Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

(TIỂU LUẬN) phân tích quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật liên h v i th c ti i m i kinh t t nam hi n nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.42 KB, 15 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
…...0O0…..

BÀI TẬP LỚN

TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài số 4:
Phân tích quan điểm tồn diện của Phép biện chứng duy vật
Liên hệ với thực tiễn đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

Họ và tên SV: Nguyễn Thị Bích Hằng
Mã SV: 11210946
Lớp: Kinh doanh thương mại 63B
Khóa 63 GĐ:

Hà Nội – 12/2021


Ănghen đã từng nói: “Khi chúng ta dùng tư duy để xem xét giới tự
nhiên, lịch sử loài người, hay hoạt động tinh thần của bản thân thì trước nhất,
chúng ta thấy một bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệ và
những sự tác động qua lại”. Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại trong giới tự nhiên
luôn nằm trong nhiều mối liên hệ, tác động qua lại với nhau vì vậy Ngun
tắc tồn diện đã được đề ra dựa trên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến sẽ giúp
chúng ta có những nhìn sâu sắc và tồn diện hơn để từ đó nhận định đúng bản
chất của mỗi sự vật, hiện tượng.
1.

TÌM HIỂU NGUYÊN TẮC TOÀN DIỆN CỦA PHÉP DUY VẬT
BIỆN CHỨNG
1.1.



Nguyên tắc toàn diện

Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép
biện chứng duy vật. “Nguyên tắc này xuất phát từ mối liên hệ phổ biến của các
sự vật, hiện tượng và các hình thái tri thức” [GS, TS. Nguyễn Ngọc Long - GS,
TS. Nguyễn Hữu Vui “Giáo trình Triết học Mác - Lênin”; PGS. TS Đồn
Quang Thọ. “Giáo trình Triết học. Nhà xuất bản Lý luận chính trị. Hà Nội năm
2007”]. Nguyên tắc tồn diện địi hỏi nếu muốn nhận thức được bản chất sự
vật, hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ của
chính nó, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện
tượng và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật hiện
tượng khác để tìm ra những mối liên hệ bản chất, mặt cơ bản, chủ yếu để nhận
thức đúng đắn sự vật và tránh cách xem xét phiến diện, một chiều. Ngun tắc
tồn diện địi hỏi phải xem xét: đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải
nắm được đâu là mối liên hệ bản chất mà quy định sự vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng; tránh chủ nghĩa chiết trung, kết hợp vô nguyên tắc các mối
liên hệ; tránh sai lầm của thuật nguy biện, coi cái cơ bản thành cái không cơ
bản, không bản chất thành bản chất hoặc ngược lại, dẫn đến sự nhận thức sai
lệch, xuyên tạc bản chất sự vật, hiện tượng.
Lê Nin viết: “Muốn thực sự hiểu biết được sự vật, cần phải nhìn bao quát
và nghiên cứ tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của
sự vật đó. Chúng ta khơng thể làm được điều đó một cách hồn hảo, đầy đủ,
nhưng sự cần thiết phải xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khởi phạm
sai lầm và sự cứng nhắc”. Nguyên tắc toàn diện là một phần của nguyên lý mối
quan hệ phổ biến nên cũng có những tính chất của nguyên lý này là khách quan
và phổ biến.
1.2.


Nội dung của quan điểm toàn diện phép duy vật biện chứng

Các sự vật và hiện tượng mà chúng ta quan sát được trong thế giới này
luôn tồn tại ở nhiều mặt, mn hình vạn trạng đầy phong phú và phức tạp và
khơng có bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào đang tồn tại một cách cô độc, riêng
rẽ và tách biệt khỏi các mối quan hệ với chính bản thân và cả các sự vật xung
quanh. Chúng là một chỉnh thể thống nhất, trong đó các sự vật, hiện tượng tồn
1


tại bằng cách tác động, ràng buộc là tiền đề, quy định và chuyển hóa, phát
triển lẫn nhau. Mọi sự vật, hiện tượng đều có các yếu tố của nó. Và giữa các
yếu tố này cũng có mối liên hệ biện chứng với nhau. Chính mối liên hệ biện
chứng đã quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
Mối liên hệ trên đây chính là khách quan nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật
chất của thế giới biểu tượng trong các quá trình tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng không chỉ diễn ra về mặt khơng
gian, mà cịn diễn ra về mặt thời gian, tức sẽ có mối liên hệ giữa hiện tại và quá
khứ, hiện tại với chính hiện tại và hiện tại với tương lai. Và cũng cần phải xem
xét mọi thứ trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người ứng với mỗi
thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ cũng chỉ
phản ánh được một lượng hữu hạn những mối liên hệ. Có ý thức được điều này,
chúng ta mới tránh việc tuyệt đối hóa những tri thức hiện tại, xem nó là chân lý
và bất biến, khơng thể bổ sung hay hồn thiện thêm vì vậy mà “cần thiết phải
xem xét trên tất cả mọi mặt”
Bất cứ một sự vật hiện tượng nào cũng có mối liên hệ bên trong và bên
ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và phức tạp, chủ yếu và thứ yếu, bản chất
hiện tượng, nguyên nhân và kết quả, nội dung và hình thức. Vì sự vật, hiện
tượng có mối quan hệ phổ biến đã nói ở trên nên muốn phản ánh sự vật, hiện
tượng đúng như bản chất để từ đó có thể cải biến sự vật đòi hỏi chúng ta cần

