Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

VẬN DỤNG NGUYÊN tắc TOÀN DIỆN TRONG GIẢI QUYẾT các MQH đh XIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.4 KB, 39 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chủ đề tiểu luận
Ngày nay, tình hình thế giới, khu vực diễn biến quanh co, phức tạp, khó
lường đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn mới mẻ cần được giải quyết. Nắm
vững phép biện chứng duy vật và mài sắc tư duy biện chứng, vận dụng các
nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật nói chung, ngun tắc tồn
diện nói riêng sẽ giúp chúng ta nhận thức được tính biện chứng của thế giới, tính
tất yếu của cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Thực tiễn cho thấy con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội không tuân theo những cơng thức có sẵn, bất biến,
mà chúng được vận dụng linh hoạt, mềm dẻo, luôn đổi mới để phù hợp với điều
kiện, hồn cảnh của mỗi nước và tình hình quốc tế trong từng giai đoạn. Con
đường của cách mạng Việt Nam được xác định là “Đảng và nhân dân ta quyết
tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” là con đường đúng đắn.
Quán triệt nguyên tắc toàn diện, với phạm vi bao quát của tất cả các mặt,
các lĩnh vực của quá trình đổi mới, trong suốt hơn 35 năm qua, Đảng ta ln
chủ động vận dụng ngun tắc tồn diện trong nhận thức và giải quyết tốt các
mối quan hệ lớn. Nhờ vậy, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu đạt được là cơ bản, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ lớn ở nước ta
những năm qua cũng cịn bộc lộ những hạn chế: q trình đổi mới diễn ra chậm
và chưa có những bước đột phá mạnh mẽ; vẫn hàm chứa những yếu tố gây mất
ổn định chính trị - xã hội... Chính vì vậy, để thực hiện 12 định hướng chiến
lược phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Đại hội XIII của Đảng nhấn
mạnh cần nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn trong sự nghiệp đổi mới
của đất nước hiện nay: “Giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng,
hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị


trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và cơng bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; và đặc biệt mối
quan hệ mới được bổ sung lần này là mối quan hệ giữ thực hành dân chủ và
tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đó là những mối quan hệ lớn,
phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về về
đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát
triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng
và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt, có hiệu quả. Tuyệt đối không
được cực đoan, phiến diện 1.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, tập 1, Nxb.CTQG Sự thật, H.2021, tr.39.


2

Để hiểu biết sâu sắc, đầy đủ hơn về nguyên tắc toàn diện, cũng như việc
vận dụng nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối
quan hệ lớn trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay, tôi chọn chủ đề “Vận
dụng Nguyên tắc toàn diện trong giải quyết các mối quan hệ lớn của sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng” làm
nội dung viết Tiểu luận của môn học.
2. Giới hạn của tiểu luận
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về nguyên tắc tồn diện và q trình
phát triển tư duy, nhận thức về các mối quan hệ lớn của Đảng ta; từ những thành
tựu và hạn chế để đánh giá sự vận dụng nguyên tắc toàn diện trong giải quyết
các mối quan hệ lớn của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay theo tinh thần Đại
hội XIII của Đảng.

3. Phương pháp nghiên cứu
- Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở về các nguyên tắc phương
pháp luận biện chứng duy vật nói chung, ngun tắc tồn diện nói riêng của chủ
nghĩa Mác - Lênin; nghiên cứu quá trình phát triển tư duy, nhận thức về các mối
quan hệ lớn của Đảng ta; khái quát sự vận dụng Nguyên tắc toàn diện trong giải
quyết các mối quan hệ lớn của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay theo tinh
thần Đại hội XIII của Đảng.
- Tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học khác
nhau, bao gồm phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phương pháp nghiên cứu
thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh…
4. Giá trị, ý nghĩa của tiểu luận
- Cung cấp một số cơ sở lý luận về các nguyên tắc phương pháp luận biện
chứng duy vật, nguyên tắc toàn diện của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Từ từ những thành tựu và hạn chế để đánh giá khái quát sự vận dụng
Nguyên tắc toàn diện trong giải quyết các mối quan hệ lớn của sự nghiệp đổi
mới ở nước ta hiện nay theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng. Mặt khác, đó là cơ
sở cho cán bộ, giảng viên và học viên tham khảo trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ cũng như trong giảng dạy, học tập và công tác.
5. Cấu trúc của tiểu luận
Tiểu luận được kết cấu gồm phần mở đầu; 2 phần (4 tiết); kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.


3

I. Lý luận chung về Nguyên tắc toàn diện và nhận thức về các mối
quan hệ lớn của Đảng ta
1. Lý luận chung về nguyên tắc toàn diện
Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và giải quyết các vấn đề thực tiễn
là một trong những nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật, được xác

lập trực tiếp từ ngun lí về mối liên hệ phổ biến. Vì vậy, để nắm và hiểu sâu
sắc về Nguyên tắc toàn diện, chúng ta cần nắm một số nội dung cơ bản về
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến.
1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Trái với các nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật, theo
quan điểm siêu hình, các sự vật hiện tượng tồn tại một cách tách rời nhau, cái
này bên cạnh cái kia, giữa chúng khơng có sự phụ thuộc, khơng có sự ràng
buộc lẫn nhau, những mối liên hệ có chăng chỉ là những liên hệ hời hợt, bề
ngồi mang tính ngẫu nhiên. Một số người theo quan điểm siêu hình cũng
thừa nhận sự liên hệ và tính đa dạng của nó nhưng laị phủ nhận khả năng
chuyển hố lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau.
Theo phương pháp luận biện chứng duy vật, các đối tượng luôn tương
tác với nhau, qua đó thể hiện các thuộc tính và bộc lộ bản chất bên trong,
khẳng định mình là những đối tượng thực tồn. Sự thay đổi các tương tác tất
yếu làm đối tượng, các thuộc tính của nó thay đổi, và trong có thể cịn làm nó
biến mất, chuyển hố thành đối tượng khác. Sự tồn tại của đối tượng, sự hiện
hữu các thuộc tính của nó phụ thuộc vào các tương tác giữa nó với các đối
tượng khác, chứng tỏ rằng, đối tượng có liên hệ với các đối tượng khác.
Nhưng thế nào là mối liên hệ?
“Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc
tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một
đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Cũng có thể dùng khái niệm
“quan hệ”, nhưng khái niệm “quan hệ” rộng hơn “liên hệ”. Liên hệ chỉ là
quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự thay đổi của một trong số chúng nhất định
làm đối tượng kia thay đổi. Chẳng hạn, vận động của vật thể có liên hệ hữu
cơ với khối lượng của nó, bởi sự thay đổi vận tốc vận động tất yếu làm khối
lượng của nó thay đổi các sinh vật đều có liên hệ với mơi trường bên ngồi
những thay đổi của môi trường tất yếu làm cơ thể có sự thay đổi tương ứng
cơng cụ lao động liên hệ với đối tượng lao động: những thay đổi của công cụ
luôn gây ra những thay đổi xác định trong đối tượng lao động mà các cơng cụ

đó tác động lên, đến lượt mình sự biến đổi của đối tượng lao động tất gây ra
những biến đổi ở các công cụ lao động...


4

Ngược lại, cô lập (tách rời) là trạng thái của các đối tượng, khi sự thay
đổi của đối tượng này khơng ảnh hưởng gì đến các đối tượng khác, khơng làm
chúng thay đổi. Chẳng hạn, sự biến đổi các nguyên tắc đạo đức không hề làm
hạt nhân nguyên tử thay đổi, và ngược lại, những thay đổi trong hạt nhân,
cũng khó làm các ngun tắc đạo đức thay đổi.
Các ví dụ về liên hệ và cơ lập hồn tồn khơng có nghĩa là, một số đối
tượng ln liên hệ, cịn những đối tượng khác lại chỉ cô lập. Trong các trường
hợp liên hệ xét ở trên vẫn có sự cơ lập, cũng như ở các trường hợp cơ lập vẫn
có mối liên hệ qua lại. Trên thế giới mọi đối tượng đều trong trạng thái liên hệ
và cô lập với nhau. Chúng liên hệ với nhau ở một số khía cạnh, và khơng liên
hệ với nhau ở những khía cạnh khác, trong chúng có cả những biến đổi khiến
các đối tượng khác thay đổi, lẫn những biến đổi không làm các đối tượng
khác thay đổi. Như vậy, liên hệ và cơ lập thống nhất với nhau mà ví dụ điển
hình là quan hệ giữa cơ thể sống và môi trường. Cơ thể sống gắn bó với mơi
trường nhưng đồng thời cũng tách biệt với nó, có tính độc lập tương đối. Một
số thay đổi của môi trường nhất định làm cơ thể sống thay đổi, những thay
đổi khác lại không làm nó thay đổi. Chỉ những biến đổi mơi trường gắn với
hoạt động sống của cơ thể mới ảnh hưởng đến nó, cịn những thay đổi khơng
đụng chạm gì đến hoạt động đó thì khơng gây ra sự biến đổi nào trong nó.
Như vậy, liên hệ và cơ lập ln tồn tại cùng nhau, là những mặt tất yếu của
mọi quan hệ cụ thể giữa các đối tượng.
Các nhà siêu hình thường phủ định mối liên hệ tất yếu giữa các đối
tượng, các nhà duy tâm rút các mối liên hệ đó ra từ ý thức, tinh thần (Hegel
cho rằng ý niệm tuyệt đối là nền tảng của các mối liên hệ, còn Berkeley trên

