Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

(TIỂU LUẬN) phân tích quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật và liên hệ v i th c ti i m i kinh t ớ ự ễn đổ ớ ế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.24 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---------------
  ---------------

BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI SỐ 4
Phân tích quan điểm tồn diện của Phép biện chứng duy vật và liên
hệ với thực tiễn đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay

Họ, tên SV: Nguyễn Thái Tuấn

Mã SV: 11216080

Lớp: Triết học Mác – Lênin(121)_36 Khoá: 63 GĐ: D302

Hà Nội – 11/2021


Lời mở đầu
Trong việc tạo lập và gia tăng giá trị nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta trong thời điểm hiện tại, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn
nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự đi lên của bất cứ
hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn,
phương pháp biện chứng,... luôn là cơ sở, là phương hướng, là nguyên tắc cho vận
hành thực tế, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết
học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn
đề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết


học nào đó sẽ khơng chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một
cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp
luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động.
Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác. Đặc biệt, Lênin đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa duy vật biện chứng chính là triết học
của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác và phép biện chứng duy vật
là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà
nước ta đã học tập và lãnh giáo tư tưởng tiến bộ, đặt ra những mục tiêu, phương
hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng phát triển xã hội, phù hợp với tình
hình đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta
luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất
nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những
thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua nhiều năm đổi mới nền kinh tế nước
nhà là minh chứng thuyết phục cho vấn đề nêu trên.
Mặc dù vậy, hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các
quy luật khách quan trong vận hành kinh tế Việt Nam là một vấn đề còn nhiều xem
xét, nhất là trong thời điểm nền kinh tế toàn cầu đang đứng trước đối mặt với cuộc
khủng hoảng tồi tệ nhất trong 9 thập kỉ qua do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.
Vì vậy, em quyết định lựa chọn đề tài số 4: “Phân tích quan điểm toàn diện của
Phép biện chứng duy vật và liên hệ với thực tiễn đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện
nay” làm chủ đề thực hiện bài tiểu luận của mình.
2


1. PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM TỒN DIỆN CỦA PHP BIỆN CHNG DUY
VẬT
1.1. Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật là “linh hồn sống”, là “cái quyết định” của chủ nghĩa
Mác, bởi khi nghiên cứu các quy luật phát triển phổ biến của hiện thực khách quan
và của nhận thức khoa học, phép biện chứng duy vật thực hiện chức năng phương

pháp luận chung nhất của hoạt động nhận thức và thực tiễn. Chức năng này thể hiện
ở ch, con người dựa vào các nguyên lý, được cụ thể hóa bằng các cặp phạm trù và
quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, để đề ra các nguyên tắc tương ứng,
định hướng hoạt động lý luận và thực tiễn của mình.
Khi niệm php biện chứng duy vật
C.Mác, Ph.ngghen và V.I. Lênin không đưa ra một định nghĩa thống nhất
nào về phép biện chứng duy vật, mà trong các tác phm của các ơng có nhiều định
nghĩa khác nhau về phép biện chứng duy vật. Trong tác phm Chng Đuyrinh, khi
bàn về các quy luật, Ph.ngghen định nghĩa “phép biện chứng chng qua chỉ là môn
khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên,
của xã hội loài người và của tư duy”. Khi chỉ ra nội dung chủ yếu của phép biện
chúng, Ph.ngghen định nghĩa “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”
có “Những quy luật chủ yếu: sự chuyển hóa lượng thành chất, - sự xâm nhập ln
nhau của các mâu thun đối cực và sự chuyển hóa từ mâu thun này sang mâu thun
khác khi mâu thun đó lên tới cực độ, - sự phát triển bằng mâu thun hoặc phủ định
của phủ định, - phát triển theo hình xốy trơn ốc”.
V.I. Lênin định nghĩa “Phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển,
dưới hình thức hồn bị nhất, sâu sắc nhất và khơng phiến diện, học thuyết về tính
tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát
triển không ngừng”; khi bàn về các yếu tố của phép biện chứng, ông đưa ra định
nghĩa, “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất
của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều
đó địi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”.