xem xét sự vật dưới góc độ tồn diện. Ví dụ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nước
ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế
giới, mà tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”[ Hồ Chí Minh: Tồn
tập, Sđd, t. 8, tr. 346], nhưng phải độc lập, tự chủ, phải khơn khéo, phải có
những biện pháp của riêng mình, vì “muốn người ta giúp cho, thì trước mình
phải tự giúp lấy mình đã”[ Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 2, tr. 320].
Thực hiện những điều trên điều sẽ giúp cho chúng ta tránh được hoặc
hạn chế được sự phiến diện, siêu hình, máy móc, một chiều trong nhận thức
cũng như trong việc giải quyết các tình huống thực tiễn, nhờ đó tạo ra khả năng
nhận thức đúng được sự vật như nó vốn có trong thực tế và xử lý chính xác, có
hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn. Quan điểm tồn diện khơng chỉ địi hỏi
chúng ta nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn thấy rõ khuynh
hướng phát triển tương lai của chúng, thấy được những biến đổi đi lên hay cả
thụt lùi. Song điều cơ bản phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh
hướng biến đổi chính của sự vật.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện – nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến – một trong hai nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện chứng. Đây là
một phạm trù của phép biện chứng duy vật dùng để chỉ sự quy định, tác động
qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt
của một sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
1.3.

2


Triết học Mác đã khẳng định: Cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật
hiện tượng là thuộc tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện
tượng dù đa dạng và khác nhau đến mấy thì chúng chỉ là những dạng tồn tại

khác nhau của một thế giới duy nhất là vật chất mà thôi. Ngay bản thân ý thức
vốn không phải là vật chất nhưng cũng chỉ là sự phát triển đến đỉnh cao của
một thuộc tính, của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc con người,
nội dung của ý thức có mối liên hệ chặt chẽ với thế giới bên ngoài.
Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức các
sự vật, hiện tượng quan điểm tồn diện địi hỏi phải xem xét sự vật như một
chỉnh thể của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố thuộc tính.. cùng các mối
liên hệ trong bản thân sự vật, mối liên hệ với sự vật khác và với môi trường
xung quanh kể cả mối liên hệ gián tiếp, trung gian.
Trong nhận thức, tính tồn diện địi hỏi phép tính tốn đến mọi khả
năng vận động có thể xảy ra; phải tính đến “tổng hịa những quan hệ muôn vẻ
của sự vật với những sự vật khác”. Tuy nhiên “chúng ta khơng thể làm nó một
cách hồn hảo” bởi sự vật trong q trình tồn tại phải trải qua rất nhiều giai
đoạn khác nhau trong mỗi giai đoạn tồn tại và phát triển không bao giờ sự vật
bộc lộ tất cả những mối liên hệ của nó với bản thân và với những sự vật, hiện
tượng khác, hơn nữa tất cả những mối quan hệ và liên hệ ấy chỉ được biểu
hiện ra những điều kiện cụ thể.
Một là xét về mặt không gian, mỗi sự vật hiện tượng là một chỉnh thể
riêng biệt, song chúng tồn tại không phải trong trạng thái biệt lập tách rời
tuyệt đối với các sự vật hiện tượng khác. Ngược lại, trong sự tồn tại của mình
thì chúng tác động lẫn nhau và nhận sự tác động của các sự vật, hiện tượng
khác. Chúng vừa phụ thuộc nhau, chế ước nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại
và phát triển. Đó chính là hai mặt của q trình tồn tại và phát triển của sự
vật, hiện tượng. Ănghen đã khẳng định: “Tất cả thế giới mà chúng ta có thể
nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp gồm các vật thể liên hệ khăng
khít với nhau và việc các vật thể ấy có mối liên hệ qua lại với nhau đã có
nghĩa là các vật thể này tác động qua lại lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy
chính là sự vận động.”
Ví dụ, trong đời sống xã hội ngày nay khơng có một quốc gia, dân tộc
nào mà khơng có mối quan hệ , liên hệ với quốc gia, dân tộc khác về mọi mặt

của đời sống xã hội . Đây chính là sự tồn tại, phát triển cho mỗi quốc gia, dân
tộc. Trên thế giới đã và đang xuất hiện q trình tồn cầu hóa, khu vực hóa
mọi mặt tác động lẫn nhau trên con đường phát triển nhanh của mình.
Xét về mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong của sự vật hiện tượng thì mỗi sự
vật hiện tượng đều tạo thành bởi nhiều nhân tố, nhiều bộ phận khác nhau và
các nhân tố bộ phận đó khơng tồn tại riêng lẻ mà chúng được tổ chức sắp xếp
theo một logic nhất định, trật tự nhất định để tạo thành một chỉnh thể. Mỗi
biện pháp, yếu tố trong đó mà có vai trị vị trí riêng của mình, lại tạo điều kiện
cho các bộ phận, yếu tố khác. Nghĩa là giữa chúng có sự ảnh hưởng, ràng
3


