Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

(Tiểu luận Tâm lí y học) Theo các bạn vệ sinh tâm lí cho lứa tuổi nào là quan trọng nhất, phân tích rõ vì sao Hãy phân tích những biện pháp vệ sinh tâm lý cho những lứa tuổi đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.13 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BN MA THUỘT
KHOA Y
------

TIỂU LUẬN
TÂM LÍ Y HỌC
ĐỀ: THEO CÁC BẠN VỆ SINH TÂM LÍ CHO LỨA
TUỔI NÀO LÀ QUAN TRỌNG NHẤT, PHÂN TÍCH
RÕ VÌ SAO? HÃY PHÂN TÍCH NHỮNG BIỆN PHÁP
VỆ SINH TÂM LÝ CHO NHỮNG LỨA TUỔI ĐÓ.
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Tú Trang

Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 1
Lớp :21YA1

ĐakLak, 27 tháng 03 năm 2022


Nhóm sinh viên thực hiện gồm:

21YA1013

Nguyễn Trần Lương Duyên

7/11/2003

21YA1014

Võ Văn Tấn Đạt

2/5/2003



21YA1015

Nguyễn Ngọc Hương Giang

25/12/2003

21YA1016

Hoàng Nghĩa Nguyễn Giang

13/06/2003

21YA1018

Nguyễn Phúc Hậu

29/01/2003

21YA1019

Tạ Đình Hiếu

22/12/2003

21YA1020

Đỗ Thị Mỹ Hồng

19/08/2003


21YA1021

Đào Nguyễn Hùng

5/3/2002

21YA1022

Huỳnh Phúc Huy

19/01/2003

21YA1024

Phạm Thị Mai Hương

28/12/1999

21YA1025

Hồng Hoa Kbr

29/09/2003

21YA1026

Lê Huỳnh Anh Khoa

21/11/2003



MỤC LỤC
I. Tìm hiểu chung về vệ sinh tâm lí và lứa tuổi quan trọng để thực hiện vệ

sinh tâm lí.
I.1.
I.2.
I.3.
I.4.

Vệ sinh tâm lí là gì?Vai trị của vệ sinh tâm lí.
Những đối tượng của vệ sinh tâm lí.
Lứa tuổi quan trọng để thực hiện vệ sinh tâm lí.
Lứa tuổi quan trọng để thực hiện vệ sinh tâm lí.

II. Tại sao cần phải thực hiện vệ sinh tâm lí cho lứa tuổi từ 11-14?
II.1. Đặc điểm tâm lý và sự phát triển của trẻ vị thành niên.
II.2. Lý do 1: ảnh hưởng từ việc học, thích nghi với phương pháp học tập mới.
II.3. Lý do 2: hình thành “cái tơi”, bắt đầu mong muốn sự tự do, thoát khỏi sự

kèm cặp của bố mẹ.
II.4. Lý do 3: Nhận thức về giới tính.
II.5. Lý do 4: Ảnh hưởng từ mơi trường bên ngồi.
II.6. Lý do 5: Thời đại cơng nghệ phát triển nhanh.
II.7. Lý do 6: Cha mẹ bỏ bê con cái, không quan tâm đến việc học tập của con.
II.8. Lý do 7: Xem thường sức khỏe, mạng sống.
III. Hãy phân tích những biện pháp vệ sinh tâm lý cho lứa tuổi đó ?



NỘI DUNG

I. Tìm hiểu chung về vệ sinh tâm lí và lứa tuổi quan trọng để thực hiện vệ sinh

tâm lí.
I.1. Vệ sinh tâm lí là gì?
• Các rối loạn tâm lý do nhiều nguyên nhân gây ra. Có những nguyên nhân gây

bệnh rõ ràng như nhiễm khuẩn, tâm chấn (sang chấn tâm thần) mãnh liệt,... Lại
có những yếu tố thuận lợi như: nhân cách yếu, ảnh hưởng xấu của tệ nạn xã hội
và giáo dục không đúng, tâm chấn nhẹ nhưng kéo dài, thể trạng suy yếu. Vệ
sinh tâm lý nhằm củng cố hệ thần kinh và loại trừ các nhân tố thuận lợi cho các
rối loạn tâm lý và bệnh tâm thần phát sinh.
• Người khoẻ mạnh là người có trạng thái thoải mái về cơ thể, tâm lý và xã hội.
Vệ sinh tâm lý chính là hệ thống các biện pháp củng cố, tăng cường sức khoẻ
tâm lí và sức khoẻ thể chất của con người.

I.2. Vai trị của vệ sinh tâm lí.
• Vệ sinh tâm lý có nhiệm vụ chủ yếu là giữ gìn sức khoẻ của hoạt động tâm lý

của con người, phòng ngừa các bệnh tâm lý. “Vệ sinh tâm lý” theo nghĩa rộng
là giữ gìn và nâng cao năng lực thích ứng của con người với môi trường xung
quanh, đảm bảo cho con người sống khoẻ, sống lâu và sống có ích, nâng cao tố
chất tâm lý và thể chất của giống nịi.









Nhiệm vụ của vệ sinh tâm lý :
Tạo điều kiện cho con người phát triển nhân cách khoẻ mạnh, hài hoà.
Phát triển khả năng lao động, ngăn ngừa mệt mỏi, quá sức và các tác động
stress.
Giáo dục mối quan hệ phù hợp giữa ý trí và tình cảm...
Hướng dẫn những thói quen có ích, ngăn ngừa thói quen xấu...
Nội dung vệ sinh tâm lý phong phú và phức tạp. Những nội dung này gắn liền
với các lĩnh vực hoạt động, các giai đoạn trưởng thành, với hoàn cảnh và điều
kiện sống cụ thể của mỗi người. Nó liên quan chặt chẽ với vấn đề vệ sinh lao
động, vệ sinh môi trường, phòng và chữa bệnh cho con người.

I.3. Những đối tượng của VSTL:


I.3.1. Vệ sinh tâm lý lứa tuổi
a) Vệ sinh tâm lý lứa tuổi nhỏ
• Sự quan tâm đến sức khoẻ tâm lý của trẻ được bắt đầu từ lúc người mẹ mang

thai. Trạng thái tâm lý của mẹ có ảnh hưởng nhất định đến thai nhi, nhất là
những tháng cuối. Lúc mang thai người mẹ không những tránh làm các việc
nặng nhọc về thể lực mà còn phải tránh cả những gánh nặng về tâm lý, những
tác động stress bệnh lý. Khi ra đời, tuy về mặt sinh học, đứa trẻ đã là một con
người; song về mặt tâm lý, nhân cách, đây mới là giai đoạn đầu của quá trình
hình thành và hồn thiện.
• Nhờ có những tiến bộ của khoa học, của đời sống xã hội nên ngày nay, nhiều
bà mẹ đã biết cách nuôi dưỡng, giáo dục con cái; biết cách tạo ra một môi
trường thuận lợi cho việc phát triển nhân cách của trẻ. Trong giai đoạn phát
triển này, những biện pháp vệ sinh tâm lý cần đan xen và liên hệ chặt chẽ với

các biện pháp giáo dục khoa học.
• Cần hết sức tránh tạo ra những thói quen xấu cho trẻ. Những nhu cầu thiết yếu
của trẻ cần cố gắng đáp ứng đầy đủ, kịp thời; cịn những nhu cầu khác cần đáp
ứng có chọn lọc và khơng nên gây cho trẻ thói quen địi gì được nấy. Cần dần
dần hình thành thói quen tự lập cho trẻ.
• Đặc biệt khơng nên dùng những hình phạt nặng nề đối với trẻ, kể cả những
hình phạt tâm lý. Vì những hình phạt này có thể để lại hậu quả xấu, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến phát triển nhân cách của trẻ em. Thực tế cho thấy, đơi khi
hình phạt trở thành ngun nhân bệnh rối loạn tâm căn, bệnh nhân cách của trẻ.
b) Vệ sinh tâm lý tuổi thiếu niên:
• Ở lứa tuổi này, nhân cách của trẻ được phát triển một cách mạnh mẽ, trẻ đã tự

ý thức, đã bắt đầu hình thành các quan niệm về cuộc sống rõ ràng hơn và
quan hệ xã hội bước đầu được mở rộng...
• Hoạt động chủ đạo của trẻ lúc này là học tập. Các biện pháp vệ sinh tâm lý
được đan xen với hoạt động học tập và tổ chức học tập cho trẻ. Cần tránh tạo
ra gánh nặng trí tuệ và tránh thúc ép các em học q sức các mơn học văn
hố, thể thao, âm nhạc, hội hoạ...
• Lứa tuổi này trẻ dễ có những khủng hoảng tâm lý đi kèm với những biến đổi
mạnh mẽ về sinh lý. Đối với trẻ em gái, nếu không được chuẩn bị chu đáo về
tâm lý cho lần thấy kinh nguyệt đầu trên thì các em dễ bị những mặc cảm
nặng nề. Ở em trai, sự phát triển tâm lý giới tính cũng chuyển sang thời kỳ
mới. Nếu các em bị những tác động xấu của video đen, phim ảnh đồi truỵ...
thì dễ có những hành vi chống đối xã hội, phi đạo đức.
c)Vệ sinh tâm lý lứa tuổi thanh niên và trưởng thành:


• Lứa tuổi thanh niên được đánh dấu bằng sự trưởng thành về tất cả các mặt của

con người. Về mặt xã hội họ đã là một thành viên chính thức, tham gia tích cực

vào các lĩnh vực hoạt động khác nhau của họ. Họ được công nhận là công dân
và vì thế họ dần dần có định hình về ý thức cũng như các quan niệm xã hội...
Nhiều người trong số họ lần đầu tiên tách khỏi gia đình, trở thành con người
sống độc lập (độc lập về kinh tế, về dự định cuộc sống, tự mình quyết định suy
nghĩ, hành động). Ở giai đoạn trưởng thành, con người phát triển và hoàn thiện
hơn các nhân tố tâm lý và cơ thể. Đối với giai đoạn phát triển tuổi này, vệ sinh
tâm lý gắn liền với từng loại hình hoạt động cụ thể mà cá nhân tham gia như
hoạt động lao động, học tập vui chơi...
d) Vệ sinh tâm lý người cao tuổi:
• Những người cao tuổi có những thay đổi lớn về mặt sinh học và xã hội. Hoạt

động của các hệ thống tuần hồn, hơ hấp, miễn dịch, nội tiết... thay đổi theo
hướng suy giảm. Về mặt xã hội họ được nghỉ ngơi theo luật định. Sự “nghỉ
hưu” đã kéo theo những thay đổi trong quan hệ xã hội của họ. Những mối quan
hệ công tác nơi công sở trước đây chiếm một tỷ trọng lớn trong đời sống, bây
giờ họ chuyển sang những mối quan hệ với bạn bè thời thơ ấu, thuở học sinh,
người đồng hương và các quan hệ gia đình, họ hàng....
• Những thay đổi về sinh học, về xã hội để lại những dấu ấn đậm nét trên những
biến đổi về tâm lý. Họ có trạng thái thiếu cân bằng trong hoạt động, có mặc
cảm bị bỏ rơi, là người thừa, là gánh nặng của gia đình, xã hội, cũng có người
địi hỏi sự đền bù của xã hội và đề cao cơng lao của mình. Sự quan tâm chăm
sóc chu đáo của gia đình, xã hội, đặc biệt là do chăm sóc y tế và bảo đảm các
chế độ của xã hội, tổ chức hợp lý thời gian nghỉ ngơi có một ý nghĩa vệ sinh
tâm lý rất to lớn đối với người cao tuổi.
I.3.2. Vệ sinh tâm lý lao động:

• Điều quan trọng của vệ sinh tâm lý lao động là nghề nghiệp phải phù hợp với

năng lực và hứng thú của cá nhân. Có như vậy thì năng suất mới cao, người
lao động mới làm việc một cách sáng tạo và sức khoẻ tâm lý của họ mới được

duy trì.
• Cơng tác hướng nghiệp cho thanh niên, học sinh khơng chỉ cịn mang lợi ích
về mặt kinh tế mà cịn có lợi ích thiết thực về mặt vệ sinh tâm lý.
• Bất kỳ một dạng lao động cụ thể nào cũng phải tuân theo những nguyên tắc,
những chế độ, kỷ luật nhất định. Kỷ luật lao động phải được người lao động ý
thức một cách đầy đủ và trở thành nhu cầu thiết yếu, bên trong của hoạt động












lao động. Kỷ luật và quy trình lao động hợp lý không những là cơ sở để nâng
cao năng suất lao động mà còn tạo ra khả năng tự điều chỉnh, thích ứng đối
với hồn cảnh, giúp ngăn chặn những stress khơng đáng có của người lao
động. Những hoạt động lao động đơn điệu như lao động theo dây truyền, đã
gây ra mệt mỏi, căng thẳng tâm lý đáng kể cho người lao động. Cần bố trí,
sắp xếp sao cho các thao tác, nhịp điệu công việc không đơn điệu.
Cần thực hiện nghiêm túc các quy định vệ sinh lao động đối với tiếng ồn, ánh
sáng, nhiệt độ nơi làm việc và các chế độ bảo hộ lao động khác.
Trong bất kỳ loại lao động nào cũng đều có nhu cầu giao tiếp, đây cũng là nhu
cầu phát triển, hoàn thiện nhân cách nghề nghiệp của người lao động. Việc
xây dựng một tập thể lao động đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau để từng
người hoàn thành nghĩa vụ và chức trách lao động của mình, khơng những có

lợi về mặt vệ sinh tâm lý mà cịn có lợi về mặt sản xuất.
Lao động trí óc là một dạng lao động đặc biệt, mang tính chất cá nhân nhiều
hơn. Hiệu quả của lao động này phụ thuộc vào từng con người cụ thể. Có
nhiều người làm việc trong điều kiện một mình, yên tĩnh mới đạt hiệu quả
cao; trái lại có những người thích làm việc với đơng người, thích trao đổi, bàn
luận.
Tổ chức lao động hợp lý nhằm mục đích phát huy năng lực tâm thần của cá
nhân, đồng thời tránh mệt mỏi thần kinh, suy nhược cơ thể.
Xen kẽ điều hồ lao động trí óc và lao động chân tay, xen kẽ lao động và nghỉ
ngơi, giải trí, thể dục thể thao.
Có chế độ lao động riêng, thích hợp cho từng loại lao động trí óc; có quy chế
học tập cho các loại lớp, loại trường v.v...
Song dù trong trường hợp nào thì mỗi cá nhân cũng đều phải có một chế độ
lao động, nghỉ ngơi hợp lý. Có như vậy cá nhân mới duy trì được nhịp độ,
hiệu quả lao động và mới giữ gìn được sức khoẻ, tâm lý.

I.3.3. Vệ sinh tâm lý trong sinh hoạt:

• Các biện pháp vệ sinh tâm lý ở đây nhằm đảm bảo một môi trường lành mạnh

cho sự phát triển tâm lý, nhân cách của mỗi cá nhân.
• Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi cá nhân một mặt phải tôn trọng những
nguyên tắc giao tiếp, ứng xử chung, phù hợp với chuẩn mực, đạo đức, văn
hoá xã hội; phải tơn trọng sở thích, hứng thú... của cá nhân. Trong thực tế,
chúng ta có thể gặp những bệnh rối loạn thần kinh, tâm thần, thậm trí cả
những bệnh thực thể, bắt đầu từ những xung đột, những va chạm thường
xuyên trong cuộc sống. Một trong những khía cạnh đang nổi lên trong vệ sinh
tâm lý sinh hoạt là vấn đề tổ chức vui chơi, giải trí, nhất là khi mỗi tuần có hai
ngày nghỉ. Cần phải tổ chức chặt chẽ, lành mạnh các hoạt động thể thao, văn
nghệ, hội hè. Cần chú trọng vệ sinh nhà cửa, chỗ làm việc (thống khí, ít

trếng ồn, mát mẻ...), mặc đủ ấm, chế độ ăn uống hợp lý.


• Đặc biệt chú trọng đến giấc ngủ: ngủ đúng giờ, loại trừ các kích thích xấu làm

ảnh hưởng đến giấc ngủ.
• Cần tránh những ảnh hưởng xấu của sách báo, tranh ảnh, phim video có nội
dung kích động bạo lực hoặc tình dục. Cần xây dựng phong trào mọi người
thực hiện chương trình phịng tránh các tệ nạn xã hội, nhất là phòng chống
các tệ nạn ma tuý, mại dâm...
I.3.4. Vệ sinh tâm lý gia đình:

• Vệ sinh tâm lý gia đình nhằm tạo nên một mơi trường tâm lý thuận lợi cho sự











phát triển nhân cách hài hồ của các thành viên trong gia đình, nhất là cho con
trẻ. Vấn đề vệ sinh tâm lý ở đây bao hàm cả vấn đề mọi người trong gia đình
quan tâm, chăm sóc lẫn nhau và vấn đề gia đình làm công tác giáo dục con
cái.
Quá nuông chiều hay quá nghiêm khắc (mắng chửi, đánh đập) đều là hai cách
giáo dục khơng đúng trong gia đình. Q nng chiều hay q tâng bốc sẽ

hình thành tính cách xấu cho đứa trẻ, tạo điều kiện cho các bệnh tâm căn
hysteria phát triển sau này. Quá nghiêm khắc sẽ làm cho đứa trẻ nhút nhát lo
sợ, tự ti, mất sáng kiến, tạo điều kiện cho bệnh tâm căn suy nhược tâm thần
phát triển sau này.
Cần giáo dục tính tập thể cho trẻ em, không nên kiềm chế mọi hoạt động của
trẻ như không cho trẻ chơi, không cho làm, luôn giữ trẻ ở trong nhà, làm cho
đứa trẻ trở nên thụ động, ỷ lại vào bố mẹ, khơng có khả năng tự lập, thiếu bản
lĩnh về sau dễ bị lôi kéo vào chuyện xấu xa.
Tuỳ từng lứa tuổi, tuỳ sức khoẻ động viên đứa trẻ lao động, tự giải quyết khó
khăn rèn luyện lịng dũng cảm, trí kiên cường, chịu đựng gian khổ, tính tự
giác, tính tổ chức, năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm và cả sự quyết
đốn trong mọi tình huống.
Giáo dục gia đình cần phải kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với giáo dục nhà
trường và đoàn thể, tập thể. Đối với thanh thiếu niên ở lứa tuổi dậy thì và sau
tuổi dậy thì, phải biết kết hợp khéo léo, giáo dục thái độ đúng đắn trong
những vấn đề tình bạn, tình u, tình đồng chí; sống chân thực, tử tế, nhân
hậu, có lịng vị tha, sống có trách nhiệm với bạn bè, với tập thể, tránh xu
hướng chỉ biết sống gấp, chủ nghĩa thực dụng, ...
Đặc biệt với nữ giới, phải giải thích các biến đổi tâm sinh lý qua các giai đoạn
phát triển sinh dục (lúc bắt đầu có kinh, hành kinh, thai nghén, tắt kinh, ...) để
tránh sự bỡ ngỡ, lo lắng quá mức trước các biến đổi ấy.

I.4. Lứa tuổi quan trọng để thực hiện vệ sinh tâm lý:


• Giai đoạn phát triển tâm lý của trẻ em từ 12 đến 15 tuổi. Đây là giai đoạn có

nhiều biến động nhất trong sự phát triển của trẻ (biến đổi về tâm lý và thể
chất). Những diễn biến phát triển tâm lý trẻ em giai đoạn này cũng khá phức
tạp, bị ảnh hưởng và chi phối bởi nhiều yếu tố chủ quan và khách quan để

chuẩn bị cho quá trình dậy thì, trưởng thành. Vì vậy việc thực hiện vệ sinh
tâm lý ở lứa tuổi này rất quan trọng.
II.

Tại sao cần phải thực hiện vệ sinh tâm lí cho lứa tuổi từ 11-14?

II.1. Đặc điểm tâm lý và sự phát triển của trẻ vị thành niên.

∗ Đặc điểm tâm lý của trẻ ở giai đoạn này rất phức tạp, vì vậy trẻ cần có sự

quan tâm, hỗ trợ và hướng dẫn của người lớn giúp các em từng bước tự chủ
trong mọi hoạt động. Một chỗ dựa tình cảm vững chắc sẽ giúp các em thoải
mái và có những suy nghĩ tích cực hơn trong giai đoạn này.
a) Sự phát triển của trẻ:
 Trong giai đoạn thanh thiếu niên, các vùng nào điều khiển cảm xúc phát triển

và trưởng thành. Giai đoạn này được đặc trưng bởi những bộc phát do tự phát
mà có là thách thức đối với cha mẹ và giáo viên, những người thường xuyên
phải hứng chịu. Thanh thiếu niên dần học cách kiềm chế những suy nghĩ và
hành động không phù hợp và thay thế chúng bằng những hành vi định hướng
có mục tiêu.
 Khía cạnh tăng trưởng về cảm xúc được thử nghiệm nhiều nhất, thường
xuyên thử thách sự kiên nhẫn của cha mẹ, thầy cơ. Tính khơng ổn định về
cảm xúc là một kết quả trực tiếp của sự phát triển thần kinh trong thời kỳ này,
như là phần của não kiểm soát sự trưởng thành cảm xúc. Sự thất vọng cũng có
thể xảy ra từ sự tang trưởng trong nhiều lĩnh vực.
 Một xung đột lớn có thể xaỷ ra giữ mong muốn có them tự so của trẻ vị thành
niên và bản năng mạnh mẽ của cha mẹ để bảo vệ con cái của họ khỏi những
nguy hại. Cha mẹ có thể giúp đỡ trẻ bằng việc nói chuyện với con về vai trò
của họ và từ từ cho phép các con của họ được hưởng nhiều đặc quyền hơn

cũng như mong muốn trẻ có trách nhiệm cao hơn với bản thân và gia đình.
b) Sự phát triển tâm lý và xã hội:
 Gia đình là trung tâm của đời sống xã hội cho trẻ em, trong giai đoạn vị thành

niên, nhóm bạn cùng tuổi bắt đầu đặt gia đình như là mối quan tâm xã hội
hang đầu của trẻ. Các nhóm bạn cùng tuổi thường được thiết lập vì có sự khác
biệt về trang phục, ngoại hình, thái độ, sở thích, mối quan tâm. Các nhóm này


có vai trị quan trọng đối với thanh thiếu niên trong các tình huống căng
thẳng.
 Thanh thiếu niên tự thấy mình khơng có một nhóm bạn bè thân đồng trang lứa
có thể cảm thấy cơ lập và khác biệt. Mặc dù những cảm giác này thường
không kéo dài nhưng chúng có thể tăng khả năng xảy ra các hành vi không
phù hợp hoặc phản xã hội.
c) Phát triển hành vi và trí tuệ:
 Vào giai đoạn đầu của tuổi vị thành niên ,trẻ bắt đầu phát triển khả năng tư

duy trừu tượng , tư duy logic .Suy nghĩ phức tạp ngày càng tang này dẫn đến
tang cường nhận thức về bản thân và khả năng phản ánh về cái tôi cá nhân
.Do nhiều thay đổi thể chất đáng chú ý của trẻ vị thành niên ,sự tự nhận thức
này thường chuyển thành ý thức tự giác , kèm theo cảm giác lúng túng .Trẻ vị
thành niên cũng có mối bậ tâm vẻ bề ngoài ,sức hấp dẫn và nhạy cảm cao đối
với sựu khác biệt so với bạn đồng trang lứa.
 Thanh niên cũng áp dụng các khả năng phản ánh của mình vào các vấn đề đạo
đức. Trẻ vị thành niên hiểu đúng và sai là cố định tuyệt đối. Các trẻ vị thành
niên lớn hơn thường đặt câu hỏi về các chuẩn mực về hành vi và có thể phản
đối với những quy tắc truyền thống, dẫn đến sự sững sốt của cha mẹ. Một
cách lý tưởng các phản ánh này đạt đến đỉnh cao của sự phát triển và cá nhân
hóa những quy tắc đạo đức của riêng lứa tuổi vị thành niên.

II.2. Lý do 1: ảnh hưởng từ việc học, thích nghi với phương pháp học tập

mới.
 Ở học sinh THCS, khối lượng các đối tượng tri giác được tăng rõ rệt. Tri giác
của các em có trình tự, có kế hoạch và hồn thiện hơn. Các em có khả năng
phân tích và tống hợp phức tạp khi tri giác sự vật, hiện tượng. Các em đã sử
dụng hệ thống thơng tin cảm tính linh hoạt tuỳ thuộc vào nhiệm vụ của tư
duy. Khả năng quan sát phát triển, trở thành thuộc tính ổn định của cá nhân.
Ghi nhớ chủ định, ghi nhớ ý nghĩa, ghi nhớ logic đang dần được chiếm ưu thế
hơn ghi nhớ máy móc.
 Trong khi tái hiện tài liệu, học sinh THCS đã biết dựa vào logic của vấn đề
nên nhớ chính xác và lâu hơn. Các em có khả năng sử dụng các loại trí nhớ
một cách hợp lí, biết tìm các phuơng pháp ghi nhớ, nhớ lại thích hợp, có hiệu
quả, biết phát huy vai trị của tư duy trong các q trình ghi nhớ. Điều đó địi
hỏi các em cần phải thích nghi với phương pháp học tập mới, khó hơn nhiều
so với tiểu học và dẫn đến việc các em vẫn chưa có đủ thời gian để rèn luyện.
Thêm vào đó là sự kì vọng q lớn từ gia đình, áp lực từ nhà trường, từ bạn
bè khiến cho các em cảm thấy stress trong học tập và hậu quả là kết quả học
tập sa sút. Thế nhưng, nhiều người cho rằng kết quả học tập sa sút, kém đi là
do trẻ lười nhác, ham chơi. Tuy nhiên ít phụ huynh nào biết được những áp
lực về việc học tập đè nặng trên vai cũng rất dễ khiến trẻ học tập sa sút. Sự kỳ


