ta
gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào
cũng được gọi là mâu thuẫn, chỉ có những khác nhau tồn tại trong một sự vật
nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực
bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của
một mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của một mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn
xung đột gay gắt, nó biến thành độc lập. Sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật mới
hình thành. Sau khi mâu thuẫn được giải quyết sự thống nhất của hai mặt đối lập
cũ được thay thế bởi sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới
lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật


mới xuất hiện. Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi
không ngừng từ thấp lên cao. Chính vì vậy mà Lênin khẳng định: “Sự phát triển
là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”.

Khi bàn luận về mối quan hệ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin
khẳng định rõ: “Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện tồn tại của sự vật, hiện tượng,
và thơng qua nó chúng ta nhận biết được sự vật hiện tượng tồn tại trong thế giới
khách quan. Song bản thân sự thống nhất chỉ tương đối tạm thời. Đấu tranh giữa
các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra trong suốt quá trình tồn tại của
mình.”. Như vậy thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập luôn diễn ra liên tục,
và đó chính là cơ sở để giải thích vì sao vật chất tự thân vận động.
1.4. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập
Khơng phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển
hố giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình
độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hóa, bài trừ và
phủ định nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn
ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết
phải diễn ra thơng qua hoạt động có ý thức của con người.
Do đó, khơng nên hiểu sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ
là sự hoán đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thơng thường thì mâu thuẫn
chuyển hố theo hai phương thức:
+ Phương thức thứ nhất: mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia
nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu
tranh chuyển hóa lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn.
+ Phương thức thứ hai: cả hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau để thành hai
mặt đối lập mới hoàn toàn.


Ví dụ: Nền kinh tế việt nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ những mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự

vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc
tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của
các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện
tượng khách quan, phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũng
mất đi, sự vật mới hình thành. Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu
thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để
tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi khơng ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn
là nguồn gốc và động lực của mọi quá trình phát triển.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự
vận động, phát triển, do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu
thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất,
nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển. V.I.Lênin đã cho rằng:
“Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó...
đó là thực chất... của phép biện chứng”.
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và giải
quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể, tức là biết phân tích cụ
thể từng loại mâu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp. Trong q trình
hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phân biệt đúng vai trị, vị trí của các loại
mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định; những đặc điểm của mâu
thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng
đắn nhất.


PHẦN II. VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC
TA
1.Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta

1.1. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
* Khái niệm kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường là một mơ hình kinh tế mà trong đó người mua và người bán
tác động với nhau theo quy luật cung cầu. Sản xuất và giá cả được xác định bởi
sự cạnh tranh không hạn chế giữa các doanh nghiệp.
Ở nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sở hữu.
Các loại hình cùng tham gia, vận động và phát triển trong một cơ chế cạnh tranh
bình đẳng và ổn định. Nền kinh tế cho phép cạnh tranh một cách tự do. Nó tạo ra
động lực để các doanh nghiệp có thể đổi mới, phát triển mình.
* Kinh tế thị trường định hướng XHCN:
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt Nam đặt
ra cho mơ hình kinh tế hiện đại của nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Nó được mơ tả là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trong đó khu vực
kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Đại hội Đảng lần thứ VI có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước
ta sang thời kỳ mới, thay thế nền kinh tế hiện vật với cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa
dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên
nguyên tắc và bản chất của CNXH. Do đó, kinh tế thị trường định hướng XHCN
có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho
nhau. Đó là nhóm của kinh tế thị trường đóng vai trị như là “động lực” thúc đẩy


nền sản xuất xã hội phát triển nhanh và nhóm nhân tố của xã hội XHCN, đóng vai
trị hướng dẫn, chỉ định sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác
định.
Vai trò quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường hết sức quan trọng. Sự
quản lý của nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả,

đặc biệt là sự đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội. Khơng có ai ngồi nhà nước
lại có thể giảm bớt được sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông
thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng của đất nước...Chính vì
vậy mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đặc trưng cơ
bản của nước ta, nó hồn tồn khác với mơ hình kinh tế thị trường của các nước
trên thế giới.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản
lý và phân phối.
1.2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quá
trình phát triển đất nước
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy, mơ
hình phát triển kinh tế theo hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm,
trong bối cảnh của thời đại ngày nay, là mơ hình hợp lý hơn cả. Mơ hình này, về
đại thể có thể đáp ứng những thách thức của sự phát triển.
Ở nước ta, việc thực hiện mơ hình này, trong thực tế, chẳng những là nội
dung của công cuộc đổi mới mà hơn thế nữa cịn là cơng cụ, là phương thức để
nước ta đi tới mục tiêu xây dựng CNXH.
Nền kinh tế nước ta hiện nay chỉ có thể nói đang trong giai đoạn quá độ,
chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy, những đặc


điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một vấn đề
rất có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét. Nhận thức được những đặc
điểm phức tạp của giai đoạn quá độ, chi phối những đặc điểm đó, chúng ta sẽ
tránh được những sai lầm chủ quan, nóng vội, duy ý chí hoặc những khuynh
hướng cực đoan, máy móc, sao chép, chấp nhận nguyên bản kinh tế thị trường từ

bên ngoài vào.
Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung, bao cấp, mọi chức năng
kinh tế - xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hố
ở cấp độ quốc gia. tính bao cấp của nhà nước đối với các hoạt động của sản xuất,
lưu thông, phân phối... khá nặng nề. Ở nước ta trước đây, chế độ hạch tốn, trên
thực tế cịn nặng về hình thức. lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao
động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng
mức. Vì thế, sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng
động.
Thực tế cho thấy, sự phát triển của thị trường tự do chen lẫn thị trường có tổ
chức, sự lẳng lặng vi phạm các quy tắc, các chuẩn mực lúc bấy giờ là những phản
ánh sự bất lực của một cơ chế quản lý cứng nhắc. Đứng trước tình hình đó, Đảng
đã kịp thời có những chuyển biến, bắt đầu uốn nắn những lệch lạc trong phong
trào hợp tác hố, cơng nghiệp hố đến việc thay đổi thể chế chính sách. Nghị
quyết Trung ương lần thứ VI được đánh dấu như một cái mốc trong quá trình
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế: cho sản xuất bung ra, thừa nhận quan hệ hàng
hoá - tiền tệ, cho tự do lưu thông. Và như thế nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần ra đời, tạo tiền đề cần thiết để chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Trên con đường cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, việc chúng ta bước đầu sử dụng
thị trường như là một công cụ, phương thức, trên thực tế đã đem lại những kêt
quả tích cực cả về phương diện thực tiễn và phương diện nhận thức. Những thành
tựu cho phép chúng ta “điều chỉnh và bổ sung nhận thức, làm cho quan niệm về
chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể; đường lối chủ trương, chính sách ngày càng


đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn”. Những thành tựu đó, trong một chừng
mực nhất định cũng gián tiếp khẳng định khả năng hiệu quả của kinh tế thị trường
trong việc năng động hoá nền kinh tế đất nước.
Mỗi hành trang có ý nghĩa mà cơng cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta sản xuất
hàng hóa cùng với nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường,

hiện đã được chúng ta hiểu là khơng đối lập với CNXH. Với tính chất là sản
phẩm của văn minh nhân loại, một cơ hội để các cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với
bên ngoài, kinh tế thị trường rõ ràng là cái khách quan và tất yếu đối với công
cuộc xây dựng cnxh ở nước ta.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường vừa là
căn cứ, vừa là đối tượng của cơng tác kế hoạch hố. Việc điều tiết vĩ mô đối với
thị trường, một mặt làm cho nền kinh tế nước ta thực sự trở thành một thị trường
thống nhất- thống nhất trong cả nước và thống nhất với thị trường thế giới- mặt
khác cịn có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế phải tự khẳng định khả năng và
vai trị của mình trong thị trường.
Trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực
hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hố nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, đó chính là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta
3.1. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì vấn đề lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp. Xét trên phương
diện triết học, thì lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là ý thức,
lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay đổi, và là yếu tố quyết định
quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì


quan hệ sản xuất lúc này tỏ ra khơng cịn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm
hãm. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển thì cần thay đổi quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, nó
là thước đo để đánh giá sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, mặc