buộc, tác động lẫn nhau, sự biến đổi bộ phận nào đó trong cấu trúc của sự vật
hiện tượng sẽ ảnh hưởng đến bộ phận khác và đối với cả chỉnh thể sự vật hiện
tượng.
Hai là, bản thân chúng ta những chủ thể nhận thức – những phẩm chất
và năng lực luôn bị hạn chế bởi bối cảnh lịch sử do đó khơng bao giờ có thể
bao q được hết những mối liên hệ và quan hệ với những sự vật khác.
Xét về mặt không gian, mỗi một sự vật hiện tượng nói riêng và cả thế
giới nói chung sự tồn tại, phát triển của mình đều phải trải qua các giai đoạn,
các thời kỳ khác nhau và các giai đoạn đó khơng thể tách rời nhau, có liên hệ
làm tiền đề cho nhau, sự kết thúc của giai đoạn này làm mở đầu cho giai đoạn
khác tiếp theo. Điều này thể hiện rõ trong mối quan hệ giữa quá khứ - hiện tại
– tương lai.
Và từ nghiên cứu cơ sở lý giải theo quan điểm duy vật biện chứng về
tính khách quan, tính phổ biến và tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ
và sự phát triển của tất cả các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư
duy - nguyên lý về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng chúng ta rút ra quan
điểm toàn diện trong việc nhận thức, xem xét các sự vật hiện tượng cũng như
trong hoạt động thực tiễn.

Về mặt nhận thức, khi nghiên cứu sự vật hiện tượng phải đặt nó trong
mối liên hệ tác động qua lại với những sự vật hiện tượng khác và cần phải
phát hiện ra những mối liên hệ giữa các bộ phận, yếu tố, các thuộc tính, các
giai đoạn khác nhau mà bản thân sự vật. Lê Nin đã khẳng định: “Muốn thực
sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt của
mối liên hệ và quan hệ của sự vật đó". Để nhận thức đúng được sự vật, hiện
tượng cần phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn, ứng với
mỗi thời kỳ, giai đoạn, thế hệ thì con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được
số lượng hữu hạn các mối liên hệ. Vì vậy tri thức về các sự vật, hiện tượng chỉ
là tương đối, không đầy đủ và cần phải được hỏi chúng ta phải phát hiện ra
khơng chỉ là mối liên hệ của nó mà cịn phải biết xác định phân loại tính chất,
vai trị, vị trí của mỗi loại liên hệđối với sự phát triển của sự vật. Cần chống
cả lại khuynh hướng sai lầm phiến diện một chiều, cũng nhưđánh giá ngang
bằng vị trí của các loại quan hệ.
Về mặt thực tiễn, quan điểm tồn diện địi hỏi để cải tạo sự vật, hiện
tượng cần làm thay đổi mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện tượng cũng như
mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Muốn vậy,
cần phải xác định, sử dụng đồng bộ các phương pháp, các biện pháp, phương
tiện để giải quyết sự vật. Mặt khác, quan điểm tồn diện địi hỏi trong hoạt
động thực tiễn cần phải kết hợp chính sách dàn đều và chính sách có trọng
tâm, trọng điểm. Vừa chú ý giải quyết về mặt tổng thể vừa biết lựa chọn
những vấn đề trọng tâm để tập trung giải quyết dứt điểm tạo đà cho việc giải
quyết những vấn đề khác.
4


Có thể kết luận, cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật
chất của thế giới. Bởi lẽ, bản chất của thế giới là vật chất. Vật chất có thuộc
tính chung nhất là tồn tại khách quan. Các sự vật trong thế giới đa dạng đến
đâu thì cũng chỉ là những hình thức tồn tại cụ thể của vật chất, chúng đều chịu

sự chi phối của quy luật vật chất, nên chúng có liên hệ chặt chẽ với nhau.
[PGS. TS Đồn Quang Thọ. “Giáo trình Triết học. Nhà xuất bản Lý luận
chính trị. Hà Nội năm 2007”].
Quan điểm toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể là những quan điểm
cơ bản thuộc về phương pháp luận của phép biện chứng duy vật. Chúng được
xây dựng trên cơ sở lý giải theo quan điểm duy vật biện chứng về tính khách
quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú của các mối liên hệ và sự phát
triển của tất thảy các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.4.

Ý nghĩa phương pháp luận

Để cải tạo một sự vật, hiện tượng, để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra trong
hoạt động thực tiễn, địi hỏi tn thủ những hệ thống biện pháp có tính tồn
diện. Song tồn diện đồng bộ khơng có nghĩa là đặt ra một cách tràn lan, mà
đòi hỏi ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phải có những chủ trương, biện pháp
mang tính trọng tâm, trọng điểm, phải xác định những khâu then chốt tập
trung giải quyết để làm cơ sở cho những biện pháp khác một cách đồng bộ.
Tóm lai, thế giới khách quan của sự vật, hiện tượng để có nhiều mối liên hệ
cần xem xét mọi mặt để tránh các quan hệ lợi ích trước mắt mà bỏ qua lợi ích
lâu dài.
1.5.