3


Từ đây lại có thể chỉ ra một số đặc điểm và vai trò của phép biện chứng duy
vật về đặc điểm, phép biện chứng duy vật hình thành từ sự thống nhất hữu cơ giữa
thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng; giữa lý luận nhận thức và

lơgíc biện chứng; mi ngun lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều được
luận giải trên cơ sở khoa học và được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của
khoa học tự nhiên trước đó.
Về vai trò, phép biện chứng duy vật đã kế thừa và phát triển phép biện chứng
từ tự phát đến tự giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung nhất, giúp định
hướng việc đề ra các nguyên tắc tương ứng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn
và là một hình thức tư duy hiệu quả quan trọng nhất đối với khoa học, bởi chỉ có nó
mới có thể đem lại phương pháp giải thích những q trình phát triển diễn ra trong
thế giới, giải thích những mối quan hệ chung, những bước quá độ từ lĩnh vực nghiên
cứu này sang lĩnh vực khác.
Đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật là trạng thái tồn tại có tính
quy luật phổ biển nhất của sự vật, hiện tượng trong thế giới, vấn đề này thể hiện
trong các câu hỏi: sự vật, hiện tượng quanh ta và cả bản thân ta tồn tại trong trạng
thái liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa ln nhau và ln vận động, phát triển hay
trong trạng thái tách rời, cô lập nhau và đứng im, không vận động, phát triển?... Để
trả lời câu hỏi trên, phép biện chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm hai nguyên lý,
sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản.
1.2. Quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật
1.2.1. Giới thiệu
Nguyên lý là thuật ngữ đa nghĩa khá bất định có nguồn gốc từ một từ Hy Lạp
cổ (La Tinh principium) với nghĩa đen là “đầu tiên nhất” - định đề, khng định để
trên cơ sở đó các định luật và lý thuyết khoa học, các văn bản pháp luật được xây
dựng, các chun mực, quy tắc hoạt động trong xã hội được lựa chọn tuân theo. Như
vậy, nguyên lý là những khởi điểm (điểm xuất phát đầu tiên) hay những luận điểm
cơ bản nhất có tính chất tổng qt của một học thuyết chi phối sự vận hành của tất
cả các đối tượng thuộc lĩnh vực quan tâm nghiên cứu của nó. Theo nghĩa đó, nguyên
lý triết học là những luận điểm - định đề khái quát nhất được hình thành nhờ sự quan
sát, trải nghiệm của nhiều thế hệ người trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy;
4



rồi đến lượt mình chúng lại làm cơ sở, tiền đề cho những suy lý tiếp theo rút ra những
nguyên tắc, quy luật, quy tắc, phương pháp... phục vụ cho các hoạt động nhận thức
và thực tiễn của con người.
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai ngun lý cơ bản và đóng
vai trị cốt lõi trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin khi xem xét,
kiến giải sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một
hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản
ánh hiện thực khách quan, với hai nguyên lý cơ bản là nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến và nguyên lý về sự phát triển, đồng thời cũng là hai nguyên lý khái quát nhất.
Trong đó, quan điểm tồn diện của phép biện chứng duy vật được thể hiện rõ ở
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
1.2.2. Quan điểm toàn diện của php biện chứng duy vật (Nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến)
1.2.2.1. Khi niệm “mối liên hệ”
Trong khi cùng tồn tại, các đối tượng ln tương tác với nhau, qua đó thể hiện
các thuộc tính và bộc lộ bản chất bên trong, khng định mình là những đối tượng
thực tồn. Sự thay đổi các tương tác tất yếu làm đối tượng, các thuộc tính của nó thay
đổi, và trong điều kiện có thể cịn làm nó biến mất, chuyển hóa thành đối tượng khác.
Sự tồn tại của đối tượng, sự hiện hữu các thuộc tính của nó phụ thuộc vào các tương
tác giữa nó với các đối tượng khác, chứng tỏ rằng, đối tượng có liên hệ với các đối
tượng khác.
“Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương
h, quy định và ảnh hưởng ln nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng
hoặc giữa các đối tượng với nhau. Liên hệ là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự thay
đối của một trong số chúng nhất định làm đối tượng kia thay đổi. Ngược lại, cô lập
(tách rời) là trạng thái của các đối tượng, khi sự thay đổi của đối tượng này khơng
ảnh hưởng gì đến các đối tượng khác, không làm chúng thay đổi.
Liên hệ và cô lập hồn tồn khơng có nghĩa là, một số đối tượng ln liên hệ,
cịn những đối tượng khác lại chỉ cô lập. Trong các trường hợp liên hệ xét ở trên vn