dù nhà nước đã có rất nhiều chính sách để cân đối sao cho LLSX – QHSX phát
triển song song đồng bộ. Nhưng thực tế cho thấy, khi bắt tay vào xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường thì LLSX ln tỏ ra mâu thuẫn với QHSX.
Nếu tính cạnh tranh và năng động là một trong những đặc điểm cơ bản của nền
kinh tế thị trường, thì ngược lại chúng ta lại chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ
chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao
hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Việc thí
điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cịn làm chậm. Chưa quan tâm tổng kết
thực tiễn, kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp, chưa kịp thời đúc kết kinh
nghiệm, giúp đỡ các hình thức kinh tế hợp tác mới phát triển. Chưa giải quyết tốt
một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng, đồng thời
chưa quản lý tốt thành phần kinh tế này. Quản lý kinh tế hợp tác liên doanh với
nước ngồi cịn nhiều sơ hở. Kinh tế vĩ mơ cịn những yếu tố thiếu vững chắc...
Đó là một số hạn chế của QHSX kìm hãm LLSX phát triển và điều đó làm cho
quá trình xây dựng đất nước của ta gặp nhiều khó khăn. Vì vậy Nhà nước cần
xem xét hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường
đi đôi với việc xây dựng khuôn khổ pháp lý thể chế, để thị trường hoạt động năng
động, có hiệu quả. có trật tự, kỷ cương trong mơi trường cạnh tranh lành mạnh,
công khai minh bạch.
2.2. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN
Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế
giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường. Trong kinh tế
thị trường, các quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát trên mọi


lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Kinh tế
thị trường phản ánh đầy đủ trình độ văn minh và phát triển xã hội, là nhân tố phát
triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên kinh tế
thị trường cũng có những khuyết tật như: sự cạnh tranh lạnh lùng, tính tự phát mù
quáng dẫn đến phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ...

Từ đây, chúng ta đã thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay, không thể xây dựng
con người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là điều kiện rất
quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng sau nhiều năm chiến
tranh cùng với việc phát triển mơ hình kinh tế khơng phù hợp để đi vào phục hồi,
đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại.
Trong những năm qua, đặc biệt là thời gian vừa qua, kinh tế thị trường ở nước ta
đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, làm
cho nền kinh tế sôi động hơn. Đây là kết quả đáng mừng và cần được phát huy,
nó thể hiện sự vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của xã hội. Quá trình
biện chứng đi lên CNXH từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên
quy mô tồn xã hội.
Bên cạnh đó, kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay không chỉ tạo điều kiện vật
chất để xây dựng và phát huy nguồn lực của con người mà cịn tạo ra mơi trường
thích hợp cho con người phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Kinh tế
thị trường tạo ra sự cạnh tranh và chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con người
phải năng động sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh... Từ đó nâng cao năng
lực hoạt động thực tiễn của con người.
Tuy nhiên, cần phải thấy rõ rằng bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị
trường cịn có nhiều khuyết điểm, gây ra những tác động xấu. Quan hệ hàng hố,
tiền tệ làm sơi động thị trường, nhưng cũng làm xói mịn nhân cách và phẩm chất
con người. Ngoài ra đi kèm với nền kinh tế thị trường là hàng loạt các tệ nạn xã
hội: cờ bạc, rượu chè, ma túy, bn lậu, hối lộ, tham nhũng... đó là những vấn đề
nổi cộm nhất trong nền kinh tế thị trường mà không dễ dàng khắc phục.


Những phân tích trên đây cho thấy: kinh tế thị trường và mục tiêu con người
XHCN, là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta. Đây thực chất là
hai mặt đối lập của mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế thị trường và quá trình xây
dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. Kinh tế thị trường vừa
tạo ra những điều kiện để xây dựng và phát huy con người, vừa tạo ra những độc

tố để huỷ hoại con người. Đối với nước ta, mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và
quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng,
bằng sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đảng ta xác định “ sản
xuất hàng hóa khơng đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển nền văn minh
nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây XHCN và cả khi
CNXH được xây dựng” . Như vậy Đảng vạch rõ sự thống nhất giữa kinh tế thị
trường và mục tiêu xây dựng con người của CNXH. Việc áp dụng cơ chế thị
trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà nước, xác nhận
đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh, các hoạt động sản xuất
kinh doanh phải hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người.
2.3. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích xã hội
Trong hoạt động kinh tế, lợi ích là mục tiêu hàng đầu, vì vậy để thực hiện tăng
trưởng kinh tế cần phải coi trọng mọi lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi
ích xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội chẳng những khơng bị mất đi mà cịn có những diễn biến phức tạp hơn.
Trước hết là phải nói đến ưu điểm của nền kinh tế thị trường, nó tạo điều kiện cho
mọi cá nhân phát huy năng lực, trí tuệ, thị trường được tạo ra là một thị trường tự
do, tự do giao dịch... kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, một mặt nó
đảm bảo tính ổn định của thị trường, mặt khác nó lại tạo điều kiện tốt cho hoạt
động tham nhũng, buôn lậu... của một số người lạm dụng chức trách của mình.
Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nếu không được giải quyết đúng
đắn sẽ biểu hiện thành những hiện tượng bất công bằng xã hội. Trong mối quan
hệ này, nếu lợi ích cá nhân bị vi phạm thì xã hội sẽ mất đi một động lực to lớn của