lập trường duy tâm chủ quan lại cho rằng cảm giác là nền tảng của mối liên
hệ giữa các đối tượng). Từ chỗ cho rằng mọi tồn tại trong thế giới đều là
những mắt khâu của một thực thể vật chất duy nhất, là những trạng thái và
hình thức tồn tại khác nhau của nó, phép biện chứng duy vật thừa nhận, có
mối liên hệ phổ biến giữa các đối tượng. Thế giới không phải là thể hỗn loạn
các đối tượng, mà là hệ thống các liên hệ đối tượng. Như vậy, chính tính
thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở cho mọi liên hệ. Nhờ sự thống nhất
đó các đối tượng khơng thể tồn tại cô lập, mà luôn tác động qua lại, chuyển
hố lẫn nhau.
Ngun lí về mối liên hệ phổ biến chỉ tính khách quan, tính phổ biến,
tính đa dạng trong mối liên hệ của sự vật, hiện tượng.


5

Tính khách quan của mối liên hệ
Mối liên hệ ln vốn có ở bản thân đối tượng chứ khơng hề mang tính
chủ quan. Trong thế giới khơng có đối tượng nào tồn tại cô lập, mỗi đối tượng
đều tồn tại cùng các mối liên hệ, bản tính đó là khách quan ở mọi đối tượng.
Các đối tượng chỉ thể hiện sự tồn tại của mình thơng qua sự vận động, tác
động lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của chúng cũng chỉ bộc lộ thông qua
liên hệ với các đối tượng khác. Để hiểu tính khách quan của đối tượng thì con
người phải xuất phát từ các mối liên hệ vốn có của chính nó. Đây là u cầu
quan trọng nhằm phân biệt phép biện chứng duy vật với phép biện chứng duy
tâm và thuật nguy biện.
Tính phổ biến của mối liên hệ
Như vậy, bất cứ đối tượng nào cũng liên hệ với các đối tượng khác,
khơng có đối tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Mối liên hệ cũng có ở tất cả
các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Mối liên hệ biểu hiện dưới những
hình thức đặc biệt tuỳ thuộc những điều kiện nhất định. Nhưng mọi hình thức

cũng đều chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến, chung nhất. Ngồi ra, tính
phổ biến các mối liên hệ của đối tượng, còn gồm hai tầng nghĩa nữa. Một là,
các yếu tố, các bộ phận khác nhau bên trong mọi đối tượng cũng đều luôn liên
hệ tác động qua lại, tức là, chúng phải có kết cấu nội tại. Hai là, thế giới trong
tính tồn bộ của nó là một chỉnh thể thống nhất của các mối liên hệ tương tác
lẫn nhau. Từ giới tự nhiên vô cơ, hữu cơ, đến xã hội, mọi đối tượng đều liên
hệ phổ biến và tác động lẫn nhau, không tồn tại đối tượng tuyệt đối cô lập.
Thực tiễn tạo nên các hình thức tồn tại xã hội và hoạt động sống của con
người, mà thực chất là những mối liên hệ riêng có của lồi người, tức là
phương thức và con đường cơ bản thực hiện các mối liên hệ thực giữa xã hội
và giới tự nhiên, giữa con người với nhau trong xã hội. Lênin nhấn mạnh:
“Những quan hệ của mỗi sự vật (hiện tượng...) không những là mn vẻ, mà
cịn là phổ biến, tồn diện. Mỗi sự vật (hiện tượng, quá trình...) đều liên hệ
với mỗi sự vật khác”. Toàn bộ sự phát triển khoa học và kinh nghiệm thực
tiễn của loài người đã chứng minh điều này. Thế giới là một chính thể thống
nhất các mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau; đối tượng nào cũng đều là sự
liên kết trong mạng lưới các mối liên hệ thống nhất và thể hiện tính phổ biến
của nó thơng qua mạng lưới đó.
Tính đa dạng của các mối liên hệ
Vì có nhiều đối tượng cùng tồn tại, vận động và phát triển thông qua
liên hệ tương tác với nhau, do vậy các mối liên hệ cũng rất đa dạng, mỗi đối
tượng có nhiều mối liên hệ, chúng được phân loại thành: liên hệ bên trong liên hệ bên ngoài, liên hệ chủ yếu - liên hệ thứ yếu; liên hệ bản chất - liên hệ
không bản chất; liên hệ tất nhiên - liên hệ ngẫu nhiên, liên hệ trực tiếp - liên
hệ gián tiếp,...


6

Các cặp mối liên hệ có quan hệ biện chứng với nhau, sự phân chia từng
cặp đó chỉ tương đối, vì nó chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt khâu

của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hố
lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của nó, hoặc do kết quả vận động và phát
triển của chính các đối tượng.
Nếu mỗi đối tượng đều liên hệ hữu cơ với các đối tượng khác và sự liên
hệ đó là hình thức tồn tại, là điều kiện cần thiết, để bộc lộ các thuộc tính của
đối tượng, thì để nhận thức nó và các thuộc tính đặc trưng của nó, tất yếu phải
khảo sát nó trong mối liên hệ hữu cơ với các đối tượng khác, cần phải tính
đến tổng hồ những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác.
Chỉ có như thế mới đảm bảo kết quả nhận thức chân thực về đối tượng.
“Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả
các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó” 2.
Chẳng hạn, để nhận thức bản chất con người, cần phải khảo sát nó
trong các quan hệ sản xuất, phân phối của cải vật chất, trong các quan hệ
chính trị, tư tưởng gia đình và các quan hệ khác. Để hiểu bản chất của tư bản,
cần nghiên cứu các quan hệ tiền hàng, sự chuyển hoá sức lao động thành hàng
hố và tương quan của nó với người chủ tư liệu sản xuất.
Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động
phù hợp nhằm đạt hiệu quả hoạt động cao nhất. Nguyên lí về mối liên hệ phổ
biến của các đối tượng đòi hỏi con người phải biết phân tích mối liên hệ cụ
thể của đối tượng, xây dựng quan niệm về tính chỉnh thể, tính mở trong phân
tích các mối liên hệ của các đối tượng, khảo sát các liên hệ phổ biến của đối
tượng từ động thái của nó. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay địi hỏi mọi người phải nhận thức chính xác và xử lí đúng đắn các
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với nhau, nhằm
thúc đẩy sự phát triển nhịp nhàng bền vững toàn diện đời sống kinh tế - xã
hội. Ngày nay, xu hướng toàn cầu hoá thế giới đã trở nên mạnh mẽ hơn bao
giờ hết, các quốc gia, dân tộc ngày càng có xu thế tồn tại trong mối liên hệ
ràng buộc lẫn nhau, điều đó lại càng địi hỏi chúng ta phải biết nắm bắt các
mối liên hệ tương hỗ nhiều mặt trong tiến trình phát triển của thế giới, thực
hiện chính sách hội nhập, nắm bắt thời cơ và phát huy nội lực để phát triển

đất nước.
1.2. Nguyên tắc toàn diện trong Triết học Mác - Lênin
2

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 42, sđd, tr.364.


