Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và liên hệ đến sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.38 KB, 31 trang )


VIẾT TẮT


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết
Khi đánh giá về khát vọng làm giàu của các nhà tư bản, nhà kinh tế học người Anh
T.J.Dunning (1799 - 1873) có câu nói nổi tiếng: “Với một lợi nhuận thích đáng tư bản trở
nên can đảm. Được đảm bảo 10% lợi nhuận, người ta có thể dùng tư bản vào đâu cũng
được; được 20% là hoạt bát hẳn lên; được 50% trở nên thật sự táo bạo …”. Câu nói được
hiểu dưới góc độ lịng tham của các nhà tư bản làm giàu bằng mọi giá ở giai đoạn Chủ
nghĩa Tư bản bản hoang dã. Cách hiểu đó khơng sai trong của hồn cảnh lịch sử giai đoạn
đó, khơng những vậy ngày nay ở đâu đó vẫn đúng. Tuy nhiên nếu có cái nhìn khách quan
và thực tế, sẽ thấy khát vọng làm giàu chân chính của con người đã sản sinh ra kinh tế thị
trường và cũng là động lực quan trọng nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia và nền
văn minh nhân loại. Khơng ai khác, chính những tập đồn và cơng ty đó cùng với các
doanh nghiệp và thành phần kinh tế tư nhân ở các nước phát triển đã mang lại công ăn
việc làm cùng khối lượng của cải khổng lồ không chỉ cho riêng các chủ doanh nghiệp mà
cho toàn xã hội, đáp ứng tốt hơn đời sống vật chất tinh thần của con người. Trong bối
cảnh khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm trọng ở Việt Nam, từ năm 1954 (với miền Bắc)
và từ năm 1975 (trên phạm vi cả nước) đến trước thời kỳ đổi mới cả nước năm 1986, Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), đã đề ra đường lối Đổi mới, với chủ trương đa
dạng hố các loại hình sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần từ mơ
hình kinh tế đơn thành phần là nhà nước. Với lý do đó, nhóm chúng em chọn đề tài: " Lý
luận về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và liên hệ đến sự phát triển của thành
phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta ". Đề tài
này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Trung Hiếu. Chúng em xin bày
tỏ lòng biết ơn chân thành của mình đến ThS. Nguyễn Trung Hiếu đã tạo điều kiện thuận


lợi cho nhóm chúng em nghiên cứu đề tài này.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; sự phát triển của thành
phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam./ (hay
cần nêu rõ ra hơn)


Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu nội dung nói chung trên toàn quốc.
Thời gian: giai đoạn 2010-2020.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu khái quát về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta; đồng thời
phân tích, đánh giá thực trạng thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề
xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực hạn chế
mặt tiêu cực của nó trong cơng cuộc phát triển kinh tế xã hội định hướng XHCN ở Việt
Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu ñược coi trọng sử dụng trong bài lý luận là thu thập,
nghiên cứu các tài liệu có sẵn bao gồm các báo cáo về tình hình phát triển kinh tế - xã
hội; các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển thành phần kinh tế
nói riêng…, tổng hợp và phân tích, phương pháp thống kê, phân tích kinh tế…
Kết cấu đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày trong
2 chương chính.
Chương 1: Lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Chương 2: Sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
Ở VIỆT NAM