Yêu cầu của nguyên tắc toàn diện

1.5.1. Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải tơn trọng ngun tắc
tồn diện
Khi xem xét sự vật hiện tượng phải đặt nó trong mối quan hệ với sự vật
hiện tượng khác, xem xét tất cả các mặt tất cả các yếu tố, các mối liên hệ vốn
có của nó. Thấy được từng mối quan hệ trong tổng thể của nó. Càng tính tốn

nhiều mối liên hệ bao nhiêu càng dự đoán được nhiều khả năng bấy nhiêu và
xây dựng phương án. Xây dựng như vậy mới hiểu được hiện tượng và làm
chủ được thực tiễn. Điêuù cầm chú ý là mối liên hệ sự vật hiện tượng là vô
hạn, đa dạng, phong phú, ta không nắm hết được nhưng đạt ra có mối quan hệ
tồn diện bao nhiêu tư duy bản thân sẽ hạn chế nhiều hơn những sự phiên
diện cá nhân.
Mối liên hệ của sự vật hiện tượng có nhiều loại khác nhau và vai trị của
chúng của khác nhau vi vậy khi xem xét mối quan hệ, thì phải xem xét mối
quan hệ bên trong, mối quan hệ cơ bản, bản chất mối quan hệ, bản chất quyết
định tính chất sự vật. Cần phải đánh giá đúng vị trí và vai trị của từng mối quan
hệ, từ đó xác định được vấn đề nào cần giải quyết trước, vấn đề nào là cấp thiết.
Nếu không có quan điểm tồn diện khi xem xét sự vật hiện tượng thì sẽ khơng
nắm được bản chất sự vật hiện tượng đó và sẽ có cái nhìn sai lệch và siêu hình
5


về sự vật hiện tượng, từ đó dẫn đến quan điểm siêu hình về thế giới vật chất.
VI. Lê Nin: “Chúng ta khơng thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ,
nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi vật sẽ đề phòng cho chúng ta không
phạm sai lầm và cứng nhắc”. Cụ thể:
Phát hiện nhiều mối liên hệ, quan hệ đang chi phối sự tồn tại của bản
thân sự vật. Điều đó sẽ giúp chúng ta xem xét được sự vật từ nhiều góc độ, từ
nhiều phương diện. Đặc biệt xác định được những mối liên hệ, quan hệ nào là
bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…; còn những mối liên hệ, quan hệ nào là
bên ngồi, khơng cơ bản, ngẫu nhiên, khơng ổn định…
Từ những mối liên hệ, quan hệ bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…sẽ
lý giải được những mối liên hệ, quan hệ cịn lại. Qua đó, xây dựng một hình
ảnh về sự vật như sự thống nhất các mối quan hệ, liên hệ, phát hiện ra quy luật
(bản chất) của nó và đánh giá đúng vai trị của từng mối liên hệ, quan hệ nào
chi phối sự vật.

Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương
tiện, biện pháp thích hợp(mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện
pháp vật chất) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm,
tính chất, yếu tố, mặt…) của bản thân sự vật, đặc biệt là những mối liên hệ,
quan hệ bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng… của nó.
Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ của bản thân sự vật,
kịp thời sự dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay
hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo
đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta. Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên
tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa
chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện… trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của
chính mình.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn. Quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này, mối liên hệ này
mà không thấy mặt khác, mối liên hệ khác; nhận thức sự vật trong trạng thái cô
lập, giải quyết công việc không đảm bảo tính đồng bộ. [PGS. TS Đồn Quang
Thọ. “Giáo trình Triết học. Nhà xuất bản Lý luận chính trị. Hà Nội năm 2007”]
1.5.2. Nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện sẽ dễ mắc phải ba sai
lầm là chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện cụ thể:
Một là, Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một
mối quan hệ, tính chất nào đó mà khơng thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan
hệ, nhiều tính chất của sự vật; chỉ xem xét sự vật ở một góc độ hay từ một
phương diện nào đó mà thơi.
Hai là, Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ của sự vật nhưng không rút ra được mặt bản chất, không
thấy được mội liên hệ cơ bản của sự vật; mà coi chúng như nhau, kết hợp
chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
6