7

Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện
tượng, triết học Mác - Lênin rút ra nguyên tắc toàn diện trong nhận thức. Với
tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật
hiện tượng, nguyên tắc toàn diện đòi hỏi Theo nguyên tắc này, cần phải thực
hiện các yêu cầu sau: Thứ nhất, phải xem xét sự tồn tại của đối tượng trong
mối liên hệ giữa các bộ phận, thuộc tính khác nhau của nó và trong mối liên
hệ giữa nó với các đối tượng khác, tránh cách xem xét phiến diện một chiều,
có như vậy mới nhận thức được bản chất và các quy luật của đối tượng; Thứ
hai, phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải nắm được mối
liên hệ cơ bản, bản chất quy định sự vận động, phát triển của đối tượng, tránh
chiết trung - tức là kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ, đồng thời phải
tránh nguy biện - coi cái bản chất thành cái không bản chất, cái không cơ bản
thành cơ bản hoặc ngược lại, dẫn đến nhận thức xuyên tạc bản chất của đối
tượng. Lênin nhấn mạnh: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao
quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián
tiếp” của sự vật đó”, phải tính đến “tổng hồ những quan hệ mn vẻ của sự
vật ấy với những sự vật khác” 3. Trong thực tế, con người khó làm được điều
đó hồn tồn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ giúp
cho quá trình nhận thức và giải quyết các vấn đề thực tiễn không phạm phải
sai lầm cứng nhắc, máy móc, một chiều... Sở dĩ khó thực hiện được đầy đủ
tuyệt đối bởi vì trong quá trình vận động, phát triển, đối tượng trải qua nhiều

giai đoạn khác nhau, ở mỗi giai đoạn không phải lúc nào đối tượng cũng bộc
lộ hết các mối liên hệ bên trong và bên ngoài. Hơn nữa, tất cả những mối liên
hệ ấy chỉ được biểu hiện ra trong những điều kiện nhất định, đồng thời, bản
thân chủ thể nhận thức với những phẩm chất và năng lực thường bị hạn chế
bởi những điều kiện lịch sử xã hội xác định, chưa thể ngay lập tức bao quát
hết những mối liên hệ trong và ngồi...các đối tượng.
Ngun tắc tồn diện cịn u cầu, để nhận thức được đúng đối tượng
con người cần xét nó trong liên hệ với nhu cầu thực tiễn của mình. Mối liên
hệ giữa đối tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng, trong mỗi hoàn
cảnh, con người chỉ phản ánh một số mối liên hệ nào đó của đối tượng phù
hợp với nhu cầu lúc đó của mình, nên nhận thức của con người về đối tượng
mang tính tương đối, khơng trọn vẹn đầy đủ. Nắm được điều đó sẽ tránh coi
tri thức đã có là chân lí bất biến, tuyệt đối, cuối cùng về đối tượng mà khơng
chịu bổ sung, phát triển gì thêm.
Bởi vậy, khi xem xét toàn diện tất cả các mặt liên hệ của đối tượng phải
chú ý đến sự phát triển cụ thể của chúng. Chỉ có như vậy mới thấy được vai trị
3

V.I.Lênin, Tồn tập, tập 29, sđd, tr.239.


8

của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của tồn bộ q trình phát triển của
từng mối liên hệ cụ thể của đối tượng. Xem xét toàn diện nhưng khơng “bình
qn, dàn đều” mà có “trọng tâm, trọng điểm”, phải tìm ra vị trí từng mặt, từng
yếu tố, từng mối liên hệ trong tổng thể của chúng phải từ tri thức về nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ của đối tượng để khái quát, rút ra mối liên hệ cơ bản nhất, bản
chất nhất, quan trọng nhất, chi phối sự tồn tại và phát triển của chúng.
Như vậy, logic việc hình thành quan điểm tồn diện trong nhận thức đối

tượng phải trải qua nhiều giai đoạn, cơ bản là đi từ quan niệm ban đầu về cái
toàn thể đến nhận thức mỗi mặt, mỗi mối liên hệ cụ thể của đối tượng đó và
cuối cùng đi tới khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về
bản chất của đối tượng. Thực chất, đây cũng là đi từ cụ thể cảm tính đến cụ
thể trong tư duy.
Cần quán triệt nguyên tắc xem xét toàn diện trong nghiên cứu khoa học.
Các nghiên cứu khoa học không tách rời nhau, mà luôn liên hệ với nhau, thâm
nhập vào nhau. Nhiều đối tượng địi hỏi phải có sự nghiên cứu liên ngành của
nhiều khoa học. Con người không thể hiểu được bản chất của một hiện tượng
xã hội nếu tách nó ra khỏi những mối liên hệ, sự tác động qua lại với các hiện
tượng xã hội khác, do vậy rất cần phải xem xét toàn diện. Trong thời kì đẩy
mạnh rộng khắp cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay, nếu khơng phân tích
tồn diện những mối liên hệ, sẽ khơng đánh giá đúng tình hình và nhiệm vụ
của đất nước trong từng giai đoạn, từng lĩnh vực cụ thể và do vậy không đánh
giá hết những khó khăn, thuận lợi trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nguyên tắc
xem xét toàn diện để ra yêu cầu về tính đồng bộ trong hoạt động thực tiễn.
Theo đó, muốn cải tạo đối tượng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện
pháp, các phương tiện để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ của
đối tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng
tâm, then chốt để tập trung sức lực giải quyết. Trước đây, trong giai đoạn cách
mạng dân tộc dân chủ, trên cơ sở phân tích toàn diện bản chất xã hội Việt
Nam là thuộc địa, nửa phong kiến, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ hai
mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc xâm lược
và mâu thuẫn giữa nhân dân, mà trước hết là nông dân với giai cấp địa chủ,
phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn thứ nhất đứng ở hàng đầu, cần tập trung lực
lượng giải quyết, sau đó mới giải quyết các mâu thuẫn khác. Nhờ đó, cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành
thắng lợi trọn vẹn. Ngày nay trong công cuộc đổi mới đất nước theo định



9

hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nhấn mạnh tính tất yếu phải đổi mới cả
lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị, Đảng ln xác định phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt.
2. Quá trình phát triển tư duy và nhận thức của Đảng về các
nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật cũng như nguyên tắc
toàn diện trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta
Nhìn chung, các nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật
thống nhất chặt chẽ với nhau. Sự thống nhất giữa các nguyên tắc phương
pháp luận của phép duy vật biện chứng là ở chỗ, chúng đều được rút ra từ
những nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật, phản ánh
sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự khác biệt giữa
chúng là mỗi nguyên tắc được rút ra từ sự phản ánh từng mặt nhất định của
hiện thực. Mỗi một nguyên tắc có thể được xây dựng trên cơ sở khơng phải
của một, mà có thể của một số nguyên lí, phạm trù, quy luật, nên khi vận
dụng chúng, điều quan trọng nhất là phải nhận thức được chúng trong mối
liên hệ hữu cơ với nhau ở các giai đoạn phát triển của nhận thức và thực tiễn,
đặc biệt là Nguyên tắc toàn diện.
Từ Đại hội VI năm1986, nước ta bước vào thời kỳ đổi mới. Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nhận ra nhiều hạn chế trong các hoạt động nhận thức và chỉ
đạo thực tiễn trước đó của mình. Ngun nhân là do chưa biết vận dụng hoặc
vận dụng một cách giao điều, máy móc học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các nguyên tắc phương pháp luận nêu trên.
Thay đổi đầu tiên diễn ra từ trong nhận thức, Đảng đã ý thức được sâu
sắc rằng, cách mạng là sáng tạo, chân lí là cụ thể. Nguyên tắc “phân tích cụ
thể một tình hình cụ thể” (Lênin) như là bản chất, linh hồn sống của chủ
nghĩa Mác đã dần được tích cực vận dụng như một nguyên tắc phương pháp
luận khoa học và cách mạng trong hoạt động lí luận và thực tiễn của Đảng.

Đảng nhấn mạnh nhiều hơn đến sự cần thiết phải nắm vững các nguyên tắc
phương pháp luận biện chứng duy vật vào việc phân tích, đánh giá thực tiễn,
phải thấm nhuần các nguyên tắc toàn diện, phát triển và lịch sử - cụ thể trong
nghiên cứu, nhận định tình hình phát triển kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội,
cơng tác lí luận, khoa học, giáo dục, để được vận dụng tốt hơn vào xây dựng
đất nước.
2.1. Vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật với việc giải quyết
các vấn đề về phát triển kinh tế, chính trị và văn hoá - xã hội


10

Việc vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật
cũng như Nguyên tắc toàn diện đã giúp đất nước đạt được những thành tựu
trong đổi mới kinh tế và chính trị. Vận dụng Ngun tắc tồn diện, Đảng đã
đổi mới tư duy lí luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bắt
đầu từ Đại hội VI năm 1986, Đảng đã đề ra và dần hoàn thiện qua các kỳ Đại
hội đường lối đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hoá, nhiều thành phần, cho
phép và khuyến khích kinh tế tư nhân, cá thể phát triển, chú ý đảm bảo hợp lí
lợi ích cá nhân làm động lực trực tiếp cho phát triển kinh tế, điều chỉnh cơ
cấu kinh tế vĩ mô, sắp xếp lại các lĩnh vực và khu vực sản xuất chính, có
chính sách biến hoạt động dịch vụ sản xuất, kinh doanh và đời sống thành
một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế, do đó đất nước đã xây dựng
được một nền kinh tế có cơ cấu Cơng - nơng nghiệp - dịch vụ tương đối hợp
lí, gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
Từ những yếu kém, không thành công do nhiều nguyên nhân khác nhau
của cơng nghiệp hố trước đổi mới, Đảng đã nhận thức rõ hơn về tính tất yếu,
mơ hình, mục tiêu của cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, đặc biệt là khu
vực nơng nghiệp, nơng thơn, trong thời kì mới. Cơng nghiệp hố là sự chuyển
đổi căn bản, tồn diện các hoạt động kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động giản