1. Kinh tế và kinh tế thị trường
Kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã
hội liên quan trực tiếp vào việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại
sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con
người trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn. Kinh tế dùng để chỉ
phương thức sản xuất bao gồm cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; chỉ
tổng hợp quan hệ vật chất trong xã hội phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, trong đó các
yếu tố đầu vào,đầu ra của sản xuất đều dược thực hiện thông qua thị trường;
tuân theo nguyên tắc và quy luật thị trường. Nhờ có tính ưu việt cao nên phần
lớn các nước trên theo giới đều đi theo mơ hình hình này
Tại sao nói kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao?
Trước khi hình thành kinh tế thị trường thì xã hội xuất hiện lần lượt hai mơ
hình kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa nhưng hầu hết các vật phẩm được sản
xuất ra xuất phát từ nhu cầu nhu cầu và sự bn bán trao đổi hàng hóa cũng bắt
đầu từ sự tự phát không theo một quy luật cụ thể như giá cả, số lượng. Sau một
thời gian thị trường xuất hiện mở rộng và các quan hệ kinh tế hàng hóa sản
xuất tiền tế cũng phát triển và có quy luật của đầu vào đầu ra như quy luật cung
cầu và đó là những thứ ưu việt của mơ hình kinh tế thị trường đem lại.
Kinh tế thị trường có nhiều mơ hình và hướng đi khác nhau tùy thuộc điều kiện
kinh tế chính trị và xã hội mà chính phủ của nước đó xác định như Kinh tế thị
trường tự do mới của Mỹ, kinh tế thị trường xã hội của CHLB Đức, … Còn ở
Việt Nam, với mục tiêu dài hạn là tiến đến xây dựng chủ nghĩa xã hội và lấy
kinh tế thị trường làm phương tiện nên chính phủ quyết định lấy mơ hình Kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa


2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN
2.1 Khái niệm

Kinh tế thụ trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo
các quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập
một xã hội mà ở đó dân giàu nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh; có sự
điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Vì là kinh tế thị trường thì mọi hoạt động của nó vẫn phải tuân theo các quy
luật chung của thị trường dù cho nó được đình hướng theo con đường nào
Việc phát triển kinh tế là một phương tiện đắc lực cho nhà nước đạt được mục
tiêu xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh và lưu ý phải đồng bộ hóa được sự phát triển những mục tiêu này vì nếu
bỏ sót đi một mục tiêu có thể khiến đất nước đó rồi vào cảnh khốn cùng trong
tương lai. Lấy ví dụ như một số nước tuy rất ổn định về kinh tế nhưng đất nước
lại phải chịu sự lệ thuộc lớn vào nước ngồi và khi đó chỉ cần đất nước mà họ
lệ thuộc có biến động sẽ khiến cho họ cũng lung lây theo, hoặc như Triều Tiên,
tuy rằng đất nước họ rất mạnh về quân sự và một trong số ít nước có thể phát
triển vũ khí hạt nhân nhưng rõ ràng người dân của đất nước đó rất nghèo, độ
chênh lệt giàu nghèo cũng rất cao, … Vì lý do đó ta phải thật sự thân trọng và
phân chia đều sự quan tâm khi cân bằng tất cả các mục tiêu mà mình đặt ra.
Sự điều tiết của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường là điều cần thiết để giữ
được ổn định, có nhiều nền kinh tế cạnh tranh đã sụ đổ khi thiếu sự can thiệp
kịp thời của nhà nước nhưng khơng có nghĩa là nhà nước được phép can thiệp
sâu vào nên kinh tế đó mà chỉ tác động qua các thực thể có sẵn như ngân hàng
nhà nước, doanh nghiệp nhà nước.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi
Mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ
chế thị trường. Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế
toàn cầu. Cụm từ "định hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý nghĩa là Việt Nam


chưa đạt đến chủ nghĩa xã hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho
một hệ thống xã hội chủ nghĩa trong tương lai. Mơ hình kinh tế này khá tương

đồng với mơ hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (socialist market
economy) của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó các mơ hình kinh tế tập
thể, nhà nước, tư nhân cùng tồn tại, và khu vực nhà nước giữ vai trị chủ đạo.
2.2 Tính tất yếu khách quan của việc phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN
Kinh tế thị trường định hướng XHCN phù hợp với tính quy luật phát triển của
khách quan. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa,
ở Việt Nam những điều kiện cho sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng
hóa khơng mất đi mà cịn phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu, sự
phát triển kinh tế hàng hóa tất yếu hình thành kinh tế thị trường.Như vậy, sự lựa
chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
phù hợp với xu thế của thời đại và đặc điểm phát triển của dân tộc.
Kinh tế thị trường có rất nhiều ưu việt, là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước. Kinh tế thị trường là phương thức phân bổ
nguồn lực hiệu quả mà lồi người đã đạt được so với các mơ hình kinh tế phi
thị trường, là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và hiệu quả
cao. Dưới tác động của các quy luật thị trường nền kinh tế ln phát triển theo
hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ thuật – công nghệ, nâng cao năng suất
lao động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm. Xét trên góc độ đó,
sự phát triển kinh tế thị trường khơng hề mâu thuẫn mà cịn là cơ sở vật chất tạo
điều kiện thực hiện những mục tiêu XHCN.
Mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện
vọng của nhân dân mong muốn một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Sự tồn tại của kinh tế thị trường ở nước ta tạo ra một động lực
quan trọng cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội. Với đặc điểm lịch sử của dân tộc, Việt Nam khơng
thể lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, chỉ có lựa chọn mơ


hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới phù hợp với ý chí và

nguyện vọng của đông đảo nhân dân về một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh
2.3 Những đặc trưng cơ bản và những nhiệm vụ chủ yếu của kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Về mục tiêu:
 Hướng tới phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội; nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện “ dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”
Về quan hệ sỡ hữu và thành phần kinh tế:
 Trong nền KTTT định hướng XHCN tồn tại hiều quan hê sở hữu với nhiều thành
phần kinh tế khác nhau và trong đó có 4 thành phần kinh tế chính: TPKT nhà nước,
TPKT tập thể, TPKT tư nhân và TPKT có vốn đầu tư nước ngoài.
 Các thành phần kinh tế này đều độc lập. bình đẳng trước pháp luật và nhà nước
khuyến khích mọi thành phần cùng phát triển
 Các TPKT ngồi có tính thống nhất cịn có các sự khác nhau thậm chí là mâu thuẫn
làm cho nền KTTT phát triển theo nhiều hướng khác nhau và nhà nước có vai trị
nhệm vụ là giữ cho các khuynh hướng đó giữ vững định hướng XHCN
Về quan hệ quản lý nền kinh tế:
 Sự can thiệp của nhà nước vào nên kinh tế của các nước chủ yếu nhằm khắc phục
các hạn chế cũng như khuyết tật của kinh tế thị trường
 Còn ở Việt Nam: Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của ĐCS,
sự làm chủ và giám sát của nhân dân
 Nhà nước quản lý nền kinh tế qua pháp luật, các chiến lược, kế hoạch và cớ chế
chính sách phù hợp. Nhà nước chăm lo xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo
mơi trường, thị trường khuyến khích các TPKT để phát triển nền kinh tế. Song
song với đó nhà nước cũng sẵn sàng hỗ trợ thị trường khi cần thiết.


Về quan hệ phân phối:

 KTTT định hướng XHCN phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh
tế, theo mức đóng góp ốn cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh
xã hội, phúc lợi xã hôi. Lý do cho việc tại sao lại có nhiều hình thức phân phối như
vậy chủ yếu đến từ sự đa dạng của TPKT và những hình thức phân phối khác nhau
lại phù hợp với một số TPKT, quan hệ sỡ hữu nhất định.
Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội:
 Nền kinh tế luôn gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, giáo dục, xây
dựng con người và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
 Nền kinh tế đó ln có sự gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã
hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, mọi người
đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện. Đây cũng là một trong những mục
tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự khác biệt
so với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa về việc phân cực giàu nghèo, phân hóa
xã hội.
CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂN
1. Khái quát về thành phần kinh tế tư nhân
1.1 Khái niệm
Kinh tế tư nhân được dùng để chỉ các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư
bản tư nhân. Cả hai thành phần kinh tế trên thuộc cùng chế độ sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất; tuy nhiên, quy mô sở hữu là khác nhau.
1.2 Đặc điểm của thành phần kinh tế tư nhân
Các doanh nghiệp trong và ngoài nước nằm trong TPKT tư nhân có vốn đàu tư
thuộc về tư nhân trên 50%. Các DNTN tự bỏ tiền túi của mình để đầu tư làm ăn
và có quyền được hưởng thành quả mà họ tạo ra
Nguyên tắc hoạt động của các loại hình DNTN đã được khái quát thành nguyên
tắc “bốn tự”. Đó là tự bỏ vốn, tự tổ chức, tự chủ trong kinh doanh và tự bù lỗ