Ba là, Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản
với cái khơng cơ bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt
được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi.
Ngồi ra nếu khơng tơn trọng ngun tắc tồn diện ta sẽ dễ sa vào chủ
nghĩa bình quân, quan điểm dàn đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng
điểm, điều cốt lõi trong cuộc sống vô cũng phức tạp.
2. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
2.1. Nền Kinh tế Việt Nam trước khi đổi mới
Ở giai đoạn trước, nền kinh tế Việt Nam với Định hướng của Đảng và
Nhà nước: xây dựng nền kinh tế theo mơ hình kế hoạch hóa tập trung mà hiện
nay Đảng cộng sản Việt Nam gọi là mơ hình “quan liêu bao cấp’’ đã vi phạm
quy luật khách quan, tồn tại những đánh giá chủ quan duy ý chí dẫn đến đã
hạn chế sự phát triển của đất nước.
Mặc dù tại chế độ kinh tế tập trung cũng đã có những ưu điểm đóng
góp nhất định cho đất nước. Trong những năm 70, thời kì kinh tế của nước ta
đã có sự tăng trưởng theo chiều rộng, tức là dựa vào tăng đầu tư khai thác tài
nguyên, sức lao động giá rẻ và một số lợi ích khác, cơ chế kinh tế tập trung có
tác dụng nhất định nhờ việc cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế,
phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước vào các mục tiêu chủ yếu trong từng
giai đoạn và điều kiện cụ thể, nhất là trong q trình cơng nghiệp hóa theo
hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Cơ chế này đã tạo nên sự thống
nhất, đồng bộ trong việc thực hiện các mục tiêu của cả nước.
Tuy nhiên, mơ hình kinh tế xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung đã dần bộc lộ rõ ràng hơn những hạn chế hết sức to lớn mà
trước đấy nó được chiến tranh che lấp thì bây giờ đã gây ra hiệu quả trầm trọng
mà đất nước phải gánh chịu. Nền kinh tế thiếu năng động, kém hiệu quả, đất
nước rơi vào tình trạng lạc hậu, đời sống nhân dân ngày càng trở nên khó khăn,
các căng thẳng xã hội cũng vì thế mà gia tăng; dẫn đến một hệ quả tất yếu là ta
phải tiến hành cải cách kinh tế năm 1986 đưa đất nước sang giai đoạn phát triển
mới.

Thứ nhất, khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo
chiều sâu dựa trên việc áp dụng các thành tựu của nền khoa học và công nghệ
hiện đại thì cơ chế này thủ tiêu sự cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học cơng
nghệ. Điều đó làm cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng
Thứ hai, nhà nước quản lí kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống chỉ tiêu, pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Hệ thống
chỉ tiêu được thể hiện ở chỗ: nhà nước thực hiện chế độ bao cấp đối với mọi
đơn vị cấp dưới và doanh nghiệp nhà nước kể cả hợp tác xã. Cơ quan hành
chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp, từ cấp vốn, sản xuất đến khâu phân phối sản phẩm nhưng lại khơng
chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lí với các quyết định của mình. Ở giai
7


đoạn này, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể được coi trọng đặc biệt. Từ đó
hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm
giảm năng suất, chất lượng, triệt tiêu động lực kinh tế, lao động sáng tạo đối
với người lao động, khơng kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị
sản xuất kinh doanh. Hơn nữa khi Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh
lệnh hành chính, xây dựng các chỉ tiêu một cách chủ quan, áp đặt từ trên xuống
dưới khiến cho các doanh nghiệp chỉ quan tâm duy nhất đến việc hoàn thành
chỉ tiêu, hạn chế sáng tạo.
Thứ ba, bộ máy quản lí cồng kềnh, nhiều cấp trung gian. Bộ máy quản lí
này vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ kém năng lực, phong cách cửa
quyền, quan liêu, nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.
Hoạt động kinh tế kém hiệu quả.
Thứ tư, các hoạt động giao dịch thương mại còn nhiều hạn chế: bán như
cho, mua như cướp. Giá bán thấp hơn nhiều so với số vốn bỏ ra nên mới có
chuyện nhiều người dân tìm cách giấu lúa. Ai mua thứ gì cũng phải đến hợp
tác xã mua bán hay cửa hàng mậu dịch quốc doanh. Để mua được thì rất khó

khăn vì khơng đủ để cung cấp, mọi người phải xếp hàng chầu chực để được
mua với đặc trưng là chế độ tem phiếu: vật phẩm tiêu dùng được phân phối
theo định mức chứ không theo khả năng lao động. Vì thế chế độ này thủ tiêu
động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao
động.
Thứ năm, trong thời kì này lạm phát bùng nổ. Tiền phát hành nhiều mà
vẫn khơng đủ, lương cơng nhân khơng có, vật tư hàng hóa khan hiếm. Giá bán
lương thực dù tăng mười lần vẫn khơng đủ để bù đắp chi phí. Sản xuất nông
nghiệp sa sút, đầu tư trong công nghiệp giảm. Chỉ số giá bán lẻ của thị trường
xã hội năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985. Do đồng tiền mất giá, người ta
quay sang lấy vàng làm bản vị, khiến giá vàng tăng vọt, còn nhanh hơn cả tăng
giá hàng hóa. Tình trạng khan hiếm hàng hóa khiến cuộc sống chật vật không
những về số lượng mà cả về phẩm chất của nhiều mặt hang
Thứ sáu, trong xu thế hội nhập và phát triển quốc tế, các nước phát triển
đang sử dụng những ưu thế của mình gây ảnh hưởng, tạo sức ép, làm tổn hại
nền độc lập dân tộc của những nước chậm phát triển, trong đó có Việt Nam.
Nếu như trước đây, chúng ta vì Độc lập mà buộc phải hy sinh “No cơm, ấm
áo”, thì nay “No cơm, ấm áo” đang trở thành “mồi nhử” của những nước lớn,
nhằm làm méo mó nội dung độc lập dân tộc của nhiều nước nghèo và nhỏ.
Trong bối cảnh tình hình này, khơng cho phép chúng ta tách mình bi ệt lập với
cộng đồng thế giới, mà phải chủ động tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới, chủ động khai thác những thuận lợi từ bên ngồi, dựa vào những tập hợp
lực lượng có lợi, hạn chế những tác động tiêu cực.
Cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bên cạnh một số ưu điểm thì cịn
tồn đọng rất nhiều những hạn chế bởi Nhà nước đã không chú trọng quy luật
8