đơn là chính sang dùng lao động công nghệ cao với phương tiện và phương
pháp sản xuất tiên tiến, hiện đại có năng suất vượt trội. Đó cịn là q trình
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải biến xã hội nông
nghiệp lạc hậu đưa nước ta trở thành xã hội cơng nghiệp, hiện đại hóa.
Để đảm bảo đổi mới kinh tế thành công, nhất thiết phải giữ vững ổn định
và từng bước thực hiện đổi mới chính trị. Đảng ln khẳng định, đổi mới kinh tế
là trung tâm, giữ vững ổn định chính trị là một nguyên tắc của đổi mới, khơng
giữ được ổn định thì khơng cịn là đổi mới theo đúng mục tiêu bảo vệ và xây
dựng đất nước phồn vinh, điều này là phổ biến đối với tất cả các nước trong giai
đoạn chuyển đổi, không riêng gì Việt Nam. Trong đổi mới chính trị phải giữ
vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện và trực tiếp, đổi mới trước
hết trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Đổi mới trong Đảng - hạt nhân của hệ
thống chính trị - lại đặt ra những yêu cầu và làm gương cho việc đổi mới các bộ
phận hợp thành hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở. Có đổi mới đồng bộ
như vậy mới củng cố vững chắc và phát huy được vai trò của hệ thống chính trị
các cấp, và mới biểu hiện được việc thực hiện nhất quán nguyên lí của chủ nghĩa
Mác - Lênin rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chính trị là ý chí và
cuộc sống của hàng triệu triệu nhân dân.
Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân, Đảng đã từng bước áp dụng các nguyên tắc biện chứng duy vật
cơ bản, nhất là Nguyên tắc toàn diện vào phân tích nguyên nhân yếu kém


11

trong cơng tác này, nêu một số vấn đề có tính phương pháp luận là: Việc xây
dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải gắn với củng
cố chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa và mở rộng dân chủ phù hợp với các điều
kiện chuyển đổi nền kinh tế. Phải luôn chăm lo phát huy vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam ở mọi cấp chính quyền, bởi vì Đảng là của giai cấp

công nhân đồng thời của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Do vậy, vấn
đề xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng luôn được đặt lên vị trí hàng đầu
trong bất kì hồn cảnh nào Đảng cũng phải kiên định những nguyên tắc lí
luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
để phân tích tình hình, vận dụng sáng tạo đề ra chủ trương, đường lối, chính
sách sát hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Vận dụng Nguyên tắc toàn diện và Nguyên tắc lịch sử - cụ thể để
giải quyết thoả đáng vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân và kết nạp người
làm kinh tế tư nhân vào Đảng.
Ở đây rõ ràng là phải có cách tiếp cận tồn diện. Một mặt, Đảng kiên trì
nguyên tắc đảng viên phải là người lao động, khơng bóc lột. Mặt khác, Đảng
xem xét các điều kiện cụ thể, tính đến những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn để
cho phép và hướng dẫn, tạo điều kiện cho đảng viên làm kinh tế gia đình và
cá thể, tiểu chủ. Và Đảng cũng khơng ngăn cấm những người làm kinh tế tư
nhân giỏi, giải quyết việc làm cho người lao động, mang lại lợi ích cho xã
hội, làm giàu chính đáng cho bản thân, tuân thủ pháp luật, gia nhập Đảng
Cộng sản.
Vấn đề nêu trên vừa mang tính kinh tế, vừa đậm tính chính trị, nếu
được giải quyết tốt sẽ tạo điều kiện mở rộng sự đồng thuận và đồn kết trong
xã hội, góp phần điều tiết hợp lí sự phân hố giàu - nghèo. Vì liên quan chặt
chẽ với nhau nên việc giải quyết vấn đề hai mặt trên còn thúc đẩy việc kiến
tạo đời sống văn hố - tinh thần sơi động, lành mạnh trong xã hội, tạo cơ sở
vững chắc cho việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, chú trọng kế thừa truyền thống kết hợp với tiếp thu
có chọn lọc những tinh hoa văn hoá của nhân loại.
2.3. Văn dụng Nguyên tắc toàn diện, phát triển với việc khái quát lí
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trước đổi mới, quan niệm ở Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và xây dựng
chủ nghĩa xã hội có nhiều biểu hiện giáo điều, chủ quan duy ý chí, vi phạm,
làm sai quy luật.

Do cách nhìn phiến diện, đã khơng coi trọng đúng mức một loạt động
lực quan trọng của phát triển: Xem thường, thậm chí phủ nhận các lợi ích
khơng mang tính tập thể - xã hội, chưa thấy đúng vị trí, vai trị của dân chủ,


12

tức là chưa nhìn ra được mối liên hệ giữa quyền và lợi ích, quyền và nghĩa
vụ, lợi ích và trách nhiệm, trước hết là lợi ích kinh tế, vật chất của cơng dân,
chưa đánh giá đầy đủ vai trị của khoa học - kĩ thuật và công nghệ, nhất là của
lí luận và khoa học xã hội nhân văn... Tất cả đều kìm hãm tinh thần hăng hái,
nhiệt tình sáng tạo của nhân dân trong lao động. Nói chung là chưa biết đến
và càng không thực hiện được các chính sách và giải pháp phát huy nguồn lực
con người, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thêm vào đó, do hiểu sự phát triển quá giản lược, nên trước đổi mới đã phổ
biến quan niệm tĩnh tại, khép kín về xây dựng chủ nghĩa xã hội, coi đó là q
trình vận động thẳng tắp, đóng khung trong giới hạn hệ thống xã hội chủ
nghĩa, tách biệt trong hầu hết mọi lĩnh vực với các thế giới khác, tức là từ
chối bỏ những động lực bên ngoài rất quý báu cho sự phát triển bên trong.
Những hạn chế lớn nhất đó trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội trước đây
chứng tỏ sự nhận thức và vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận biện
chứng duy vật cịn nhiều thiếu sót.
Bước vào đổi mới, từ kinh nghiệm bản thân và nhất là từ sự khủng
hoảng kéo dài dẫn đến mơ hình chủ nghĩa xã hội ở châu Âu sụp đổ, với tinh
thần “nhìn thẳng vào sự thật”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thấy rằng, mơ
hình chủ nghĩa xã hội hành chính - quan liêu chỉ gắn với một lí luận giáo điều
xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin chân chính, chứ khơng phải bản thân chủ
nghĩa này sai. Nếu làm đúng như những chỉ dẫn của các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác - Lênin thì chủ nghĩa xã hội đã khơng đổ vỡ. Kết luận khoa học
dựa trên việc “phân tích cụ thể tình hình cụ thể và tồn diện” đã giúp nhân

dân lấy lại niềm tin và thêm vững tin vào con đường chủ nghĩa xã hội để xây
dựng đất nước giàu mạnh, mọi người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Nhận thức lại di sản kinh điển Mác - Lênin, áp dụng nguyên tắc phát
triển, Đảng khẳng định, chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan. Lênin dự báo,
sớm hay muộn thì tất cả các quốc gia, các dân tộc đều sẽ đi tới chủ nghĩa xã
hội. Đối với nước ta đây còn là sự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với
tình hình thực tiễn lịch sử. Chúng ta khơng thể lấy mơ hình chủ nghĩa xã hội
ở nước nào đó áp đặt nguyên xi cho đất nước ta. Mỗi nước sẽ tìm tịi mơ hình
phát triển thích hợp nhất với nước mình. Tính tất yếu phổ biến tồn thế giới
hồn tồn có thể dung nạp trong bản thân nó sự đa dạng, phong phú, đặc sắc
của tính đặc thù dân tộc. Nhưng do đó cũng phải tính đến vai trò và đặc điểm
của dân tộc trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Kết luận trên có được chính là từ nhận thức đúng mối liên hệ biện
chứng giữa cái phổ biến, toàn diện và cái đặc thù. Nhưng khái quát hơn thì
phải thấy trong nghiên cứu về phát triển, về mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã


13

hội và phát triển cần hết sức chú ý các nguyên tắc toàn diện, phát triển và lịch
sử - cụ thể. Chúng cho phép hiểu rõ rằng, thế giới hiện tại đã trở nên phức tạp
hơn rất nhiều so với thế giới lúc các nhà kinh điển còn sống. Phát triển tự nó
đã là phức tạp, phát triển làm cho những vấn đề mới phát sinh còn phức tạp
hơn những vấn đề đã được giải quyết.
Dựa trên sự thật lịch sử của chủ nghĩa xã hội hiện thực với các diễn
biến và tình huống của nó, phân tích theo các nguyên tắc biện chứng duy vật
những căn nguyên cùng hậu quả sự biến dạng của chủ nghĩa xã hội, Đại hội
VII (năm 1991) của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ, đi lên chủ nghĩa xã hội và được hoàn thiện bổ sung thêm tại
Đại hội XI (năm 2011). Cương lĩnh là văn bản mang tính chiến lược phù hợp

với thực tiễn về tính chất, trình độ phát triển của đất nước. Nó cũng nhất quán
với tư tưởng đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như thế, với cách
nhìn hiện thực, Đảng đã nhận thức rằng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đang là
một định hướng phát triển chứ chưa phải là một chủ nghĩa xã hội đã định hình
đầy đủ. Sự đánh giá như vậy đã vượt lên những hạn chế giáo điều, khơng
tưởng, thốt ly thực tế trước đây. Nhận thức của Đảng đạt tới hiện nay sẽ còn
được bổ sung, phát triển cùng với sự vận động tiếp theo của thực tiễn và của
tư duy lí luận.
Bên cạnh việc hình thành được những hiểu biết mới về chủ nghĩa xã
hội, Đảng đã nhận thức được rõ hơn những điểm cơ bản của con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, ở lĩnh vực này cơng tác lí luận
cịn chậm và đang vướng mắc những bất cập. Đó là, chưa làm rõ hết các đặc
điểm của Việt Nam ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, do vậy chưa thể phân chia các giai đoạn nhỏ hơn của thời kì
q độ; cịn nhiều điểm chưa rõ trong lí luận kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam; cịn chưa đầy đủ lí luận về Đảng cầm quyền và xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cơ chế đảm bảo dân chủ và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Nguyên nhân của những hạn chế có cả khách quan lẫn chủ quan, cả sâu
xa lẫn trực tiếp, nhưng có thể tóm lược lại là do thực tiễn trong nước chưa
phát triển đầy đủ đến độ chín muồi, chưa bộc lộ rõ những bước phát triển mới
về chất để phủ định giới hạn phát triển cũ nên lí luận cũng chưa có đủ cơ sở
cho nghiên cứu hệ thống, khái quát hố thật sự căn bản.
Thêm vào đó, nước ta khơng có truyền thống tư duy khoa học lí luận
với thói quen phân tích thực chứng, khoa học dự báo chưa phát triển. Trong
khi những ảnh hưởng tiêu cực, hậu quả nặng nề của bệnh giáo điều, kinh


14


nghiệm, siêu hình, hình thức, thốt ly thực tiễn, tách rời lí luận và những tàn
dư của sự trì trệ, bảo thủ vẫn chưa mấy được khắc phục thì những biểu hiện
giáo điều mới đã xuất hiện. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác nghiên
cứu lí luận cũng chưa thường xuyên, quyết liệt. Do vậy, giải pháp khắc phục
những hạn chế nêu trên chủ yếu vẫn phải là nắm bắt và vận dụng đúng đắn,
sáng tạo các nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật vào phát triển
lí luận. Cần phải chú trọng phát huy vai trị của các khoa học xã hội và nhân
văn trong việc nghiên cứu, đề ra các luận cứ khoa học tin cậy nhất phục vụ
việc hoạch định đường lối, chiến lược phát triển đất nước.
Phương pháp luận biện chứng duy vật với hoạt động nghiên cứu khoa
học xã hội và nhân văn. Thời kì trước đổi mới, vai trị của khoa học, đặc biệt
là của khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta chưa được chú trọng đúng mức.
Công cuộc đổi mới tạo ra môi trường thuận lợi thúc đẩy hoạt động nghiên
cứu, đã coi trọng này từng bước khắc phục tình trạng lạc hậu, thụ động chạy
theo sau cuộc sống, thuyết minh một chiều các nghị quyết và đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình đổi mới, bên cạnh những thành
tựu nghiên cứu đã đạt được rất đáng tự hào, khoa học xã hội và nhân văn vẫn
còn nhiều hạn chế chủ yếu như: đổi mới còn chậm chưa đáp ứng được yêu
cầu và chưa theo kịp sự vận động của thực tiễn, lạc hậu so với các nước trong
khu vực và thế giới, khả năng dự báo còn yếu; chưa làm sáng tỏ kịp thời, triệt
để một số vấn đề lí luận quan trọng, cấp bách. Nhìn chung lý luận khoa học
chưa trở thành kim chỉ nam hiệu quả cho thực tiễn. Khoa học và hội nhân văn
chưa biết kết hợp phân tích những nhân tố tác động và ảnh hưởng của bối
cảnh quốc tế đương đại vào nước ta với những biến đổi của ý thức xã hội, của
thực tiễn đổi mới và những nhận thức của Đảng về lãnh đạo, quản lí trong
điều kiện thị trường, dân chủ và Nhà nước pháp quyền, mở cửa, hội nhập
quốc tế.
Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân, song cơ bản vẫn là do trong quá
trình đổi mới, tuy chúng ta đã nhận thức được vai trị quốc sách hàng đầu của
khoa học - cơng nghệ và giáo dục - đào tạo, đã thấy rõ văn hoá là động lực

của phát triển kinh tế - xã hội, là nền tảng tinh thần của xã hội, nhưng lại chưa
có những chính sách và giải pháp đột phá để thúc đẩy phát triển khoa học xã
hội nhân văn, chưa ngăn chặn được sự suy thoái chất lượng dạy và học và các
môn khoa học này, chưa huy động được đơng đảo lực lượng tham gia đóng
góp vào sự nghiệp phát triển khoa học xã hội nhân văn.
Ngoài ra, với việc thiếu trầm trọng đội ngũ chuyên gia giỏi, đầu đàn, sự
kết hợp nghiên cứu chuyên sâu và liên ngành, đa ngành còn yếu, chưa thực sự
phối hợp được các cá nhân và tổ chức nghiên cứu, do vậy nguồn lực còn phân


15

tán lãng phí, nội dung nghiên cứu cịn trùng lặp; chưa phát triển khoa học xã
hội nhân văn và triển khai nghiên cứu lí luận đồng bộ rộng khắp ở các địa
phương, các ngành, các cấp. Những việc đó chưa thực sự trở thành đòi hỏi
bức xúc, nhu cầu nội tại của cơ quan lãnh đạo, quản lí địa phương, ngành…
Nói riêng trong khoa học xã hội nhân văn thì việc lựa chọn phương
pháp tiếp cận đối tượng nghiên cứu vẫn còn xa vời các nguyên tắc biện chứng
duy vật và Nguyên tắc toàn diện, chưa xác định đúng và trúng những hướng
nghiên cứu chủ yếu cần tập trung làm sáng tỏ theo quan điểm thực tiễn,
nguyên tắc phát triển, chưa đủ thuấn nhuần phương pháp luận mácxít “phân
tích cụ thể một tình hình cụ thể” trên mỗi vấn đề mà sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra. Vẫn cịn hiện tượng hiện đại hố thái q một số
khn mẫu lí luận nhập khẩu từ bên ngoài một cách cách chủ quan khiến rơi
vào sai lầm đem tư biện thay thế thực tiễn cuộc sống.
Tình hình đó địi hỏi các nhà khoa học nỗ lực nghiên cứu hơn nữa, tích
cực cung cấp những luận cứ khoa học chính xác để hình thành đường lối,
chính sách, để nâng cao tiềm lực tư tưởng, trí tuệ của Đảng, giúp Đảng làm
tốt nhiệm vụ lãnh đạo, đồng thời nâng cao nhận thức, ý thức xã hội trong
công cuộc đổi mới. Ở một trình độ cao hơn, khoa học xã hội nhân văn cịn

phải đóng vai trị tư vấn, phản biện cho các quyết sách lãnh đạo - quản lí, đưa
ra những dự báo đi trước thực tiễn để định hướng và thúc đẩy sự phát triển
của thực tiễn. Sự phát triển của thực tiễn đổi mới hiện nay và những xu hướng
phát triển khó lường của xã hội trong thế giới tồn cầu đang địi hỏi khoa học
xã hội và nhân văn phải có những đột phá mạnh bạo trên tất cả các hướng
nghiên cứu chủ chốt, mũi nhọn từ văn, sử, triết đến chính trị, kinh tế, xã hội
học, tâm lí học, pháp luật, đạo đức, thẩm mĩ, nghệ thuật...
Để đáp ứng được yêu cầu đó, khoa học xã hội và nhân văn cần vận
dụng các nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật, nhất là Nguyên
tắc toàn diện, Nguyên tắc phát triển, để làm rõ các quan hệ kinh tế, chính trị,
xã hội và văn hố tinh thần ở nước ta hiện nay, những đặc điểm sinh thành
của nó cùng với các tác động từ bên ngoài nhằm thúc đẩy sự phát triển lành
mạnh đất nước trong thực tiễn.
Từ yêu cầu đó, cần tập trung nghiên cứu lí luận cơ bản về triết học,
khám phá thêm những giá trị mới trong di sản kinh điển Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, làm rõ những nét đặc sắc trong phương pháp và phong


16

cách tư duy của các bậc tiền bối đó mà biết nắm lấy tinh thần và phương pháp
của học thuyết mácxít, sử dụng nó như những cơng cụ phân tích thực tiễn xã
hội, để độc lập đi tới những kết luận mới, xây dựng những quan niệm lí luận
mới do chính lịch sử và đời sống của đất nước và dân tộc Việt Nam đặt ra.
Bằng những hành động cụ thể của mình khoa học xã hội và nhân văn làm
cho mọi người hiểu những đóng góp của mình vào công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc để họ coi trọng mình hơn. Muốn vậy thì phải bắt đầu từ việc đào tạo
những trí thức khoa học xã hội và nhân văn ở mọi trình độ, mà việc cần làm
ngay là chú trọng xây dựng chương trình, biên soạn bài giáo trình, đổi mới
phương pháp dạy và học để nâng cao chất lượng ngũ trí thức này.