có sự cơ lập, cũng như ở các trường hợp cơ lập vn có mối liên hệ qua lại. Trong thế
5


giới mọi đối tượng đều trong trạng thái vừa cô lập vừa liên hệ với nhau. Chúng liên
hệ với nhau ở một số khía cạnh, và khơng liên hệ với nhau ở những khía cạnh khác,
trong chúng có cả những biến đổi khiến các đối tượng khác thay đi, ln những biến
đổi không làm các đối tượng khác thay đổi. Như vậy, liên hệ và cô lập thống nhất
với nhau mà ví dụ điển hình là quan hệ giữa cơ thể sống và mơi trường. Cơ thể sống
gắn bó với mơi trường nhưng đồng thời cũng tách biệt với nó, có tính độc lập tương
đối.
Trước đây, các nhà duy tâm rút các mối liên hệ giữa các sự vật ra từ ý thức,
tinh thần (Hê-ghen cho rằng, ý niệm tuyệt đối là nền tảng của các mối liên hệ, còn
Béc-cơ-ly trên lập trường duy tâm chủ quan lại cho rằng, cảm giác là nền tảng của
mối liên hệ giữa các đối tượng). Từ ch cho rằng, mọi tồn tại trong thế giới đều là
những mắt khâu của một thực thể vật chất duy nhất, là những trạng thái và hình thức
tồn tại khác nhau của nó, phép biện chứng duy vật thừa nhận, có mối liên hệ phổ
biến giữa các đối tượng. Nhưng khi đã nói đến mi lin h ph bin thì cũng phải
phân biệt khái niệm mới này với đơn giản mi lin hệ. Khi nói mối liên hệ chúng ta
chủ yếu mới chỉ chú ý đến sự ràng buộc, tác động ln nhau giữa các đối tượng vật
chất - hữu hình, trong khi cịn thế giới tinh thần ở đó các đối tượng khơng là những
sự vật hữu hình mà lại vơ hình như các hình thức của tư duy (khái niệm, phán đoán,
suy lý) hay các phạm trù khoa học - hình thức của nhận thức cũng liên hệ chặt chẽ
với nhau và liên hệ với các vật thật - nguyên mu hiện thực khách quan, mà các hình
thức này chỉ là sự phản ánh, tái tạo lại chúng. Khi quan niệm về sự liên hệ được mở
rộng sang cho cả giữa các đối tượng tinh thần và giữa chúng vốn thuộc chủ thể với
các đối tượng khách quan thì sẽ có quan niệm về mi liên h ph bin. Có rất nhiều
loại liên hệ, trong đó có loại liên hệ chung, là đối tượng nghiên cứu của phép biện
chứng, loại liên hệ này được gọi là liên hệ phổ biến. Thế giới không phải là thể hn
loạn các đối tượng, mà là hệ thông các liên hệ đối tượng. Như vậy, chính tính thống

nhất vật chất của thế giới là cơ sở cho mọi liên hệ. Nhờ sự thống nhất đó các đối
tượng khơng thể tồn tại cô lập, mà luôn tác động qua lại, chuyển hóa ln nhau.
Cịn quan điểm siêu hình về sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới thường phủ định mối liên hệ tất yếu giữa các đối tượng, được phổ biến rộng rãi
trong khoa học tự nhiên rồi lan truyền sang triết học. ở Tây u thế k XVII - XVIII,
trình độ của khoa học tự nhiên còn nhiều hạn chế, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc
sưu tập tài liệu, nghiên cứu thế giới trong sự tách rời từng bộ phận riêng l. Quan
6