vọng từ cha mẹ quá mức khiến tinh thần bất ổn, đầu óc căng thẳng một phần
nào đó tác động đến trẻ, khơng thể tiếp thu kiến thức, trí nhớ cũng suy giảm
đi rất nhiều. Học tập cao độ, lo lắng bài vở hằng ngày và đau đầu về vấn đề
thi cử khiến trẻ khó ngủ thậm chí khơng ngủ được. Đầu óc căng thẳng cộng
với chứng mất ngủ kéo dài khiến cho cơ thể trẻ nhanh chóng bị suy nhược về
cả thể chất lẫn tinh thần. Bên cạnh đó, một trong những biểu hiện thường thấy
của chứng stress do áp lực học tập chính là trẻ khơng muốn đến lớp, sợ đi

học, không muốn gặp thầy cô. Trẻ luôn lo lắng sẽ bị la mắng, trách móc vì bài
vở ở trường, tình hình học tập khiến cho các em muốn trốn tránh, sợ đến
trường lớp. Áp lực về điểm số, kết quả, cùng sự mong đợi của gia đình tạo áp
lực về học tập cho trẻ vô cùng lớn. Làm cho các em luôn trong trạng thái mệt
mỏi, cảm thấy lo lắng, không tự tin, luôn trong trạng thái bất an và căng thẳng
cao độ.
 Áp lực học tập, stress cao độ cịn có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ tiêu hóa
của trẻ bị rối loạn. Người thường xuyên ở trạng thái lo lắng, căng thẳng sẽ rất
dễ mắc các bệnh về đường tiêu hóa, ln cảm thấy ăn uống không ngon
miệng, hay bị đầy bụng, buồn nôn. Biểu hiện của stress trong học tập tiếp
theo mà cha mẹ cần phải nhận biết khi thấy lầm lì, ít nói, giao tiếp với mọi
người. Theo nghiên cứu của các chuyên gia, có nhiều trẻ khi chịu quá nhiều
áp lực về việc học vơ hình khiến chúng trở nên lầm lì, ít nói, ngại giao tiếp và
tiếp xúc với mọi người xung quanh, muốn trốn tránh một mình.
 Chúng khơng muốn bất kỳ ai hỏi về việc học hành như kết quả học tập….
hoặc có tư tưởng chống đối và trở nên cộc cằn hơn rất nhiều. Áp lực của học
hành khiến rất nhiều đứa trẻ cảm thấy mệt mỏi, căng thẳng, khơng muốn nói
chuyện, giao tiếp với bất kỳ ai và có biểu hiện thường xun cáu gắt mà
khơng rõ nguyên nhân. Những lúc tinh thần bất ổn, lo lắng và mệt mỏi, stress

cao độ thì trẻ rất nhạy cảm nếu ai đó hỏi han, quan tâm về việc học. Không
phải đứa trẻ nào chịu áp lực cũng sẽ cố gắng để đạt được kết quả như mong
muốn hoặc như các bậc phụ huynh đang có suy nghĩ sai lầm. Một số đứa trẻ
khi bị stress vì học tập quá mức, khiến chúng có những biểu hiện chống đối,
các biểu hiện tiêu cực đi kèm xuất hiện, bất hợp tác với bạn bè, thầy cơ và gia
đình.


II.3. Lý do 2: hình thành “cái tơi”, bắt đầu mong muốn sự tự do, thoát khỏi


sự kèm cặp của bố mẹ.

 Ở lứa tuổi từ 11-14, do có sự thay đổi về tâm sinh lí, các em dần nhận ra giá









trị của bản thân, vị trí của mình trong xã hội. Cùng với sự thay đổi về thể chất
và tâm lí thì các em bắt đầu muốn bố mẹ cho mình cái quyền tự do và độc lập
(được phát biểu ý kiến, có quyền được cất giấu bí mật cá nhân, …). Các em
muốn bố mẹ phải tôn trọng quyền riêng tư cá nhân của mình. Và nhiều bậc
phụ huynh cảm thấy khó chịu đối với hành động này của con cái.
Theo các chun viên tâm lí thì điều này khơng có gì là bất thường. Trái lại,
nó giúp cho các bạn có tinh thần tự tin hơn vào chính mình. Tuy nhiên, điều
này khơng có nghĩa là bố mẹ hồn tồn mặc kệ con, khơng có sự kiểm sốt,
thả con hồn tồn tự do. Khơng ít các trường hợp bố mẹ bỏ bê, không quan
tâm con đã gây ra những hệ lụy khôn lường. Và khi phát hiện những trường
hợp con cất giấu những văn hóa phẩm đồi trụy, khơng phù hợp với thuần
phong mỹ tục thì cha mẹ lại bắt đầu cáu gắt hơn và có hành động khơng đúng
mực, vơ tình tổn thương tâm lí của con. Và gần đây nhất là vợ của một nam
nghệ sĩ lâu năm đã đăng tải những dòng tâm trạng trên mạng xã hội về việc
giáo dục con cái, cảnh báo phụ huynh cần chú tâm hơn vào việc kiểm soát sự
tham gia mạng xã hội của con em. Sự việc sẽ rất ý nghĩa nếu cô ấy không lấy
con mình ra làm ví dụ, bêu rếu trước những người sử dụng mạng xã hội này
trên cả nước, gây ra nhiều tranh cãi khơng đáng có. Đó là sự cảnh tỉnh dành

cho những bậc cha mẹ vẫn chưa biết cách dạy con sao cho đúng đắn, phù hợp
với thời đại.
Khi bị so sánh với các bạn khác hay nghe những lời mà bản thân cảm thấy
khó chịu từ bố mẹ, các em sẽ thường không đáp ứng những yêu cầu ấy mà
trái lại khiến mối quan hệ giữa bố mẹ và con ngày càng rạn nứt. Ở tuổi này,
các em rất dễ bị tổn thương và tự ái khi bị la rầy; các em muốn tự bản thân
hồn thành cơng việc theo cách riêng để khẳng định bản thân. Đôi khi, có rất
nhiều lí do để giải thích tại sao lứa tuổi này thường không nghe lời cha mẹ.
Các em sẽ cần một nơi để giải tỏa tâm trạng và người các em lựa chọn đầu
tiên chính là cha mẹ. Có khi trong đầu các em đã có những suy nghĩ và giải
pháp riêng, chỉ là chúng quá rời rạc và lộn xộn.
Giải bày là cách trải vấn đề ra, cha mẹ giúp các em sắp xếp lại suy nghĩ hỗn
loạn trong đầu, từ đó tự mình ổn định lại cảm xúc và chắt lọc giải pháp phù
hợp. Khi tâm sự với cha mẹ, các em cần sự đồng cảm hơn là sự khuyên răn,
dạy bảo. Tuy nhiên, một số phụ huynh lại cho rằng việc này là bất thường và
cảm thấy con cái thiếu tôn trọng với cha mẹ.
Với những thay đổi về tâm lý cộng thêm những kiến thức thu nhận từ trường
học, từ xã hội, thiếu niên ngày nay hiểu biết hơn và biết lý luận để bênh vực
những hành động của mình. Một khi bị la mắng về những chuyện nhỏ hoặc
không đúng, các em thường trả lời lại và nói lên những suy nghĩ riêng để bào


chữa. Các em sẽ nhận ra được cha mẹ không phải lúc nào cũng đúng, hoặc
biết tất cả về mọi việc như các bạn tưởng khi còn nhỏ.
 Nhờ trường học, nhờ mạng lưới thông tin mở rộng và những khả năng sử
dụng hệ thống điện tử thành thạo, thiếu niên ngày nay có nhiều hiểu biết hơn
cha mẹ-những người được tiếp nhận nền giáo dục của vài thập niên trước. Sự
hạn chế về kiến thức, năng lực giáo dục còn gặp nhiều cản trở, sự chênh lệch
về tuổi tác, cha mẹ không thống nhất về các biện pháp nuôi dạy con cái hoặc
con cái thường xuyên tiếp xúc với những mối quan hệ xấu, không biết cách

bày tỏ những quan điểm, khó khăn của mình với cha mẹ cũng có thể là
ngun nhân gây ra các mâu thuẫn khơng đáng có giữa cha mẹ và con cái.