Những đổi mới về chính sách, cơ chế của Đảng và Nhà nước trong năm
gần đây, nhất là việc đầu tư vào các chương trình nghiên cứu quốc gia về
khoa học xã hội nhân văn và lí luận, việc chú trọng nghiên cứu, trao đổi hợp
tác với các nước đã góp phần quan trọng để nâng cao năng lực nghiên cứu
khoa học ở trong nước. Các kết quả nghiên cứu bước đầu, các đề xuất, kiến
nghị rút ra từ các kết quả nghiên cứu đó đã được các cơ quan lãnh đạo, quản
lí của Đảng và Nhà nước chú trọng tiếp thu, sử dụng, làm cơ sở cho các quyết
sách về đường lối, chính sách. Đổi mới đã mở ra nhu cầu và khả năng đáp
ứng nhu cầu về tư vấn phản biện của khoa học xã hội nhân văn đối với sự
lãnh đạo của Đảng và quản lí của Nhà nước. Điều này cũng thực sự mở ra khả
năng mới áp dụng tốt hơn những nguyên tắc biện chứng duy vật cũng như
Nguyên tắc toàn diện và các lĩnh vực nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân
văn ở nước ta trong thời gian tới.

II. Vận dụng Nguyên tắc toàn diện trong giải quyết các mối quan hệ
lớn của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay theo tinh thần Đại hội XIII
của Đảng


17

Nắm vững phép biện chứng duy vật và mài sắc tư duy biện chứng, vận
dụng các nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật nói chung, ngun
tắc tồn diện nói riêng sẽ giúp chúng ta nhận thức được tính biện chứng của thế
giới, tính tất yếu của cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Với những thành
tựu và hạn chế mà Đảng ta đã thẳng thắn nhìn nhận, tiếp tục nghiên cứu tình
hình thực tiễn của đất nước, bổ sung lý luận về giải quyết các mối quan hệ lớn
của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
1. Những thành tựu và hạn chế trong việc vận dụng Nguyên tắc toàn diện
để giải quyết các mối quan hệ lớn trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay Một số nguyên nhân hạn chế, khuyết điểm và bài học kinh nghiệm

1.1. Những thành tựu và hạn chế trong việc vận dụng Nguyên tắc toàn diện
để giải quyết các mối quan hệ lớn trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước đã chú trọng hơn trong ban hành các cơ chế,
chính sách, giải pháp có khả năng “tích hợp” được vai trò của cả ba nhân tố đổi
mới, ổn định, và phát triển. Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và
phát triển được đặt trọng tâm vào nhân tố con người với tư cách vừa là chủ thể,
vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cả đổi mới, ổn định và phát triển. Vai trò
lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước không ngừng được đổi mới và nâng
cao hơn. Đây là một trong những nhân tố trọng yếu nhất đảm bảo cho quá trình
đổi mới, ổn định và phát triển đất nước đạt được những thành tựu quan trọng.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển được giải
quyết tương đối toàn diện, nhưng chưa coi trọng đúng mức tính đồng bộ giữa
các yếu tố nói trên trong tổng thể, và giữa các lĩnh vực cụ thể (kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hóa, hội nhập quốc tế…), giữa các vùng, miền, địa phương. Đổi mới,
ổn định và phát triển chưa thật sự được gắn kết chặt chẽ với nhau; có những nơi,
những lúc quá chú trọng phát triển kinh tế, mất dân chủ đã không chú trọng
đúng mức đến đảm bảo ổn định xã hội.
Thứ hai, tư duy mới về kinh tế và chính trị đã làm thay đổi căn bản đời
sống kinh tế và đời sống chính trị, tạo ra bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế và
sự ổn định về chính trị của đất nước.
Trong đổi mới kinh tế, Đại hội XII đánh giá: Thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp
tục được hồn thiện. Mơi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, bình đẳng và
thơng thống hơn. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành
đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Vai trò của Nhà nước
được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ
trong đời sống kinh tế - xã hội.
Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn
đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy kinh tế của nước ta tăng
trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nhờ vậy, sau 35



18

năm đổi mới chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
đất nước thốt khỏi khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước có thu
nhập trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và thế giới, tạo thế và
lực mới cho nền kinh tế.
Trong đổi mới chính trị, Đại hội XII đánh giá: Tổ chức bộ máy các cơ
quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục
được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối
quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều
chỉnh phù hợp hơn. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
tiếp tục được đổi mới. Đã ban hành nhiều quy chế, quy định, quy trình cơng tác
để thực hiện, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy
vai trị, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống
chính trị nhất là vai trị của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc. Quan điểm và thể
chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một
bước quan trọng và cơ bản. Vai trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của
Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao. Quốc hội có nhiều đổi
mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Hệ thống pháp luật tiếp tục
được hồn thiện. Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ
mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính
tiếp tục được chú trọng và bước đầu đạt kết quả tích cực. Quyền làm chủ của
nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân
chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị được phát huy tốt hơn.
Tuy nhiên, đổi mới chính trị vẫn còn chậm hơn so với đổi mới kinh tế,
chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, vẫn cịn nhiều chính sách chưa
phù hợp với cuộc sống, gây cản trở sự phát triển kinh tế; tình trạng vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân vẫn tồn tại, có nơi có diễn biến phức tạp, hoạt động

của các tổ chức chính trị - xã hội có xu hướng hành chính hóa và bộ máy cồng
kềnh; đổi mới trong bản thân lĩnh vực chính trị cũng cịn những hạn chế.
Thứ ba, mối quan hệ giữa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường và
định hướng xã hội chủ nghĩa được giải quyết, đạt kết quả bước đầu. Từng bước
thể chế hóa thành hệ thống chính sách phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng
sức sản xuất, giải phóng các nguồn lực, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
Trong hoàn thiện quan hệ sản xuất, đã phát triển các hình thức sở hữu đa
dạng, hoàn thiện bước đầu thể chế về phân phối dựa trên nguyên tắc thị trường, đổi
mới cơ bản cơ chế quản lý đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước, thừa nhận kinh
tế tư nhân là động lực quan trọng. Việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực


19

lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất bước đầu được chú ý trong xây
dựng, hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách phát triển kinh tế xã hội.
Bên cạnh đó, việc hồn thiện quan hệ sản xuất trong những năm vừa qua
vừa chưa bắt nhịp được với tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất, vừa méo
mó, thiếu đầy đủ trong nội dung của quan hệ sản xuất. Tư duy về hiện thực hóa
yêu cầu quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất chưa
trở thành thường xuyên trong xây dựng và hoạch định, tổ chức thực hiện chính
sách phát triển. Chưa chú trọng phát triển con người; chất lượng nguồn nhân lực
không được cải thiện căn bản. Tiềm lực khoa học - công nghệ chưa được khơi
dậy và phát huy tốt, sự kết nối giữa nghiên cứu và triển khai chưa hiệu quả.
Thứ tư, việc thực hiện mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và
xây dựng từng bước quan hệ sản xuất, Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể hóa kịp
thời vào các Văn kiện, thể chế trong suốt thời kỳ đổi mới đến này, đặc biệt là sau
năm 2011. Nhờ vậy, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam đã có
những bước tiến đáng kể; quan hệ sản xuất thay đổi cơ bản so với trước đổi mới

và ngày càng hoàn thiện phù hợp hơn với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam được cải thiện trên nhiều mặt. Môi trường
đầu tư liên tục được cải thiện đã thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư cho phát
triển.Với việc giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất, sau 35 năm đổi mới Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan
trọng trong công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ một nước
nông nghiệp lạc hậu với trên 80% dân số sống ở nông thôn, Việt Nam đã xây
dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo lập mơi trường thu hút mạnh mẽ
các nguồn lực xã hội cho phát triển. Các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có
bước phát triển tích cực. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, giảm
dần khu vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và công nghiệp.
Bên cạnh những thành tựu đạt được thời gian qua, trong nhận thức và giải
quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vẫn bộc lộ nhiều
hạn chế, yếu kém, xuất hiện những mâu thuẫn mới, sự không phù hợp giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, làm cản trở sự phát triển của cả lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, đó là: Chưa bảo đảm được sự tương thích trong
xây dựng, hồn thiện giữa các mặt của quan hệ sản xuất, vẫn tập trung để thay
đổi chế độ sở hữu hơn là đổi mới về quan hệ quản lý. Việc quản lý, khai thác, sử
dụng, phát huy các nguồn lực của nền kinh tế còn hạn chế, bất cập; chậm chạp
trong việc thay đổi thể chế làm kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất.
Chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung cịn thấp, cơ cấu lao động theo trình độ
đào tạo cịn bất hợp lý; kết nối cung cầu trên thị trường lao động còn nhiều bất
cập. Năng suất lao động thấp xa so với các nước trong khu vực. Việc quản lý,
khai thác và sử dụng tài ngun chưa hiệu quả, cịn lãng phí, hủy hoại môi