khách quan, đề cao những chủ quan duy ý chí dẫn đến việc vi phạm quan điểm
toàn diện.

2.2. Nền Kinh tế Việt Nam sau khi đổi mới
“Đổi mới kinh tế” là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập
trung, bao cấp, chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng theo định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN); là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền
kinh tế “mở”, hội nhập, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
Việc đổi mới phải gắn liền với hoạt động thực tiễn phù hợp với những
chủ chương, chính sách của Đảng từ đó giúp cho việc nhận thức việc đổi mới
một cách đúng đắn hơn. Chúng ta phải đổi mới để tranh thủ cơ hội, thách
thức, biết tận dụng khai thác sử dụng có hiệu quả những thành tựu đã đạt
được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc đổi mới còn phù
hợp với xu thế tồn cầu hố, quốc tế hố sản xuất và phù hợp với sự phát triển
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Đổi mới để phù hợp với xu thế
của thời đại đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân
tộc mới thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ văn minh. Điều quan trọng của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay là
để đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng sự lãnh đạo của
Đảng phải kiên trì, kiên định và phát triển trên nền tảng thị trường, lý luận
cách mạng và khoa học. Phải xem xét quá trình đổi mới trên quan điểm toàn
diện của tất cả các mặt của xã hội.
Vận dụng quan điểm toàn diện vào trong hoạt động thực tiễn giúp
chúng ta kết hợp chặt chẽ giữa chính sách dàn đều và chính sách có trọng
điểm. Trong khi khẳng định tính tồn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt,
các lĩnh vực của quá trình đổi mới, Đảng ta cũng đồng thời coi đổi mới tư duy
lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá; trong khi nhấn
mạnh sự cần thiết phải đổi mới tồn diện thì đổi mới kinh tế là trọng tâm. Vận
dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào việc xem xét và giải quyết các vấn đề do
thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử cụ

thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới sự ra đời và phát triển của nó, tới bối cảnh
hiện thực cả khách quan lẫn chủ quan [Trang 3 văn bản: “Những nội dung cốt
lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và giải pháp, trách
nhiệm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai
trái, thù địch trong tình hình” (Tài liệu kèm theo Kế hoạch số 46-KH/BTGTU
của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy)]
2.2.1. Xây dựng nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan
Cơ sở khách quan cho sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam gồm:
9


Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu đó là sở hữu
tồn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại chủ thể
kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế hàng hóa chỉ có thể thực hiện
bằng quan hệ hàng hóa tiền tệ. Phân công lao động là cơ sở chung của sản xuất
hàng hóa giúp phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Phân cơng lao động thể
hiện được tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm
đưa ra trao đổi thị trường. Quan hệ hàng hóa, tiền tệ còn cần thiết trong quan
hệ kinh tế đối ngoại đặc biệt trong điều kiện giao dịch quốc tế ngày càng sâu
sắc bởi mỗi quốc gia là một chủ sở hữu đối với các hàng hóa đưa ra trao đổi
trên thị trường thế giới.
Mặt khác xây dựng nền kinh tế thị trường có nhiều tác động to lớn đối
với kinh tế Việt Nam. Nền kinh tế nước ta bước vào thời kì q độ lên CNXH
mang tính tự cung tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hóa sẽ phá vở dần kinh tế tự
nhiên mà chuyển sang kinh tế hàng hóa, thúc đẩy sự xã hội hóa sản xuất. Do
cạnh tranh giữa người sản xuất buộc mỗi chủ thể sản xuất phải áp dụng công
nghệ, cải tiến kĩ thuật từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất đồng thời nâng cao lao
động sản xuất. Kinh tế hàng hóa cũng kích thích sự sáng tạo năng động làm
tăng khối lượng hàng hóa và dịch vụ. Từ đó phát huy được tiềm năng, lợi thế