II.4. Lý do 3: Nhận thức về giới tính.
 Sự trưởng thành về mặt sinh dục là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triền

cơ thể ở lứa tuổi thiếu niên. Các em sẽ nhận ra ngay sự khác biệt của cơ thể so
với khoảng thời gian trước đây. Dấu hiệu dậy thì ở em gái là sự xuất hiện kinh
nguyệt, sự phát triển của tuyến vú ( vú và núm vú nhơ lên. Quầng vú rộng ),
cịn ở em trai là hiện tượng “vỡ giọng”, sự tăng lên của thể tích tinh hồn và
bắt đầu có hiện tượng “mộng tinh” . Tuổi dậy thì ở các em gái Việt Nam vào
khoảng từ 12 đến 14 tuổi, ở các em trai bắt đầu và kết thúc chậm hơn các em
gái khoảng từ 1,5 đến 2 năm. Tuy nhiên, hiện nay do gia tốc phát triển thể
chất và phát dục nên tuổi dật thì có thể sớm từ 1,5 đến 2 năm. Việc dậy thì
sớm khi các em chưa trưởng thành về mặt cơ thể, đặc biệt về mặt tâm lí và xã
hội gây nhiều hậu quả đáng tiếc. Hiện nay giáo dục Việt Nam vẫn chưa chú
trọng vào việc giáo dục giới tính, những bậc phụ huynh cịn cảm thấy “ngại”
khi chia sẻ những vấn đề giới tính đối với con cái. Bởi vậy lứa tuổi học sinh
THCS được xem là không còn sự cân đối giữa việc phát dục với mức độ
trưởng thành về xã hội tâm lý. Nhiều em học sinh THCS tị mị với tình cảm
nam nữ và bắt đầu yêu sớm. Việc không chia sẻ về sự khác biệt giới tính nam
và nữ , khơng được giải đáp thắc mắc khiến các em muốn tự tìm hiểu với bạn
trai/bạn gái . Và nhiều trường hợp mang thai khi đang đang ngồi trên ghế nhà
trường do không biết cách tránh thai đã xảy ra . Điển hình nhất là việc em học
sinh lớp 9 có thai do bị xâm hại: Những ngày qua, vụ việc nữ sinh lớp 9 tố
cáo bạn học sinh có hành vi đồi bại dẫn đến mang thai đang khiến dư luận hết
sức bất bình. Theo tìm hiểu, vụ việc xảy ra tại một trường THCS ở Thị xã


Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nạn nhân là em Đ.M.A, học sinh lớp 9B, người có

hành vi đồi bại với M.A là một nam sinh trong trường. Tường trình lại sự việc
A kể cháu bị Ng (lớp trưởng lớp 8A1) xâm hại 3 lần. Lần đầu tiên khoảng
tháng 5/2020, khi A được bạn bè rủ tới nhà S chơi và Ng cũng có mặt ở đó.
Tại đây, A bất ngờ bị Ng kéo vào phòng ngủ chốt cửa và bắt A cởi quần áo để
Ng quan hệ, nhưng nạn nhân không đồng ý. Thấy vậy, Ng liền doạ A nếu
không làm theo ý Ng thì Ng sẽ nói với các bạn trong lớp tẩy chay, không chơi
cùng A nữa. Sợ bị cô lập trong lớp , A đã cởi đồ theo yêu cầu của Ng, không
dám phản kháng kêu la, cũng khơng dám nói với người lớn. Thật ra, đã từng
xảy ra những vụ việc tương tự như thế này ở nhiều trường học khác nhau trên
cả nước, gióng lên hồi chng cảnh báo về tình trạng mang thai khi đang ngồi
trên ghế nhà trường của nhiều em học sinh THCS cho các bậc phụ huynh và
giáo viên

II.5. Lý do 4: Ảnh hưởng từ mơi trường bên ngồi.

a) Sự phát triển mạnh về thể chất, dẫn đến sự thay đổi về mặt tâm lý, hưng phấn

cao, các em muốn khẳng định vai trị của mình trong tập thể và xã hội, nhưng
lại không biết thể hiện bằng cách nào, công thêm sự bồng bột, thiếu kiềm chế,
do đó muốn dùng vũ lực như một cách thể hiện sự vượt trội của mình so với
bạn bè. Học sinh khơng muốn học và thất bại trong việc học là những nguyên
nhân gây ra tình trạng bạo lực học đường đang rất phổ biến hiện nay. Đồng
thời, cũng có nguyên nhân xuất phát từ gia đình. Gia đình chính là nơi hình
thành cho các em nhân cách sống và cách ứng xử trong xã hội văn minh, nơi
giáo dục cho các em những cảm nhận đầu tiên về quan hệ giữa con người với
con người, giữa con người với thiên nhiên và giữa mỗi người với chính bản
thân mình. Cho nên mơi trường giáo dục gia đình khơng tốt sẽ tác động rất
lớn đến hành vi bạo lực của các em. Môi trường giáo dục gia đình khơng tốt
là mơi trường chẳng hạn như: Cha mẹ có thu nhập và học lực thấp; nghiện


ngập hay phạm pháp; bạo lực trong gia đình; cha mẹ thiếu quan tâm hay
khơng tạo được quan hệ tình cảm với con cái; kém khả năng kiểm soát con


cái; kém tình thương yêu và nối kết trong gia đình; chức năng giáo dục trong
gia đình kém; biện pháp giáo dục và kỷ luật không nhất quán, quá dễ dãi hay
quá khắc nghiệt; cha mẹ ly thân hoặc ly hơn; cha mẹ có tiền án, tiền sự hoặc
đang ngồi tù; gia đình vừa trải qua những cú sốc về tinh thần như mất người
thân, kiện cáo, phá sản,… Bên cạnh đó, cũng có những nguyên nhân xuất
phát từ nhà trường. Sự quản lý giáo dục học sinh trong nhà trường còn lỏng
lẻo, chưa sâu sát. Biện pháp kỷ luật của thầy cô và nhà trường không nhất
quán, quá dễ dãi hay quá khắc nghiệt. Xử lý học sinh thiếu sự công bằng.
Giáo viên thiếu quan tâm đến đời sống tâm lý, tình cảm của học sinh. Nhà
trường, lớp học thiếu các gương tích cực trong đời sống và thiếu những hoạt
động xã hội lành mạnh. Nhà trường khơng có mối liên hệ tích cực với gia
đình học sinh cũng như các tổ chức xã hội khác; khơng có các hoạt động tham
vấn học đường cần thiết. Và cuối cùng là nguyên nhân từ cộng đồng, xã hội
và các phương tiện truyền thông. Với sự tác động của nền kinh tế thị trường,
khoảng cách giàu nghèo giữa các gia đình và vùng miền ngày càng rõ nét, áp
lực kinh tế dẫn đến sự giảm sút vai của gia đình đối với việc bảo vệ và chăm
sóc con cái. Tình trạng bất bình đẳng về cơ hội phát triển của trẻ em giữa các
vùng. Chức năng kinh tế của gia đình đã lấn áp chức năng giáo dục con cái
của các bậc cha mẹ và những người thân trong gia đình, làm sao nhãng việc
chia sẻ tình cảm, giáo dục phịng tránh những nguy cơ tiêu cực của mơi
trường sống có thể ảnh hưởng đến con trẻ. Bạo lực gia đình và bạo lực ngoài
cộng đồng xã hội cũng tác động đến hành vi bạo lực của trẻ em Việt Nam.
Một sự tác động rất lớn là sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin,
trẻ em được tiếp cận với các trò chơi điện tử và mạng Internet từ khi cịn rất
nhỏ, từ đó dẫn đến các hiện tượng nghiện game online, nghiện Internet cũng
như các trang mạng xã hội, ảnh hưởng từ các trị chơi mang tính bạo lực cao,

các em bất chấp pháp luật, chuẩn mực đạo đức để được thỏa mãn “nhu cầu
bạo lực” thông qua các trò chơi online, rời xa cuộc sống thực tìm đến thế ảo
của Internet. Các ấn phẩm báo chí, sách, truyện tranh, video clip, phim ảnh
mang tính bạo lực cũng góp phần hình thành “nhu cầu bạo lực” của học sinh
THCS ở Việt Nam.
b) Và bạo lực học đường đã gây ra những hậu quả đáng tiếc:


Hậu quả đối với học sinh

 Về mặt thể xác: Các em có thể gặp các chấn thương trên cơ thể, nhiều hành vi

bạo lực đã gây ra án mạng, làm mất đi vĩnh viễn cơ hội được sống, được học
tập của chính mình và bạn bè.
 Về mặt tinh thần: Các em tham gia vào các hành vi bạo lực học đường, đặc

biệt là các em “bị hại” thường có những biểu hiện rối nhiễu hành vi, ảnh
hưởng đến học tập, lao động, năng khiếu, ước mơ, sở thích của bản thân. Các
em mất tự tin khi đến trường, trở nên lầm lì, ít nói, ln ở trong trạng thái lo
lắng, việc ăn ngủ cũng gặp khó khăn, cơ thể suy nhược. Có em trở nên trầm


cảm, tự ti, lo sợ và có những trường hợp đã tìm đến cái chết để giải thốt
chính mình.
 Về học tập: Lơ là việc học, kết quả học tập sa sút, có những trường hợp bỏ

học thường xuyên hoặc bỏ học vĩnh viễn.