điểm như vậy dn thế giới quan triết học đến sai lầm là dựng lên ranh giới giả tạo
giữa các sự vật, hiện tượng, đặt đối lập các nghiên cứu khoa học chuyên ngành với
nhau. Vì vậy, quan điểm siêu hình khơng có khả năng phát hiện ra những quy luật,
bản chất và tính phổ biến của sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong
thế giới.
Trái lại, quan điểm biện chứng duy vật cho rằng, các sự vật, hiện tượng của
thế giới tồn tại trong mối liên hệ qua lại với nhau, quy định ln nhau, thâm nhập,
chuyển hóa ln nhau, chứ khơng hề tách biệt nhau. Đó là nội dung của nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến. Cơ sở của sự tồn tại đa dạng các mối liên hệ đó là tính thống
nhất vật chất của thế giới; theo đó, các sự vật, hiện tượng phong phú trong thế giới
chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.
1.2.2.2. Tính cht của mối liên hệ phổ biến.
Phép biện chứng duy vật khng định tnh khch quan của các mối liên hệ, tác
động trong thế giới. Có mối liên hệ, tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất
với nhau. Có mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng vật chất với các hiện tượng tinh
thần. Có các mối liên hệ giữa những hiện tượng tinh thần với nhau (mối liên hệ và
tác động giữa các hình thức của nhận thức)... Các mối liên hệ, tác động đó - suy đến
cùng, đều là sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa và phụ thuộc ln nhau giữa
các sự vật, hiện tượng.
- Tnh ph bin: tính phổ biến của các mối liên hệ thể hiện ở ch, bất k nơi

đâu, trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy đều có vơ vàn các mối
liên hệ đa dạng, chúng giữ những vai trị, vị trí khác nhau trong sự vận
động, chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ qua lại, quy định,
chuyển hóa ln nhau không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng tự
nhiên, xã hội, tư duy, mà còn diễn ra giữa các mặt, các yếu tố, các quá trình
của mi sự vật, hiện tượng.
- Tính đa dng, phong ph: có mối liên hệ về mặt khơng gian và cũng có
mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ
chung tác động lên tồn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới.
Có mối liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện
tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tượng, nhưng
cũng có những mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ tất nhiên, cũng có mối
7


liên hệ ngu nhiên. Có mối liên hệ bản chất cũng có mối liên hệ khơng bản
chất chỉ đóng vai trị phụ thuộc. Có mối liên hệ chủ yếu và có mối liên hệ
thứ yếu... chúng giữ những vai trị khác nhau quy định sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng. Để phân loại các mối liên hệ như trên, phải
tu thuộc vào tính chất và vai trị của từng mối liên hệ. Tuy vậy, việc phân
loại này cũng chỉ mang tính tương đối, bởi vì các mối liên hệ của các đối
tượng là rất phức tạp, không thể tách chúng khỏi tất cả các mối liên hệ
khác. Mọi liên hệ còn cần được nghiên cứu cụ thể trong sự biến đổi và phát
triển cụ thể của chúng.
Như vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát toàn cảnh thế giới trong
những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vơ hạn của
thế giới, cũng như tính vơ lượng các sự vật, hiện tượng đó chỉ có thể giải thích được
trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng các mối liên hệ có hình thức, vai trị
khác nhau.
Mi sự vật, hiện tượng tồn tại trong nhiều mối liên hệ, tác động qua lại với

nhau; do vậy, khi nghiên cứu đối tượng cụ thể cần tuân thủ nguyên tắc toàn diện.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong những nội dung của phép biện chứng
duy vật, đồng thời, nó cũng là cơ sở lý luận của quan điểm tồn diện - một quan
điểm mang tính phương pháp luận khoa học trong nhận thức và cải tạo thế giới. Với
tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật, hiện
tượng, quan điểm tồn diện có những u cầu cơ bản đối với chủ thể hoạt động nhận
thức và thực tiễn như sau:
- Th nht, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt, cần xem xét
nó trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác
cũng như giữa các bộ phận, yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự
vật đó. “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên
cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật
đó”, tức trong chỉnh thể thống nhất của “mối tổng hồ những quan hệ mn
v của sự vật ấy với các sự vật khác” [V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ,
M.1977, t.42, tr.364].
- Th hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối
tượng đó và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ
có như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách
8


quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại
của đối tượng. Khi xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật, phải đánh
giá đúng vị trí, vai trị của từng mối liên hệ, tránh xem xét một cách bình
quân, dàn trải, cần có trọng tâm, trọng điểm. Phải từ trong tổng số của các
mối liên hệ, ta rút ra mối liên hệ bản chất, cái có ý nghĩa quyết định đến sự
vận động và phát triển của sự vật. Có như vậy, chúng ta mới nhận thức
được bản chất, mới thấy được khuynh hướng vận động và phát triển của
sự vật.
- Th ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác

và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung
gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian nhất định, tức cần nghiên cứu
cả những mối liên hệ của đối tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán
cả tương lai của nó. Từ bản chất của sự vật phải quay lại hiểu rõ toàn bộ
sự vật trên cơ sở liên kết mối liên hệ bản chất, chủ yếu với tất cả các mối
liên hệ khác của sự vật để bảo đảm tính đồng bộ, tính hệ thống khi giải
quyết mọi vấn đề trong đời sống. Có như vậy, trong hoạt động thực tiễn,
chúng ta mới tránh được những sai lầm do quan điểm phiến diện gây nên.
- Th t, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều,
chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng
lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào
thuật nguy biện (đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản hoặc
ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên
hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến). Thực chất của chủ nghĩa
chiết trung là kết hợp một cách vô nguyên tắc, chủ quan các mối liên hệ,
coi chúng “ngang bằng nhau”, do đó, họ hồn tồn bất lực khi cần phải có
những quyết sách đúng đắn, kịp thời. Đi đôi với chủ nghĩa chiết trung là
thuật ngụy biện. Đây là lối tư duy đánh tráo một cách có chủ đích vị trí,
vai trị của các mối liên hệ, coi mối liên hệ không cơ bản là cơ bản; mối
liên hệ không bản chất thành bản chất. Nói về sự khác nhau giữa quan điểm
tồn diện với chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện, V.I. Lênin viết:
“Tính linh hoạt đó áp dụng một cách chủ quan bằng chủ nghĩa chiết trung
và nguỵ biện. Tính linh hoạt áp dụng một cách khách quan…, thì đó là
phép biện chứng, là sự phản ánh chính xác sự phát triển vĩnh viễn của thế
giới”.
9


2. LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Về công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam

Đầu thập niên 70 - 80 của thế k XX, trước những sự kiện, những nhân tố
chính trị, kinh tế, xã hội diễn ra với nhịp độ dồn dập, tính chất phức tạp và với một
qui mô to lớn chưa từng thấy, tất cả đang đặt ra yêu cầu bức thiết là cần phải có sự
phát triển, bổ sung lí luận cho phù hợp mà trước tiên phải có cách nhìn mới, nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội. Đây chính là cơ sở khách quan của đường lối đổi mới,
cải cách mà nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã và đang tiến hành, trong đó có Việt
Nam.
Một trong những đặc điểm lớn nhất của thời đại là sự phát triển "kiểu dịng
thác" chưa từng có trong lịch sử lồi người đó chính là thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ được tiến hành từ giữa
thế kỉ XX đã tạo ra những lực lượng sản xuất to lớn và mới về chất, góp phần thúc
đy nhiều q trình hiện đại của xã hội lồi người như: cấu trúc lại các nền kinh tế,
thay đổi, chuyển hướng các kết cấu hạ tầng của sản xuất, tăng cường xu thế tồn cầu
hóa trên nhiều lĩnh vực quan trọng của các quốc gia, ảnh hưởng to lớn đến các thiết
chế xã hội, đến văn hóa, lối sống các dân tộc...
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã đy nhanh q trình quốc tế
hóa nền kinh tế và đời sống kinh tế thế giới. Các quốc gia lần lượt bị cuốn hút vào
q trình phân cơng lao động, hợp tác hóa quốc tế và thị trường thế giới... Tình hình
trên vừa tạo ra những thời cơ hiếm có đồng thời cũng đặt ra những thách thức gay
go cho mọi quốc gia, đặc biệt là các nước chậm phát triển. Bên cạnh đó, đầu thập
niên 80 của thế k XX, thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu và việc giải
quyết những vấn đề đó địi hỏi phải có sự n lực chung của tồn nhân loại, ở các
quốc gia với những chế độ chính trị khác nhau. Đó là vấn đề bảo vệ hịa bình, chống
chiến tranh hạt nhân hủy diệt, đó là vấn đề bảo vệ tài ngun thiên nhiên mơi trường,
phịng chống bệnh hiểm nghèo, vấn đề bùng nổ dân số, sự nghèo đói... Trước tình
hình đó, mi quốc gia, dân tộc trong việc lựa chọn con đường phát triển của mình
khơng thể khơng quan tâm đến những vấn đề chung, vì "giải quyết những vấn đề đó
chính là điểm hội tụ, nơi gặp gỡ của các dân tộc vì số phận và tương lai của chính
mình cũng như của tồn nhân loại". Chính vì vậy, những vấn đề chung của nhân loại
trở thành yêu cầu khách quan tác động đến sự phát triển và đổi mới của chủ nghĩa