của từng vùng, của đất nước để mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Và sự
phát triển đó cũng là điều kiện để ra đời của sản xuất lớn có xã hội hóa cao,
đồng thời lọc ra đội ngủ lao động giỏi.
2.2.2. Đặc điểm của đổi mới kinh tế
Đại hội VI đã xem xét lại một cách căn bản vấn đề cải tạo XHCN và đưa
ra quan điểm mới về nền kinh tế nhiều thành phần: "Đi đôi với việc phát triển
kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích luỹ tập trung của
Nhà nước và tranh thủ vốn nước ngoài cần có chính sách sử dụng và cải tạo
đúng đắn các thành phần kinh tế khác" và điều đó đã được cụ thể qua những
biểu hiện dưới đây:
Nhà nước chấp nhận sự tồn tại bình đẳng và hợp pháp của nhiều thành
phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế
tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi),
nhiều hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở
hữu hồn hợp). Tuy nhiên, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước - là thành phần nắm giữ một khối lượng
lớn tài sản cố định và vốn lưu động. Và đặc biệt trong nhiều ngành cơng nghiệp,
các xí nghiệp quốc doanh chiếm khoảng từ 70 - 100% sản lượng. Tuy nhiên
các xí nghiệp quốc doanh gặp rất nhiều khó khăn, nhiều cơ sở kinh doanh yếu
kém và khơng có hiệu quả thua lỗ hoặc khơng có lãi. Vì vậy đổi mới các xí
nghiệp quốc doanh (giờ đây gọi là doanh nghiệp Nhà nước) là một trong những
nội dung quan trọng trong quá trình đổi mới và được thực hiện từng bước với
các biện pháp:
10


Đổi mới kinh tế hợp tác Giải thể các tập đoàn sản xuất hoặc các hợp tác
xã làm ăn kém, thua lỗ kéo dài hoặc chỉ tồn tại trên hình thức, giao khoán hoặc
nhượng bán tư liệu sản xuất cho xã viên để họ trực tiếp quản lý, sản xuất kinh
doanh theo hộ gia đình. Chuyển các hợp tác xã còn hoạt động kinh doanh thành

các hợp tác xã cổ phần, hoạt động theo luật hợp tác xã (ban hành năm 1997).
Phát triển kinh tế cá thể, tư nhân và các loại hình sở hữu hỗn hợp hiến
pháp năm 1992 quy định mọi công dân được tự do kinh doanh theo pháp luật
không hạn chế qui mô vốn là số lao động sử dụng. Sau đó hệ thống luật pháp
tiếp tục được hồn chỉnh và nhiều chính sách mới được ban hành nhằm khuýến
khích phát triển kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể. Các hình thức sở hữu, kinh
doanh hỗn hợp mới ra đời. Đặc biệt từ năm 1988, khi Nhà nước ban hành Luật
đầu tư nước ngoài thì các liên doanh với nước ngồi phát triển dưới nhiều dạng
khác nhau, như là: doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp hợp đồng hợp tác
kinh doanh doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi... riêng năm 2000 đã có 1063
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2787 doanh nghiệp hỗn hợp.
Đặc điểm của cơng nghiệp hố - hiện đại hố ở nước ta hiện nay. Thứ
nhất, cơng nghiệp hố - hiện đại hoá phải gắn liền với hiện đại hoá sở dĩ như
vậy là vì trên thế giới đang diễn ra được cách mạng và khoa học công nghệ hiện
đại, một số nước phát triển đã bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh
tế tri thức nên phải tranh thủứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ, tiếp cận kinh tế tri thức để hiện đại hố những ngành,
những khâu, những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt. Cơng nghiệp hố nhằm mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cơng nghiệp hố là tất yếu với tất cả
các nước chậm phát triển nhưng với mỗi nước, mục tiêu và tính chất của cơng
nghiệp hố có thể khác nhau ở nước ta, cơng nghiệp hoá nhằm xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc
lập dân tộc. Hơn nữa, công nghiệp hố trong điều kiện cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước. Điều này làm cho công nghiệp hố trong giai đoạn hiện
nay có sự khác biệt, nó không xuất phát từ chủ quan của Nhà nước mà nó địi
hỏi phải vận dụng các qui luật khách quan mà trước hết là các qui luật thị
trường. Không những thế cơng nghiệp hố trong điều kiện "chiến lược" kinh tế
mở có thể đi nhanh nếu chúng ta biết tận dụng, tranh thủ được thành tựu của
thế giới và sự giúp đỡ của quốc tế. Tuy nhiên nó cũng gây khơng ít trở ngại do
những tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới, mà các nước tư bản phát triển

thiết lập khơng có lợi cho các nước nghèo, lạc hậu. Vì thế, cơng nghiệp hố hiện đại hố phải đảm bảo xây dựng nước ta một nền kinh tế độc lập tự chủ.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại Đại hội VI đã chỉ rõ:
"Cùng với việc mở rộng xuất nhập khẩu tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn
cần vận dụng nhiều hình thức đa dạng để phát triển kinh tế đối ngoại". Thực
hiện chủ trương đó, Nhà nước đã ban hành chính sách"mở cửa" để thu hút vốn
và kỹ thuật nước ngoài, từng bước gắn nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế
giới, thị trường trong nước với thị trường quốc tế trên ngun tắc bình đẳng và
cùng có lợi, đảm bảo độc lập, chủ quyền dân tộc và an ninh quốc gia.Về ngoại
11