sự phát triển xã hội. Còn ngược lại, nếu các nhân có lợi, nhưng lợi ích xã hội bị vi
phạm, thì nạn nhân của sự bất cơng lại là cộng đồng xã hội.
Ví dụ: Vì lợi ích cá nhân mà trong hoạt động sản xuất kinh doanh, người ta có thể
phá hoại mơi trường sống, có thể làm những việc phi pháp, phi đạo đức, phi nhân
tính, để có lợi cho bản thân, làm thất thoát tài sản của nhà nước... Trong trường

hợp này hậu quả do cá nhân đó tạo ra làm ảnh hưởng đến cộng đồng xã hội.
Thực tế cho thấy rằng ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tình trạng tham nhũng, suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ
đảng viên là rất nghiêm trọng. Sở dĩ có tình trạng trên là do nguyên nhân chủ
quan trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng:
Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt, kỉ
luật, kỉ cương chưa nghiêm. Đó là tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật
và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nhà
nước, công tác chỉ đạo, điều hành ở các cấp, các ngành cịn bất cập, thiếu kiểm
tra, đơn đốc và chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu lực và hiệu quả chưa cao.
Một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa
được thơng suốt ở các cấp, các ngành. Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu
kiên quyết, hiệu quả thấp. Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, trùng lặp
chức năng với nhiều tầng nấc trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà,
khơng ít trường hợp trên và dưới, trung ương và địa phương hành động không
thống nhất, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế xã hội và là giảm động lực
phát triển. Một số người và cơ quan do lợi ích cá nhân, cục bộ khơng muốn đẩy
mạnh cải cách hành chính, cải cách tổ chức bộ máy nhà nước...
Trên đây là những tiêu cực của một số cá nhân có chức quyền và lạm dụng nó để
tiến hành mưu lợi riêng cho mình, gây tổn thất nặng nề cho nền kinh tế quốc dân.
Còn đối với các chủ thể sản xuất kinh doanh bất chấp pháp luật để chạy theo lợi


nhuận. Hiện tượng làm hàng giả, hàng lậu vẫn tiếp tục phát triển làm ảnh hưởng
đến chất lượng sản phẩm.
Như vậy, chính mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nảy sinh trong
nền kinh tế thị trường, càng cho thấy rõ được tầm quan trọng trong vai trò quản lý
của nhà nước đối với việc phát triển kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những
tiêu cực trong xã hội đó là sự quản lý yếu kém, khơng đồng bộ của nhà nước.

Chính vì vậy mà trong nghị quyết trung ương Đảng lần thứ IX, chủ trương chỉnh
đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong tồn
Đảng, lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong
sạch, vững mạnh. Cần nhận thức rằng: “Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố
quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới”.
3. Thực tiễn nền kinh tế thị trường ở Việt Nam thời gian gần đây
Trong “bầu trời u ám” kinh tế thế giới năm 2020, Việt Nam nổi lên như một điểm
sáng đáng ghi nhận và tự hào. Với tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2020
tăng 2,91% so với năm trước, Việt Nam thuộc nhóm nước có tăng trưởng cao
nhất thế giới. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và thiên tai gây hậu quả nặng nề
thì đây là thành cơng lớn của Việt Nam. Lý giải nguyên nhân dẫn đến thành công
này, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, có nguyên nhân quan trọng từ mơ hình
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mơ hình này tỏ rõ hiệu quả về khả
năng tự chủ, tự cường, phản ứng chính sách và phản ứng thị trường đồng bộ.
Cùng với đó là sức chống chịu và thành cơng trong việc kiểm sốt sự lây lan của
dịch Covid-19. Với nguyên tắc quyền lực Nhà nước là tập trung, thống nhất đã
giúp cho chính quyền Trung ương có đủ sức mạnh và có đủ thẩm quyền để ban
hành quyết định nhanh chóng cho tồn hệ thống. Đây là một ưu thế rất lớn trong
cuộc chiến chống dịch khi chính quyền Trung ương được điều hành bởi những
người có năng lực và quyết đốn.
Có thể nói thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã là cơ sở để Việt Nam
hoàn thành mục tiêu “kép”, vừa phịng, chống dịch thành cơng, vừa tập trung