20

trường. Cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn lạc hậu, thiếu đồng

bộ; quản lý, khai thác và sử dụng cơ sở hạ tầng cịn bất cập. Khoa học và cơng
nghệ chưa tương xứng với vai trò là động lực then chốt và nền tảng cho quá
trình phát triển đất nước. Mức độ sẵn sàng trong áp dụng công nghệ và khả năng
tiếp nhận cơng nghệ của doanh nghiệp Việt Nam cịn thấp. Tiến trình thực hiện
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cịn chậm, chưa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Trình độ công nghệ lạc hậu, chậm được đổi mới; chất lượng sản phẩm, năng suất
lao động ngành cơng nghiệp cịn thấp. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước
chưa được thể hiện rõ nét, không tương xứng với nguồn lực đang nắm giữ. Khu
vực kinh tế tư nhân chưa thực sự là động lực phát triển quan trọng của nền kinh
tế. Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa tạo được hành lang pháp lý
thuận lợi cho sự vận hành của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế. Chế
độ phân phối đổi mới chậm, còn nhiều bất hợp lý, chưa thực sự bình đẳng; chính
sách tiền lương chưa tạo được động lực thu hút và sử dụng người tài.
Thứ năm, việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội
đạt kết quả bước đầu. Nhà nước đã chú ý đến vai trị “bà đỡ” cho thị trường hình
thành và phát triển. Hình thành thể chế về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước.
Nhà nước đã dần hạn chế tối đa mệnh lệnh hành chính để các hoạt động của thị
trường diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật thị trường, đảm bảo
nguyên tắc thị trường “tự điều chỉnh”; thể chế định giá, nhất là giá cả hàng hóa,
dịch vụ, đã được tự do hóa. Vai trò, chức năng của thị trường cũng càng được coi
trọng, thể hiện rõ nét ở những điểm: thị trường đã thực sự từng bước là căn cứ để
Nhà nước định hướng phát triển kinh tế thông qua các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch…; thị trường/doanh nghiệp ngoài nhà nước tham gia cung ứng các dịch vụ
xã hội; thị trường là căn cứ để tạo một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán,
minh bạch và vững chắc; thị trường tham gia kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh
tế, góp phần tạo ra sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế. Cơ cấu lại, nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước. Khu vực tư nhân có sự phát triển mạnh trong
các lĩnh vực pháp luật không cấm, và tham gia cung ứng dịch vụ công. Phát triển
các doanh nghiệp xã hội và các hội tự quản. Có sự gắn bó hơn giữa Nhà nước, thị
trường và xã hội ngay trong quá trình xây dựng và thực thi chủ trương, chính sách.

Bên cạnh đó, việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường xã hội ở nước ta còn nhiều vướng mắc, bất cập, như lẫn lộn vai trò giữa Nhà
nước và thị trường. Hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước về kinh tế còn thấp.
Kinh tế Nhà nước cũng đã bộc lộ hạn chế, bất cập, tập trung vào các vấn đề như:
việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản; phân công, phân cấp thực hiện các quyền,
trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước...
Cịn tình trạng thiếu bình đẳng, hạn chế tính cạnh tranh và làm suy giảm năng


21

lực kinh doanh của cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Thể chế kinh tế thị trường ở nước ta vẫn chưa thực sự tôn trọng vai trò, chức
năng của thị trường, chưa thực sự coi thị trường là một thực thể khách quan, các
yếu tố thị trường, các loại thị trường trong nền kinh tế chậm được đồng bộ hoá.
Vấn đề cạnh tranh, chống độc quyền và phát triển kinh tế tư nhân chưa có được
mơi trường thuận lợi. Nhận thức và hoạt động của các tổ chức xã hội còn một số
hạn chế. Chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức xã hội không rõ ràng. Việc thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân còn có những hạn chế, thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở có mặt cịn hình thức….
Thứ sáu, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội đã được tích cực triển khai trên thực tế thơng
qua việc ban hành và thực hiện các luật, chiến lược, kế hoạch, chương trình và
chính sách phát triển về văn hóa; xóa đói, giảm nghèo; giảm bất bình đẳng; tạo
việc làm; trao quyền cho phụ nữ; phát triển con người và thúc đẩy đổi mới, sáng
tạo…Cùng với quá trình tăng trưởng của nền kinh tế, Việt Nam đã có nhiều
bước phát triển mới, xét trên tất cả các khía cạnh, từ phát triển văn hóa; xóa đói,
giảm nghèo; giảm bất bình đẳng; tạo thêm việc làm mới; trao quyền cho phụ nữ;
phát triển con người và thúc đẩy đổi mới, sáng tạo.
Hàng ngàn di tích văn hóa được trùng tu, tơn tạo; hàng trăm lễ hội truyền
thống được phục hồi; nhiều làn điệu dân ca, các huyền thoại, truyền thuyết, các

bộ sử thi... di sản văn hóa vật thể, phi vật thể được công nhận ở cấp quốc gia,
quốc tế và thực tế đã trở thành những di sản chung của văn hóa nhân loại. Văn
hóa truyền thống, văn hóa của các dân tộc thiểu số được chú trọng, đầu tư phát
triển, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp bảo tồn, khẳng định giá trị, bản sắc của
văn hóa Việt Nam. Đời sống văn hóa tinh thần, quyền tự do tơn giáo, tín ngưỡng
của nhân dân cũng được khơi phục, tơn trọng. Một số mơ hình, thiết chế, phong
trào văn hóa (như Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa), đã được thiết
lập, triển khai sâu rộng và đem lại nhiều kết quả tích cực. Bên cạnh đó, Việt
Nam chủ trương xây dựng một thị trường văn hóa nhân văn, hiện đại trên cơ sở
phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Kinh tế tăng trưởng liên tục giúp Việt
Nam từ chỗ là một nước kém phát triển trở thành một nước đang phát triển có
thu nhập trung bình thấp. Mức độ bất bình đẳng tính theo hệ số Gini dựa trên chi
tiêu có xu hướng giảm. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm được giữ ở mức thấp
và cùng có xu hướng giảm dần, đồng thời với việc nhiều việc làm mới được tạo ra.
Bình đẳng giới ở Việt Nam cũng ngày càng tiến bộ và được thể hiện trong tất cả
các lĩnh vực từ chính trị cho tới kinh doanh và văn hoá - xã hội với tỷ lệ phụ nữ
tham gia quốc hội, các cấp chính quyền và kinh doanh cao. Chỉ số phát triển con
người của Việt Nam đã liên tục có sự cải thiện cùng với tỷ lệ tốt nghiệp phổ