xã hội trong đó có Việt Nam. Và chỉ có như vậy, chủ nghĩa xã hội hiện thực mới
10


chứng minh bản chất ưu việt của mình, chứng minh chủ nghĩa xã hội tất yếu là con
đường đi tới của các dân tộc.
Sau hơn 70 năm tồn tại, đến cuối thập niên 80 của thế kỉ XX, toàn bộ hệ thống
xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện và sâu sắc. Đứng trước sự thủ thách,
nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã tìm cách thốt ra khỏi cuộc khủng hoảng bằng nhiều
cách khác nhau. Trước hết, phải kể đến công cuộc “cải cách, mở cửa” với những
thành tựu rõ rệt của Trung Quốc - một nước xã hội chủ nghĩa láng giềng và cuộc
“cải tổ” ở Liên Xô - một cường quốc xã hội chủ nghĩa đứng đầu hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới với những diễn biến phức tạp, đầy sóng gió. Trung Quốc tiến hành cải
cách kinh tế theo hướng thị trường mở cửa từ năm 1978. Những thành tựu của Trung
Quốc đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nước trong đó có Việt Nam. Tiếp đó,
cơng cuộc cải tổ khơng thành công dn tới sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông u là bài học phản diện cho Việt Nam những kinh nghiệm không thể cải tổ
theo kiểu “phủ định sạch trơn”, giải quyết không biện chứng mối quan hệ giữa kinh
tế và chính trị.
Cũng trong thời gian này, thành công của các nước công nghiệp mới (NIC)
như Singapore ở Đông Nam Á đã đưa ra những gợi ý hết sức quan trọng về cách
thức và giải pháp phát triển đối với những nước xuất phát từ nền kinh tế nơng nghiệp
và có kiểu quan hệ xã hội, văn hóa Phương Đơng. Động lực để phát triển của các
nước này là phát huy nội lực, huy động mọi tiềm năng của đất nước, thực hiện cơ
chế thị trường, mở cửa, hướng vào xuất khu và thu hút đầu tư nước ngoài. Sự tác
động của những biến đổi của tình hình thế giới địi hỏi chúng ta phải suy nghĩ, phải
có cách nhìn nhận đúng đắn, khách quan khoa học trên cả phượng diện lí luận và
thực tiễn.
Trong nhiều thập k trước đổi mới, cũng giống như các nước xã hội chủ nghĩa
khác, Việt Nam thực hiện công cuộc xây dựng đất nước theo mơ hình xã hội chủ

nghĩa. Mơ hình chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vốn có những khiếm khuyết lại được
áp dụng để đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội với những bước đi nhanh vội hơn.
Mặt hạn chế của mơ hình đó chưa được bộc lộ đầy đủ trong hồn cảnh chiến tranh
thì nay bộc lộ rõ ràng hơn và gây tác động tiêu cực lớn hơn trong điều kiện hòa bình.
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung và sự thừa nhận chỉ có hai thành phần kinh tế (quốc
doanh và tập thể) đã kìm hãm sức sản xuất, làm cho nhiều năng lực của xã hội không
được phát huy, các vấn đề mấu chốt của đời sống nhân dân không được giải quyết.
Vì thế đất nước khơng tạo ra được sự thay đổi, không tạo được sự bứt phá. Nhân dân
11


kém nhiệt tình lao động và mất đi những động lực sáng tạo. Cùng với đó, những
thiếu hụt, mất cân đối và nguy cơ bất ổn định cứ tích góp, dồn nén trong xã hội làm
tăng thêm tình trạng căng thng và mất lòng tin của nhân dân. Hậu quả là cuối thập
niên 70 đầu thập niên 80 của thế k XX, trên thực tế, đất nước ta lâm vào tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội. Niềm tin vào chủ nghĩa xã hội bị thách thức.
Đứng trước những đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, với xu thế phát triển của
thời đại, lại chịu ảnh hưởng của các nước trong khu vực và trên thế giới, Đảng và
Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp để khắc phục như: Nghị quyết
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Khóa IV (8/1979) làm cho sản xuất
bung ra; Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (13/1/1981) về khốn sản phm trong hợp tác
xã nơng nghiệp; Quyết định 25-CP và 26-CP của Chính phủ (21-1-1981)về cải tiến
cơ chế quản lý trong kinh tế quốc doanh; quan điểm của Đại hội V (3/1982) đến
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Khóa V (6/1985) về
giá - lương - tiền, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp, những kết
luận về các quan điểm kinh tế của Bộ Chính trị (9/1986)... Những thử nghiệm đó cả
thành cơng và thất bại tuy khơng kiềm chế nổi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã
hội ngày càng trầm trọng, song đã thúc đy mạnh mẽ quá trình đổi mới tư duy của
Đảng và xã hội để đi tới công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc, được mở đầu bằng
Đại hội VI của Đảng năm 1986 - Đại hội của đổi mới.