Hậu quả đến với gia đình – nhà trường – xã hội


 Với gia đình: Cha mẹ, người thân gặp khó khăn trong việc hiểu con em mình,

khơng biết ngun nhân vì sao mà con em mình khác bình thường. Từ đó
thường đưa ra những cách thức tìm hiểu làm tổn thương các em, tình cảm,
hịa khí trong gia đình bị rạn nứt.
 Với nhà trường: Hành vi bạo lực học đường làm cho hoạt động giáo dục của

nhà trường bị ảnh
hưởng nghiêm trọng,
thay vì tổ chức
các hoạt động giáo dục
đầy ý nghĩa thì
nhà trường phải tổ chức
các Hội đồng kỷ
luật, các cuộc họp phụ
huynh và học
sinh để giải quyết các
hệ quả của các
em. Thầy cô, bạn bè lo
lắng, mất tinh
thần giảng dạy và học
tập, tình đồn kết,
giúp đỡ lẫn nhau bị rạn
nứt. Trường học
trở thành “chiến
trường” để các em “thể hiện mình”. Hơn thế, các hành vi bạo lực cịn lơi kéo
một bộ phận học sinh tham gia, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới đạo đức học
sinh và sự mô phạm của trường học.
 Với xã hội: Bạo lực học đường giống như những hồi chuông cảnh báo cho


toàn xã hội về một bộ phận thế hệ trẻ đang “lệch lạc”, nó ảnh hưởng nghiêm
trọng tới trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là với thanh thiếu niên là lực lượng
nòng cốt và thiết yếu của tương lai quốc gia. Biết bao nhiêu cuộc Hội thảo,
các lực lượng xã hội phải tham gia để chung tay giải quyết vấn nạn bạo lực
học đường, các đề tài, cơng trình nghiên cứu về vấn đề này cũng theo đó mà
được triển khai.

II.6. Lý do 5: Thời đại công nghệ phát triển nhanh.
 Thời đại công nghệ phát triển thì đồng nghĩa với việc các em được tiếp xúc

nhiều hơn với mạng xã hội. Ở lứa tuổi này vẫn còn khá non nớt trong việc
chọn lựa nội dung để xem. Đồng thời, có nhiều bố mẹ vẫn chưa quản lí kĩ con
mình trong vấn đề sử dụng cơng nghệ. Chẳng hạn như gần đây một sự kiện
nổi trội và đang được nhiều người quan tâm đó chính là trường hợp của cậu
nhóc Bi béo- con trai nghệ sĩ Xuân Bắc về việc mẹ cậu đã đăng tải dòng trạng


thái trên facebook của mình về việc đã phát hiện ra Bi béo đã truy cập vào
những trang web không lành mạnh và không phù hợp với lứa tuổi của cậu bé.
Đây cũng là một trong những tác hại mà mạng xã hội đã gây nên vì vậy cần
có sự quan tâm chăm sóc, dạy bảo, và có những biện pháp phòng ngừa hợp lý
đến từ các bậc phụ huynh để tránh con cái của mình rơi vào trường hợp như ở
trên. Nhưng những bậc cha mẹ cũng phải có những cách dạy bảo và khun
nhủ con mình thích hợp chứ khơng phải bất cứ việc gì cũng đưa lên mạng xã
hội như mẹ của Bi béo bởi vì như vậy rất có thể sẽ ảnh hưởng đến tâm sinh lý
cũng như hoạt động của con trẻ sau này đặc biệt là đối với người có tầm ảnh
hưởng và độ nổi tiếng nhất định như là Bi béo.

II.7. Lý do 6: Cha mẹ bỏ bê con cái, không quan tâm đến việc học tập của


con.
 Có một số trường hợp cha mẹ lơ là việc học của con cái, dẫn đến việc các em

dần lười biếng hơn khi khơng cịn sự quản lí, đốc thúc học tập từ cha mẹ và
thầy cô. Nhiều học sinh rớt thi vào 10 hoặc học hết lớp 9 nhưng lại không
muốn tiếp tục học nữa, bắt đầu học nghề, tiếp xúc với nhiều cám dỗ xã hội.
Chẳng hạn như một trường hợp của một nữ sinh Quản Bình. Dù điều kiện
kinh tế gia đình ổn định, có kết quả học lực khá nhưng học xong lớp 9, em
Mai Thị Niển (SN 2000, ở thôn Cửa Thôn, xã Hải Ninh) vẫn không đăng ký
thi tuyển vào cấp 3 để ở nhà đi làm thuê kiếm sống. Cách đây gần 2 tháng,
Niển được giới thiệu vào làm giúp việc cho một gia đình ở thành phố Đồng
Hới, (Quảng Bình) với mức lương 2,5 triệu đồng/tháng. Niển cho biết, gần
cuối năm học, cứ đến lớp là các bạn lại bàn nhau về việc nghỉ học nên em
cũng muốn nghỉ theo. Về phần gia đình, bố mẹ và các anh chị đều để em tự
quyết định việc tiếp tục theo học hay không chứ không ai can thiệp. “Ở nhà
khơng phải làm gì, giờ đến ở nhà họ, tuy khơng làm việc gì nặng nhưng phải
làm nhiều việc nên em cũng thấy mệt”. Sống xa nhà, lại không mấy khi được
về nên em thấy nhớ bố mẹ, anh chị lắm. Chỉ vì một phút nơng nổi mà em nghỉ
học, giờ em thấy hối hận rồi”, Niển nói.
II.8. Lý do 7: Xem thường sức khỏe, mạng sống.


 Hầu hết các em ở độ tuổi này vẫn chưa suy nghĩ chín chắn về cuộc sống.

Nhiều em khơng quý trọng sức khỏe, xem thường cái chết. Đặc biệt là có
nhiều vụ rạch tay vì tình, đua địi hút thuốc lá theo các bạn,...Và cũng chính vì
những suy nghĩ thiếu chín chắn kia đã gây ra những hậu quả và hệ lụy nghiêm
trọng cho các em, gia đình và những người xung quanh.Và những suy nghĩ đó
đến từ nhiều nguyên nhân chẳng hạn như: áp lực học hành, thi trượt, thất tình,

mặc cảm giới tính, khơng tìm thấy ý nghĩa sống, thậm chí “đua địi”, muốn
chứng tỏ mình "ngầu” khiến nhiều bạn trẻ rơi vào tình trạng ngược đãi bản
thân từ thể nhẹ đến nặng, nhất là ở lứa tuổi teen từ 13-19 tuổi. Chẳng hạn như
trước đây đã từng có một vụ việc đau lịng xảy ra khiến người lớn giật mình
khi nữ sinh lớp 7A, trường THCS Tân Lâm (trú tại xã Thạch Tân, huyện
Thạch Hà, Hà Tĩnh) tử tự trong lớp học. Cơ bé ngoan ngỗn, học giỏi quyết
định ra đi sau khi để lại 2 bức thư viết bằng tiếng Anh và tiếng Việt gửi lời xin
lỗi đến bạn bè vì từ nay khơng thể tham gia học tập, vui chơi cùng các bạn
trong lớp được nữa. Nữ sinh này xin lỗi vì kết quả học tập giảm sút trong thời
gian gần đây, khi không đạt được kết quả tốt như kỳ vọng của bố mẹ và thầy
cơ. Trước đó, một nữ sinh Nghệ An rơi vào tình trạng mệt mỏi, tâm trạng thất
thường, thậm chí chán sống. Người em gầy rộc, mắt thâm quầng, thường nhốt
mình trong phịng. Những biểu hiện bất thường đó khiến gia đình lo lắng, vội
đưa em đến khám. Kết quả cho thấy em mắc chứng trầm cảm, phải nhập viện
điều trị tại khoa Tâm thần, Bệnh viện 103. Thực tế, em không phải trường
hợp duy nhất rối loạn tâm thần vì áp lực học tập, thi cử. Câu chuyện của nữ
sinh Thùy Trang (THPT Đồng Xồi, tỉnh Bình Phước) tự tử để lại 5 lá thư
tuyệt mệnh cũng khiến nhiều người đọc xong xót xa, day dứt. Trong đó có 2
bức thư Trang gửi cho bố mẹ, 3 bức thư cịn lại cơ nữ sinh gửi cho chị gái và
bạn bè. Tất cả đều thể hiện sự buồn chán vì kết quả học tập khơng đáp ứng
được sự kỳ vọng của bố mẹ, chị. Trong thư, Trang viết: “Tương lai sau này
của con cũng khơng cịn nữa, con xin lỗi bố mẹ. Không, không, con không thể
chịu nổi nữa rồi... Tương lai con mù mịt, suy nghĩ con mù mịt, con đường con
đi cũng mù mịt, mọi thứ xung quanh con mù mịt... Hết rồi, tất cả kết thúc
rồi”.