nguồn lực phát triển kinh tế. Định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường được
bảo đảm bởi vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, được thể hiện ở hệ thống pháp luật, chính sách, các chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch để tạo ra môi trường kinh doanh công khai, minh bạch,
thuận lợi, tạo động lực phát triển kinh tế nhanh, bền vững.
4. Những phương án tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định

hướng XHCN
Ưu tiên xây dựng các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật đầy đủ, đồng
bộ, hiện đại, hội nhập, ổn định, cụ thể, minh bạch gắn với tăng cường hiệu lực,
hiệu quả thực thi pháp luật. Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản
xuất, nhất là các thị trường quyền sử dụng đất và thị trường khoa học-cơng nghệ.
Hồn thiện tồn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mơ, đổi mới mạnh mẽ mơ hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tập trung xây dựng
kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng
nông thôn mới; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền
tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Chủ động đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái,
luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất
mãn chính trị chống phá Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc về
việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.


KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận với nội dung ngắn gọn, chúng ta có thể làm rõ được phép biện
chứng mâu thuẫn – một hiện tượng khách quan, phổ biến hình thành từ những
thuộc tính bên trong của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Đó là sự
đấu tranh giữa hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ cái cũ để thiết lập cái
mới tiến bộ hơn. Phép biện chứng này đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn phân tích từng mặt đối lập
tạo thành mâu thuẫn cụ thể ta có thể nhận thức được bản chất khuynh hướng vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Việt Nam từ một nước với nền kinh tế lạc hậu, trải qua nhiều năm đổi mới vừa

qua, nước ta quen dần với các quan hệ hàng hoá, hàm lượng kinh tế trong các
hoạt động xã hội ngày càng được chú ý, những kế hoạch những hoạt động xã hội
bất chấp kinh tế hoặc phi kinh tế đã giảm đáng kể. Bước chuyển sang kinh tế thị
trường này đương nhiên khơng tránh khỏi có những mặt tiêu cực của nó, nhưng
dẫu sao nó cũng nói lên sức sống và khả năng tác động của những quan hệ thị
trường . Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta tồn tại theo bao cấp, quan liêu thì
hiện nay nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương lãnh đạo của Đảng là rất đúng đắn
tuy nhiên trong thực hiện cịn nhiều thiếu sót, mâu thuẫn giữa các vấn đề nảy sinh
và đòi hỏi chúng ta phải có phương pháp giải quyết hợp lý. Có như vậy nền kinh
tế mới phát triển theo đúng nghĩa đổi mới của nó nói riêng và xây dựng đất nước
Việt Nam nói chung.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin - Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2017
2. Giáo trình học phần Kinh tế chính trị Mác-Lênin - Trang 131-263.
3. Trang web Dragonlend.vn - Kinh tế thị trường là gì? Ưu và nhược điểm của
kinh tế thị trường
/>4. Trang web Wikipedia Tiếng Việt - Kinh tế thị trường định hướng XHCN
/>%C6%B0%E1%BB%9Dng_%C4%91%E1%BB%8Bnh_h%C6%B0%E1%BB
%9Bng_x%C3%A3_h%E1%BB%99i_ch%E1%BB%A7_ngh%C4%A9a
5. Trang web Tạp chí Cộng sản - GS, TS Nguyễn Trọng Chuẩn - Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vấn đề con người
/>6. Trang web Quân đội nhân dân - Tác giả Đỗ Phú Thọ - Phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là lựa chọn đúng của Việt Nam
/>

7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX - NXB Chính trị Quốc Gia - Hà

Nội, trang 23.
8. Trang web Kho trí thức số - Phân tích tính tất yếu khách quan đặc điểm của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và các giải pháp để
phát triển nó ở nước ta
/>9. Trang web Hội đồng lý luận trung ương - Giá trị cốt lõi của chủ nghĩa MácLênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (phần 1)
/>



×