2.2. Quan điểm toàn diện của chủ nghĩa duy vật biện chứng gắn với thực tiễn
đổi mới kinh tế tại Việt Nam
Đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay được thực hiện từ năm 1986, và đã áp
dụng quan điểm toàn diện của Phép biện chứng duy vật khi thực hiện đường lối kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất.
Vậy, quan điểm toàn diện đã được áp dụng vào thực tiễn đổi mới kinh tế ở
Việt Nam như thể nào? Có thể thấy rằng, Đảng và Nhà nước ta đã sử dụng những
yêu cầu cơ bản của quan điểm toàn diện để thực hiện đổi mới, rõ nét nhất ở hai
phương diện sau:
Yêu cầu thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt, cần xem
xét nó trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác cũng như
giữa các bộ phận, yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật đó. Chng hạn,
12


khi ta xem xét về sự tiến bộ xã hội chúng ta phải có quan điểm tồn diện. Nghĩa là,
phải xem xét tiến bộ xã hội trong chỉnh thể của nó. Đó là nhóm các tiêu chun về
kinh tế, về chính trị, về xã hội và các tiêu chun dựa trên chỉ số phát triển con người.
Đảng ta chủ trương: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước phát triển... Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển
văn hóa và giáo dục”.
Yêu cầu thứ hai, khi xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật , phải đánh
giá đúng vị trí, vai trị của từng mối liên hệ, tránh xem xét một cách bình quân, dàn
trải, cần có trọng tâm, trọng điểm. Phải từ trong tổng số của các mối liên hệ, ta rút
ra mối liên hệ bản chất, cái có ý nghĩa quyết định đến sự vận động và phát triển của
sự vật. Điều này đã được áp dụng trong thực tiễn, khi trong chủ trương đổi mới tồn
diện đất nước được thơng qua ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng
12/1986), Đảng ta xác định đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế phải được coi
là bước đột phá”, là trọng tâm của toàn bộ sự nghiệp đổi mới. Nghị quyết khng

định: “Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Đảng
phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ
chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”. Nhờ xác
định đúng khâu đột phá và trọng tâm, trọng điểm trong đổi mới, nhờ có hình thức và
bước đi phù hợp, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua khó khăn, thử thách, tiếp
tục đưa sự nghiệp đổi mới phát triển không ngừng.
Cụ thể là hiện nay, Nhà nước vn thừa nhận vai trị tích cực của các thành
phần kinh tế khác cũng như thừa nhận sự tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân. Tuy
nhiên, trong đó Đảng ta vn đặc biệt nhấn mạnh và coi trọng hình thức sở hữu cơng
cộng với vai trị chủ đạo là thành phần kinh tế quốc doanh trong cơ chế thị trường.
Trong giai đoạn này, Đảng và nhà nước ta vn tuân thủ nguyên tắc trên song song
đó là sàng lọc, lựa chọn và giữ ngun các tập đồn quốc doanh kinh doanh có hiệu
quả đồng thời xóa bỏ các tập đồn, doanh nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả
gây hệ lụy xấu cho toàn bộ nền kinh tế.
Đến nay, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội ở nước ta được xác định là
nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các
quy luật của kinh tế thị trường; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu: tồn dân
13