III. Phân tích những biện pháp vệ sinh tâm lý cho lứa tuổi đó
III.1. Vậy nguyên nhân do đâu mà các bạn trẻ ở độ tuổi dậy thì thường xuyên mắc

phải những vấn đề như này? Có rất nhiều lí do để khiến cho các bạn trong độ

tuổi dậy thì cảm thấy stress?
III.1.1.

Áp lực học tập: Ở tuổi dậy thì đa phần trẻ sẽ chịu nhiều áp lực đến từ việc
học tập, nguyên nhân chủ yếu đến từ sự kì vọng quá lớn của cha mẹ. Đa
phần trẻ sẽ bị lo lắng, suy nghĩ nhiều về thành tích, điểm số. Từ đó gây căng
thẳng, sợ hãi mỗi khi khơng đạt được mục tiêu đã đề ra.


III.1.2.

III.1.3.

III.1.4.

III.1.5.

Gia đình khơng hạnh phúc, gặp biến cố: Gia đình là yếu tố đóng vai trị quan
trọng đối với nhận thức, cảm xúc, hành vi và sự phát triển của trẻ. Do đó, khi
gia đình gặp phải biến cố hoặc cha mẹ không hạnh phúc cũng sẽ tác động rất
nhiều đến tinh thần của trẻ, nhiều trường hợp dẫn đến trầm cảm.
Thiếu sự đồng cảm: Bắt đầu ở tuổi dậy thì sẽ khiến cho con người dần thay
đổi về ngoại hình, hành vi, cảm xúc. Điều này sẽ khiến cho trẻ cảm thấy lo
sợ nếu không được trang bị đầy đủ kiến thức. Ngồi ra, khi trẻ khơng nhận
được sự đồng cảm hoặc chia sẻ của bạn bè, người thân cũng sẽ khiến trẻ gặp
nhiều trở ngại trong tâm lý.
Lối suy nghĩ tiêu cực: Những đối tượng thường có suy nghĩ tiêu cực, ln
cảm thấy khó khăn và khơng thể tự giải quyết được các vấn đề của bản thân
sẽ có nguy cơ cao mắc phải bệnh trầm cảm ở tuổi dậy thì.
Bạo lực học đường: Tình trạng bạo lực học đường hiện nay đang có xu

hướng gia tăng, nhất là đối với các trẻ ở tuổi dậy thì. Hầu hết những nạn
nhân của hiện tượng này đều có xu hướng tự chịu đựng, không muốn chia sẻ
khiến cho tâm lý bị ảnh hưởng nghiêm trọng, dần dẫn đến trầm cảm.

III.2. Các dấu hiệu cho thấy các bạn đang trong trạng thái stress và có thể dẫn đến

trầm cảm ở độ tuổi dậy thì:
III.2.1. Khí sắc trầm buồn: Hầu hết các đối tượng bị trầm cảm ở tuổi dậy thì sẽ có khí

sắc buồn bã, chán nản, khơng có năng lượng. Tình trạng này sẽ thường
xuyên diễn ra và kéo dài trong suốt nhiều tuần nhưng không biết rõ nguyên
do. Lúc này trẻ sẽ ít nói, trở nên trầm tính hơn, khơng cịn hứng thú đối với
các hoạt động bên ngồi, ln tỏ ra buồn bã, khn mặt trầm xuống. Đây
cũng chính là một trong các dấu hiệu đặc trưng của căn bệnh trầm cảm ở
tuổi dậy thì.
III.2.2. Mất dần hứng thú: gười bệnh sẽ cảm thấy khơng cịn hứng thú đối với những
hoạt động xung quanh, kể cả những trị chơi, cơng việc đã từng u thích
trước. Lúc này trẻ sẽ có xu hướng muốn cơ lập bản thân, khơng muốn giao
tiếp, trị chuyện với những người bên ngồi, kể cả người thân trong gia
đình. Bệnh nhân sẽ có biểu hiện rụt rè, nhút nhát, không muốn vận động,
thay vào đó sẽ cảm thấy an tồn khi ngồi n một chỗ, đặc biệt là những
nơi khơng có nhiều ánh sáng.
III.2.3. Giận dữ vô cớ: Khi các áp lực tác động đến trẻ thường xuyên và kéo dài trong
một khoảng thời gian sẽ khiến cho sẽ dễ tức giận và nóng tính, khơng thể tự
kiểm sốt được cảm xúc của bản thân. Ngay cả khi khơng có vấn đề gì xảy
ra hoặc một sự việc rất bình thường cũng có thể khiến cho trẻ cảm thấy khó
chịu, giận dữ vơ cớ. Đặc biệt, trong một số trường hợp nếu các cơn tức giận
không thể giải tỏa được triệt để sẽ làm cho trẻ xuất hiện các hành động đập
phá, la hét hoặc có thể tự gây tổn thương cho bản thân và những người
xung quanh.

III.2.4. Cảm thấy bi quan: Những bệnh nhân rơi vào tình trạng trầm cảm ở tuổi dậy thì
thường sẽ khơng có niềm tin vào cuộc sống, cảm thấy bi quan và ln xem
mình là nạn nhân của tất cả mọi việc. Họ luôn cảm thấy bị bỏ rơi, thậm chí


cịn có ý nghĩ cho rằng người khác đang thương hại mình. Cũng chính vì
thế mà các đối tượng này có xu hướng muốn né tránh mọi người, tự tạo cho
mình một lớp màn bảo vệ để lánh khỏi thế giới bên ngồi.
III.2.5. Khó tập trung, hay qn: Khi tâm lý thường xuyên bị tác động, những suy nghĩ
tiêu cực, buồn bã luôn xuất hiện sẽ khiến cho người bệnh cảm thấy mệt
mỏi, khó có thể tập trung vào bất kỳ việc gì, đặc biệt là việc học tập. Ngồi
ra, trẻ cịn có triệu chứng hay qn, khơng thể ghi nhớ được khối lượng lớn
công việc và thường xuyên không thể hồn thành các nhiệm vụ được giao.
Tình trạng này khơng chỉ gây ảnh hưởng đến sức khỏe mà cịn làm giảm
chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
III.2.6. Cảm thấy bản thân vô dụng: Những bệnh nhân bị trầm cảm ở tuổi dậy thì
thường sẽ có cảm giác thất vọng về bản thân, cảm thấy tội lỗi và tự giày vị
chính mình. Người bệnh sẽ tự cảm thấy khơng thể hồn thành được bất kể
cơng việc gì, dù là việc nhỏ nhất, từ đó khơng muốn thực hiện các cơng
việc hàng ngày. Khi hiện tượng này khơng thể kiểm sốt tốt sẽ khiến cho
trẻ dần mất đi niềm tin vào bản thân, stress, căng thẳng, khơng có hi vọng
về tương lai dẫn đến kết quả học tập bị giảm sút, các mối quan hệ dần tan
vỡ.
III.2.7. Chống đối, nổi loạn: Bệnh trầm cảm ở tuổi dậy thì sẽ có xu hướng khiến cho
trẻ trở nên chống đối, không chịu lắng nghe và tiếp nhận các ý kiến từ mọi
người. Trẻ sẽ có những hành vi phản kháng lại những hành động mà cha
mẹ đề cập đến, ln có cảm giác đề phòng mà muốn xa lánh với tất cả mọi
người. Đặc biệt khi trẻ cảm thấy bị tấn công bằng lời nói, hành động, cử chỉ
thì trẻ sẽ có hiện tượng nổi loạn, muốn phản kháng lại và ngừng tiếp nhận
thơng tin.

III.2.8. Nhạy cảm với những lời phê bình: Trẻ em khi bước vào độ tuổi dậy thì thường
sẽ rất nhạy cảm với các lời chê bai, góp ý của người lớn. Đặc biệt là những
trẻ mắc phải căn bệnh trầm cảm cịn có cảm xúc bị xúc phạm khi cha mẹ
hoặc người thân trong gia đình phê bình bản thân. Thông thường trẻ sẽ
phản kháng lại bằng những cơn giận dữ, bực tức. Nếu tình trạng này kéo
dài sẽ khiến cho trẻ tự cảm thấy bản thân khơng cịn giá trị, mất dần tự tin.
III.2.9. Nghĩ đến cái chết: Khi tình trạng trầm cảm kéo dài và khơng có biện pháp điều
trị thích hợp sẽ dần khiến cho trẻ bắt đầu có suy nghĩ về cái chết, ln
muốn tự sát để giải thoát cho bản thân. Người bệnh sẽ thường xuyên xuất
hiện những suy nghĩ này và liên tục muốn thực hiện chúng để giúp bản
thân tránh khỏi những cơn bực tức, khó chịu, căng thẳng.
III.3. Vậy phải làm sao để có thể “vệ sinh tâm lý” cho các bạn trẻ ở độ tuổi dậy

thì
III.3.1

Đối với các bậc cha mẹ:

 Giao tiếp với con thường xuyên, cởi mở và chân thành để con cảm thấy ln

có thể trị chuyện với bố mẹ về bất cứ vấn đề gì.