22

thông trung học cao và tỷ lệ lao động qua đào tạo liên tục gia tăng. Chỉ số sáng
tạo liên tục tăng đã giúp cho nền kinh tế đã vươn lên nhóm nửa trên bảng xếp
hạng tồn cầu.
Tuy nhiên, việc giải quyết mối quan hệ này còn một số hạn chế, bất cập:
Thứ nhất, mặc dù liên tục tăng trưởng nhưng tỷ lệ tăng trưởng chưa ổn định và
chưa cao, đủ để tạo ra sự đột phá trong phát triển của nền kinh tế; hiệu quả sử
dụng các nguồn lực, nhất là nguồn lực nhà nước chưa cao. Thứ hai, bất bình
đẳng thu nhập đạt mức cao và có xu hướng gia tăng giữa nhóm người giàu nhất

và thấp nhất cũng như giữa thành thị và nông thôn. Thêm vào đó, bất bình đẳng
cũng cao hơn ở những tỉnh có mức thu nhập thấp. Thứ ba, tỷ lệ nghèo tính theo
cách tiếp cận đa chiều vẫn ở mức cao, đặc biệt là ở vùng nông thôn, vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số. Thứ tư, số việc làm mới được tạo ra trong nền kinh tế
tuy vẫn tăng nhưng đang có xu hướng chậm dần; tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc
làm được duy trì ổn định ở mức thấp nhưng việc làm nhìn chung vẫn chưa bền
vững khi khá nhiều cơng việc chưa mang tính lâu dài với năng suất và mức thu
nhập cịn thấp, cịn có chênh lệch về thù lao giữa nam và nữ đối với cùng một
loại công việc như nhau. Phụ nữ vẫn tập trung nhiều trong các ngành nghề ở khu
vực phi chính thức, có thu nhập thấp, mơi trường làm việc chưa đảm bảo và
thiếu ổn định. Thứ năm, khả năng tiếp cận giáo dục đối với trẻ em thuộc hộ
nghèo, vùng sâu, vùng xa vẫn cịn một số khó khăn, hạn chế nhất định; tình
trạng bạo lực học đường vẫn thường xuyên xảy ra; thiếu hụt lao động có tay
nghề cao và tồn tại sự chênh lệch ngày càng lớn giữa lao động nam và lao động
nữ về tiếp cận đào tạo nghề ở một số nhóm dân tộc thiểu số; chất lượng giáo dục
đại học chưa đáp ứng được nhu cầu và đòi hỏi cao của nền kinh tế…
Thứ bảy, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trong thực
hiện mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Ý thức về kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược ngày càng được
nâng cao. Kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược được tiến hành đồng bộ,
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Kết hợp thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược trong tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, “việc quán triệt, tổ chức, triển khai thực hiện các nghị quyết
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có
lúc, có nơi chưa nghiêm, hiệu quả chưa cao” 4; cịn có biểu hiện nhận thức chưa
đầy đủ, toàn diện và sâu sắc về kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
4

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, tập 1, Nxb.CTQG Sự thật, H.2021, tr.87.



23

chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở một bộ phận cán bộ,
quần chúng nhân dân. Việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện kết hợp hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có lúc, có nơi chưa chặt chẽ, thiếu đồng
bộ, chưa đạt hiệu quả cao.
Thứ tám, việc xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế đã thu được những thắng lợi ấn tượng. Văn kiện Đại hội
XII của Đảng đã khẳng định “Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của
Đảng, trong thời gian qua, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta
đã đạt được những kết quả quan trọng. Mơi trường hịa bình thuận lợi cho sự
phát triển, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ
vững”. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế về chính trị của nước ta trong thời
gian qua đã đạt được những thành quả tốt đẹp. Chúng ta đã đẩy mạnh và làm sâu
sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng đối với sự phát
triển của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất.
Đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng ta đã xúc tiến mạnh thương
mại và đầu tư quốc tế, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác
quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - cơng nghệ, trình độ quản lý tiên tiến;
khai thác hiệu quả các thỏa thuận được ký kết, đặc biệt là các khu vực mậu dịch
tự do song phương và đa phương. Thành công của việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài rõ nhất là đã hình thành các cụm sản xuất và phát triển các ngành sản xuất
có trình độ cơng nghệ tiên tiến. Hội nhập quốc tế trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
của nước ta với cộng đồng thế giới đã được đẩy mạnh, đa dạng về hình thức,
phương thức, đối tác và có chuyển biến về chất lượng. Việt Nam đã ký hơn 100
thỏa thuận, điều ước quốc tế song phương có nội dung văn hóa. Hội nhập văn
hóa xã hội đi vào chiều sâu đã thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày
một nhiều hơn.

Hội nhập trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh là một trong những nhiệm vụ
quan trọng để phục vụ và hỗ trợ cho chính sách chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện của Đảng và Nhà nước ta, vừa phục vụ cho sự nghiệp phát
triển của đất nước, vừa bảo vệ độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia trong bối
cảnh mơi trường quốc phịng - an ninh trên thế giới và khu vực có những diễn
biến phức tạp. Tuy nhiên, “hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế có mặt, có
lúc chưa theo kịp diễn biến của tình hình, chưa lường hết những tác động bất lợi.
Chưa khai thác tốt và phát huy hiệu quả các quan hệ lợi ích đan xen với các đối
tác quan trọng. Sự phối hợp giữa các ngành, các địa phương trong cơng tác đối
ngoại chưa chặt chẽ, thường xun”5.
Thứ chín, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết mối quan hệ giữa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
5

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, tập 1, Nxb.CTQG Sự thật, H.2021, tr.88.


24

Với những tư duy chính trị - pháp lý mới của Cương lĩnh và Hiến pháp
năm 2013 lần đầu tiên bộ máy nhà nước có sự phân cơng quyền lực nhà nước
một cách mạch lạc giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và kiểm soát
quyền lực trở thành một nguyên tắc Hiến định.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Hiến pháp năm 2013, Luật Mặt trận Tổ
quốc Việt nam năm 2015 giao cho một nhiệm vụ, quyền hạn mới là giám sát,
phản biện xã hội. Với nhiệm vụ và quyền hạn mới này đã góp phần phát huy
quyền làm chủ của nhân dân tham gia vào quá trình xây dựng chính sách, pháp
luật, chiến lược, đề án, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
và các địa phương.
Quyền lực chính trị của Đảng cả trong điều lệ của Đảng, và cả trong pháp

luật của Nhà nước chưa được thể chế hóa, minh bạch, chặt chẽ, nhất là quyền và
trách nhiệm của tổ chức đảng và cá nhân đứng đầu tổ chức Đảng. Vì thế, cá
nhân có trọng trách của Đảng và nhà nước ở các cấp, các ngành có điều kiện
thao túng quyền lực. Khơng ít người đã lợi dụng quy trình, thủ tục và tập thể cấp
ủy để hợp thức hóa ý muốn cá nhân mình.
Cơ chế nhân dân kiểm sốt quyền lực nhà nước; cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp bao gồm cả cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong của mỗi quyền
(tự kiểm sốt mình) và cơ chế bảo vệ Hiến pháp theo luật định, đến nay chưa ra
đời đầy đủ và chưa hoàn thiện. “Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến,
kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của người dân. Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi cịn bị vi phạm;
vẫn cịn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”6.
1.2. Một số nguyên nhân hạn chế, khuyết điểm và bài học kinh nghiệm
trong việc vận dụng Nguyên tắc toàn diện để giải quyết các mối quan hệ lớn
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
Những hạn chế, khuyết điểm trong q trình thực hiện Nghị quyết Đại hội
XII có nguyên nhân khách quan, song trực tiếp và quyết định nhất là nguyên nhân
chủ quan. Văn kiện Đại hội XIII chỉ rõ một số nguyên nhân và bài học kinh
nghiệm cụ thể sau:
Trước hết, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên về
một số chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của nước còn
chưa sâu sắc, thiếu thống nhất, do một số cơng việc triển khai thiếu kiên quyết,
cịn lúng túng.
Thứ hai, chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc
phục, năng lực cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương, nghị quyết cịn hạn chế, năng
6

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XIII, tập 1, Nxb.CTQG Sự thật, H.2021, tr.89.



25

lực tổ chức thực hiện của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, làm cho
pháp luật, nghị quyết chậm được thực hiện và hiệu quả thấp.
Thứ ba, nhiều hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý, điều hành của các
cấp ủy, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở một số nơi chậm được khắc
phục, trách nhiệm người đứng đầu chưa thực sự được đề cao. Tư tưởng trông chờ,
thụ động, ỷ lại vào cấp trên, tình trạng nói khơng đi đơi với làm, nói nhiều làm ít,
kỷ cương phép nước khơng nghiêm cịn khá phổ biến, chưa tạo được nhiều cơ
chế, chính sách, giải pháp có tính đột phá, đồng bộ để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ
người dân và doanh nghiệp, huy động mọi nguồn lực cho phát triển.
Thứ tư, nhận thức, triển khai đổi mới tổ chức bộ máy một số cơ quan trung
ương và địa phương chưa đều, chưa thật đồng bộ, Cơng tác cán bộ cịn trong các
khâu của cơng tác cán bộ ở một số nơi cịn hình thức. Tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng
phí, vơ cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi.
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây địi hỏi tồn Đảng phải nghiêm túc
nhìn nhận, nỗ lực phấn đấu để khắc phục, tiếp tục lãnh đạo đất nước phát triển
nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trực tiếp là 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội XII của Đảng, rút ra một số bài học kinh nghiệm:
Một là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt,
toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và
cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của
Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đồn kết trong Đảng và hệ thống chính
trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong

sạch, vững mạnh tồn diện, hồn thiện cơ chế kiểm sốt chặt chẽ quyền lực, kiên
quyết, kiên trì đấu tranh phịng, chống suy thối, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí. Cơng tác
cán bộ phải thực sự là “then chốt của then chốt”, tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ; cán bộ, đảng viên phải thực hiện trách nhiệm nêu gương theo
phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ Chính
trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.
Hai là, trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu
sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung
tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ


×