thương, cải cách ngoại thương được thực hiện theo hướng từng bước mở cửa
và hội nhập quốc tế. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngồi. Xố bỏ triệt
để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chếquản lý kinh tế của
Nhà nước. Trên cơ sở đánh giá những vấn đề thực tiễn trong đổi mới cơ chế
quản lý ở nước ta từ năm 1986 đến nay, trong các kỳ Đại hội Đảng ta tiếp tục
làm rõ nội dung và phương thức đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng
"xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN". Điều đó thực chất là q trình
đổi mới cả hệ thống các cơng cụ, chính sách quản lý và tăng cường chức năng
quản lý của Nhà nước. Tóm lại, đổi mới kinh tế Việt Nam hiện nay là một quy
luật tất yếu được xây dựng dựa trên quan điểm tồn diện đã thế hiện sự tơn
trọng quy luật khách quan đã thể hiện được hướng đi đúng đắn của Đảng và
Nhà nước áp dụng để xây dựng và phát triển kinh tế.
3.KẾT LUẬN
Áp dụng quan điểm toàn diện về cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở Việt
Nam đã cho ta cái nhìn sâu, rộng, đúng đắn về vấn đề này. Mặc dù còn bộc lộ
rất nhiều hạn chế nhưng ta khơng thể phủ nhận vai trị và ưu điểm của cơ chế
này. Khi nhìn nhận nó cần xem xét trên mọi mặt, mọi mối quan hệ thì mới xác
định được đâu là những mặt nổi bật, những mối quan hệ quan trọng nhất. Từ

đó ta sẽ thấy được bản chất cơ chế kế hoạch hóa tập trung khơng phải là tiêu
cực mà chỉ là không được vận dụng sáng tạo, đúng đắn vào tình hình đất nước
cũng như bối cảnh lịch sử nước ta bấy giờ ,chính vì vậy mới dẫn đến những
hậu quả nghiêm trọng. Nhận thức được điều đó Đảng ta đã đề ra đường lối phát
triển kinh tế mới và khắc phục những hạn chế của cơ chế kế hoạch hóa tập trung
mà vẫn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì thế trong giai đoạn mới, chúng
ta cần phải cải tổ mạnh mẽ hơn nữa trong cơ chế quản lý. Đổi mới nền kinh tế
với những kết quả thực tiễn đã và đang đạt được là những minh chứng cụ thể
cho tầm quan trọng của triết học với mọi mặt của cuộc sống. Đặc biệt điều đó
càng có ý nghĩa hơn khi chúng ta nhìn lại nền kinh tế Việt Nam trong 2 năm
gần đây khi đối diện với đại dịch Covid 19 như thế nào sau khi nền kinh tế đã
có những sự thay đổi phù hợp để sự đánh giá toàn diện luôn là nền tảng cho
mọi sự phát triển hiện tại. Đảng và Nhà nước ta đã tuân thủ chặt chẽ ngun
tắc tồn diện xem xét từ cả góc độ trực tiếp lẫn gián tiếp, trong nước lẫn ngoài
nước để có những giải pháp ổn định kinh tế nội địa từ sản xuất, xuất nhập khẩu,
mua bán; hạn chế tối đa rủi ro những gì nền kinh tế có thể gặp phải. Không chỉ
làm tốt việc những công việc trong nước, mà bản thân Việt Nam đã có những
chủ động hơn trong việc tham gia hội nhập và giúp đỡ kinh tế khu vực và thế
giới, tích cực khai thác những thuận lợi đồng thời nhìn nhận rõ những tiêu cực
để cùng với các nước khu vực ASEAN và trên thế giới đề ra những khắc phục
phục hồi nền kinh tế đã bị ảnh hưởng và suy thoái bởi đại dịch.
Từ vấn đề nêu trên ta càng nhận thức rõ hơn về vai trị quan trọng của
quan điểm tồn diện khi nhìn nhận một vấn đề trong cuộc sống:
12


Quan điểm này đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn đúng đắn và khách
quan về sự vật, hiện tượng để từ đó mới có thể rút ra được bản chất. Phải đặt
nó giữa các yếu tố bộ phận, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật đó và
mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật khác, và đồng thời luôn đặt trong mối

quan hệ phù hợp với nhu cầu thực tiễn của con người.
Vận dụng quan điểm tồn diện vào hoạt động thực tiễn địi hỏi chúng ta
phải có những biện pháp, phương tiện khác nhau để hiểu cho rộng nhưng cũng
cần xác định đâu là cái cơ bản, cái quan trọng để hiểu sâu sắc vấn đề. Theo như
Lênin đấy chính là sự kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dân chủ” và chính
sách “có trọng điểm”.

13


TƯ LIỆU KHAM KHẢO:
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Giáo trình Triết học Mác-Lê Nin
Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI
Văn bản Đảng cộng sản Việt nam
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam
Tạp chí Tuyên giáo Trung ương
Văn bản Tư vấn pháp luật

14




×