(nhà nước, tập thể, tư nhân và nước ngoài) nhiều thành phần, bao gồm kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Quyền sở
hữu, quyền tài sản, thu nhập hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước) đều động theo cơ chế
thị trường, bình đng, hợp tác và cạnh tranh với nhau theo pháp luật. Kinh tế nhà
nước (bao gồm các nguồn lực kinh tế của nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước)
được xác định có vai trị chủ đạo với ý nghĩa là cơng cụ (cùng với luật pháp, chính

sách) để nhà nước điều tiết, thúc đy, định hướng phát triển của nền kinh tế, không
phải là chèn ép, lấn át các thành phần kinh tế khác. Kinh tế tập thể, hình thành trên
cơ sở liên kết tự nguyện của những người, những cơ sở kinh tế sản xuất kinh doanh
nhỏ, để h trợ họ hoạt động, phát triển, có thêm sức mạnh khi tham gia thị trường có
các chủ thể kinh tế lớn. Kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng
của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển ở các ngành, lĩnh vực có lợi cho quốc
tế, dân sinh, trở thành những tập đoàn kinh tế lớn, đầu tư cả trong và ngồi nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế được
khuyến khích đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, những dự án có trình độ cơng nghệ
cao, giá trị gia tăng cao, có chuyển giao cơng nghệ cho doanh nghiệp trong nước,
giúp doanh nghiệp trong nước tham gia vào các chui giá trị toàn cầu.
Với cơ cấu, cơ chế vận hành, cơ chế phân phối như vậy, nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập
quốc tế phù hợp với thông lệ, tiêu chí chung trên thế giới ngày nay, kế thừa những
thành tựu phát triển của kinh tế thị trường thế giới hơn 300 năm qua; đồng thời, có
những đặc thù, tính chất riêng, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và thực tiễn
của đất nước, tạo nên và bảo đảm định hướng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội của
nền kinh tế. Đây thực sự là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển
của kinh tế thị trường. Nền kinh tế này không phải là nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa, các yếu tố vốn mang tính chất tư bản chủ nghĩa được quản lý, điều tiết,
chuyển hóa, nhưng cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy
đủ, các yếu tố xã hội chủ nghĩa đã, đang hình thành, phát triển; nền kinh tế đang định
hướng, quá độ, từng bước đi tới chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước vừa ban hành luật pháp, chính sách,
xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đồng thời, cịn có khu vực kinh tế nhà
nước là cơng cụ, lực lượng vật chất quan trọng để quản lý, điều tiết, định hướng,
thúc đy nền kinh tế phát triển, gắn kết mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội, quốc
14



phòng, an ninh của đất nước. Đây là một yếu tố quan trọng để những nước đi sau
đy nhanh sự phát triển, thu hẹp khoảng cách và đuổi kịp các nước đã phát triển.
Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam được khởi xướng trên những
cơ sở khách quan, khoa học, trước bối cảnh quốc tế có những chuyển biến hết sức
sâu sắc và nhanh chóng. Đường lối đổi mới đã đi vào cuộc sống và ngày càng thể
hiện tính đúng đắn và sáng tạo của nó, điều đó cho thấy tinh thần độc lập, tự chủ và
sáng tạo của Đảng trong việc khởi xướng và lãnh đạo. Qua 35 năm đổi mới, đất nước
ta đã đạt được thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: “Đất nước ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu
nhập trung bình, đang đy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng
khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành và
phát triển. Chính trị xã hội ổn định, quốc phịng an ninh được tăng cường. Văn hóa
xã hội có bước phát triển…” [Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, HN, 2016].
Những kết quả này đã tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi
mới và phát triển trong những năm tới; khng định đường lối đổi mới mà Đảng ta
khởi xướng là đúng đắn, sáng tạo, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là
phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Việc áp dụng
quan điểm toàn diện vào đổi mới kinh tế đã đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng,
kinh tế dần ổn định và đạt được những thành tựu quan trọng. Từ đây, vị thế Việt
Nam trên trường quốc tế được đưa lên một tầm cao mới, nhận được sự quan tâm,
chú ý từ các nước lớn đi trước.

15


Tài liệu tham khảo
1. GIÁO TRNH TRIT HC MÁC - LNIN (S DNG TRONG CÁC
TRNG ĐI HC- H KHNG CHUYN L LUN CHNH TR),

(Tài liệu dùng tập huấn giảng dạy năm 2019), Bộ Giáo dục và Đào tạo,
tr.60-63.
2. />3. />4. />5. />6. />7. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1977, t.42, tr.364.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX,
Nxb. Chính trị quốc gia, H.2001, tr.88.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời k đổi mới. Nxb.
Chính trị quốc gia, H.2005, tr.13

16



×