 Chia sẻ cho con những kinh nghiệm của bản thân và những lo lắng mà bố












III.3.2

mẹ đã từng trải qua ở tuổi dậy thì, tạo cho con cảm giác con khơng đơn độc
và khơng có gì phải lo lắng.
Phụ huynh nên trang bị thông tin về các rối loạn tâm sinh lý tuổi dậy
thì thơng qua việc nói chuyện với bác sĩ, các chuyên viên y tế, tâm lý hoặc
giáo viên, tìm hiểu qua sách báo để có được những thơng tin hữu ích.
Khéo léo chú ý đến hành vi của con vì tuổi dậy thì là khoảng thời gian
chuyển biến và thay đổi lớn ở trẻ. Nếu những thay đổi của trẻ có chiều
hướng nghiêm trọng, mạnh mẽ và đột ngột thì đó có thể là dấu hiệu báo
động về sức khỏe tinh thần.
Khi thấy con em có những biểu hiện tâm lý khơng bình thường, phụ huynh
khơng nên giấu giếm, mặc cảm về con cái mà nên đưa trẻ đến bác sĩ chuyên
khoa tâm lý, tâm thần càng sớm càng tốt.
Các rối loạn tâm sinh lý tuổi dậy thì tuy dễ gặp nhưng hồn tồn có thể điều
trị khỏi nếu được chẩn đoán sớm và điều trị đúng cách.
Khuyến khích con tham gia những hoạt động tập thể, hoạt động xã hội.
Tránh cho trẻ tiếp xúc với các loại phim ảnh, trò chơi bạo lực hoặc các văn
hóa phẩm đồi trụy...
Bổ sung đầy đủ dinh dưỡng cho con
Đối với bản thân các bạn trẻ ở trong độ tuổi này:

a. Trau dồi kiến thức về giới tính
 Tuổi dậy thì là độ tuổi mà hormone bắt đầu phát triển, vì vậy mà ở độ tuổi


này, các bạn sẽ bắt đầu tị mị về cơ thể mình, về cơ thể người khác giới và
về tình dục. Chính vì sự tị mị đó mà có thể gây nên những hệ quả khơn
lường như hình thành những suy nghĩ đen tối, bị kẻ xấu lợi dụng,
 Để đảm bảo an toàn cho bản thân, các bạn nên trang bị cho mình đầy đủ
những kiến thức về giới tính bằng việc đọc các sách, báo, các diễn đàn giới
tính, tham gia những lớp học giáo dục giới tính. Đặc biệt, nếu thấy tị mị
hoặc thắc mắc, hãy hỏi bố mẹ mình về vấn đề này một cách nghiêm túc,
tuyệt đối không hỏi người lạ hay tự tìm tịi qua những trang mạng khiêu
dâm, xem các văn hóa phẩm đồi trụy.
 Đặc biệt dậy thì cũng là lúc các cơ gái bắt đầu có kinh nguyệt. Hãy cởi mở
hỏi mẹ hoặc các bạn cùng trang lứa cách chọn băng vệ sinh, các triệu
chứng tiền kinh nguyệt và phương pháp vệ sinh đúng cách. Đừng xấu hổ
hay ngại ngùng vì đây là vấn đề bất cứ cô gái nào cũng sẽ gặp phải.
b. Đừng để yêu đương làm xao nhãng việc học hành
 Ở độ tuổi dậy thì, hormone ở các bạn phát triển mạnh khiến cho các bạn bắt

đầu bị thu hút bởi các bạn khác giới và dễ rơi vào những chuyện tình cảm.
u đương khơng có gì là xấu tuy nhiên các bạn trẻ cần tỉnh táo, đừng để


tình cảm làm xao nhãng việc học hành. Khơng tập trung học hành ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả học tập và tương lai của các em sau này.
 Đã có rất nhiều trường hợp kẻ xấu lợi dụng tâm lý muốn được yêu của các
các bạn ở độ tuổi dậy thì để hãm hại. Vì vậy, hãy suy nghĩ thật kỹ trước khi
muốn tìm hiểu một bạn nào đó, hạn chế việc yêu đương qua mạng xã hội.
Bạn có thể nói chuyện, tâm sự với bố mẹ, thầy cơ để có được những lời
khun hữu ích.
c. Chăm sóc bản than
 Tập luyện thể dục thể thao: Giai đoạn này, cơ thể đang phát triển về mọi


mặt, nhất là vóc dáng và chiều cao. Hãy tham gia tập luyện thể dục thể thao
như chạy bộ, tập gym, bơi lội, nhảy, để kích thích xương khớp phát triển,
sở hữu vóc dáng đẹp và tự tin. Ngoài ra, các hoạt động này cũng giúp nàng
duy trì sức khỏe, sức đề kháng tốt nữa đó.
 Ăn uống đủ dinh dưỡng: Các bạn dậy thì đang ở tuổi ăn tuổi lớn nên cần bổ
sung vào thực đơn ăn uống hàng ngày của mình chế độ ăn đầy đủ nhóm
dinh dưỡng. Tuyệt đối khơng bỏ bữa, ăn uống qua loa, hạn chế ăn đồ ăn
nhanh, nhiều dầu mỡ...Thay vào đó nên ăn nhiều rau xanh, các thực phẩm
nhiều canxi, vitamin và khoáng chất, đặc biệt là sắt.
 Với con gái mỗi kỳ kinh nguyệt, các bạn gái mất đi một lượng máu lớn,
hãy ăn thực phẩm nhiều sắt như đậu phụ, các loại hạt, ngũ cốc, động vật
thân mềm, để bù lại lượng máu mất. Ăn uống lành mạnh và đủ chất là nền
tảng để cơ thể phát triển cả về thể chất, vóc dáng lẫn trí não.
d. Hạn chế sử dụng mạng xã hội
 Mạng xã hội cũng là một công cụ rất dễ gây nghiện. Các bạn đến tuổi dậy

thì với bản năng tò mò và muốn hòa nhập sẽ dễ bị cuốn theo những nội
dung trên mạng xã hội. Điều này có thể ảnh hưởng xấu tới khả năng giao
tiếp, tạo cảm giác thích chat chit hơn giao tiếp trực tiếp, dễ trở thành con
người “sống ảo”. Ngoài ra, quá nghiện mạng xã hội khiến các bạn thường
xuyên thức khuya, gây hại cho thị lực, sức khỏe và làm xao nhãng việc học
hành.
 Bởi vậy các bạn nên hạn chế sử dụng mạng xã hội, mỗi ngày chỉ nên sử
dụng 1 -2 tiếng vào lúc rảnh rỗi.
e. Tham gia các hoạt động ngoại khóa
 Hãy đăng ký tham gia các hoạt động ngoại khóa như câu lạc bộ, tình

nguyện để năng động và trau dồi thêm kinh nghiệm cho mình bên cạnh
việc học ở trường lớp. Đặc biệt, các bạn ở độ tuổi này nên học thêm các lớp
kỹ năng mềm như kĩ năng sống, thuyết trình, tin học. Đừng ngần ngại bổ



sung thêm kiến thức về mọi mặt của đời sống để kích thích trí não phát
triển và trở nên tự tin hơn trước mặt mọi người.
f. Cởi mở hơn
 Một trong những điều khó khăn nhất ở độ tuổi này đó là các bạn thường

khơng nói chuyện hay tâm sự với bố mẹ và người thân về những vấn đề
mình gặp phải. Hãy nhớ rằng, tâm sự với người khác sẽ giúp bạn cảm thấy
thoải mái hơn và có cách giải quyết tốt nhất. Đừng ngại cởi mở, ngồi xuống
kể cho bố mẹ và người thân, bạn bè về những gì mình trải qua, hỏi những
điều thắc mắc, chia sẻ mọi niềm vui nỗi buồn. Không nên tự giữ ở trong
lịng và tự suy nghĩ q nhiều, đơi khi sẽ khiến bạn bị bế tắc, gây ra những
cảm xúc tiêu cực
 Dậy thì là độ tuổi rất đặc biệt, đánh dấu bước trưởng thành của các bạn
nam và bạn nữ. Hãy trang bị cho mình đầy đủ nền tảng về kiến thức, kỹ
năng trong giai đoạn này để phát triển toàn diện cả về tâm sinh lý



×