Đây là khu vực kinh tế rất nhạy cảm với những đặc trưng của kinh tế thị

trường, có tiềm lực lớn trong việc nâng cao năng lực nội sinh của đất nước,
tăng trưởng kinh tế
1.3 Đặc điểm của thành phần kinh tế tư nhân ở nước ta
2. Thực trạng phát triển của các thành phần kinh tế tư nhân ở nước ta
2.1 Những thành tựu và nguyên nhân
2.1.1 Những thành tựu
2.1.1.1 Quy mô sản suất
VinFast (tên đầy đủ: Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất và kinh doanh
VinFast) là một nhà sản xuất ô tô và xe máy điện của Việt Nam được thành lập
năm 2017, có trụ sở đặt tại thành phố Hải Phịng. VinFast có một nhà máy lắp
ráp, sản xuất chính đặt tại thành phố Hải Phịng, nhà máy có diện tích 335
hecta với tổng số vốn đầu tư đạt 3,5 tỷ USD và là một trong những dự án công
nghiệp lớn nước ta. Công ty hợp tác về công nghệ, kỹ thuật, hỗ trợ tư vấn chiến
lược, đào tạo nguồn nhân lực với các nhà sản xuất ô tô, linh kiện phụ tùng và
thiết bị cơng nghiệp nặng lớn nhất trên tồn cầu như BMW, Bosch,
Pininfarina, General Motors…
Những sản phẩm đã được giới thiệu trên thị trường:
Vào ngày khánh thành nhà máy sản xuất ô tơ tại Hải Phịng 14 tháng 6 năm
2019, cơng ty công bố con số đơn đặt hàng ô tô chạy xăng là hơn 10.000 chiếc
cho 3 dòng sản phẩm VinFast LUX A2.0, SA2.0 và Fadil đã được giới thiệu
trước đó
Mẫu xe VinFast President giới thiệu năm 2019 tại Triển lãm mô tô Geneva, dự
kiến ra mắt 2020 là phiên bản đặc biệt giới hạn, Với động cơ V8 6.2L, tốc độ
tối đa gần 300 km/h, VinFast President là một trong những mẫu xe thương mại
mạnh mẽ nhất hiện nay, biểu trưng cho đẳng cấp, chất lượng của thương hiệu ô
tô Việt Nam sau hai năm ra mắt.


Xe máy điện VinFast Klara là chiếc xe máy chạy bằng năng lượng điện đầu
tiên được sản xuất tại Việt Nam đáp ứng các tiêu chuẩn về thông minh, phù

hợp với thể trạng người Việt Nam và điều kiện giao thông khu vực.
VinBus được Vingroup thành lập ngày 25 tháng 4 năm 2019. Vinbus sử dụng
xe buýt điện do VinFast sản xuất để vận tải hành khách nội thành, ngoại thành,
và liên tỉnh với cơ cấu hoạt động theo mô hình phi lợi nhuận. Theo mơ hình
phi lợi nhuận của cơng ty thì 100% lợi nhuận sẽ được tái đầu tư nhằm nâng cao
chất lượng dịch vụ, phát triển hệ thống và mở rộng các tuyền đường để đưa tới
người dân một dịch vụ giao thông công cộng văn minh cũng như hiện đại.
Ngày 24 tháng 3 năm 2021, VinFast chính thức mở bán mẫu xe ơ tơ thể thao
đa dụng chạy điện VFe34. Mẫu e34 được ra mắt online ngày 15/10/2021.
2.1.1.2 Tính cạnh tranh
Sẵn sàng cạnh tranh trong khu vực và trên toàn cầu:
Sản xuất ra những chiếc xe ô tô trong một nhà máy mới được xây dựng trong
vòng chưa đầy hai năm là một điều chưa từng xảy ra. Tuy nhiên, ngay từ đầu
với tham vọng có thể cạnh tranh ở Việt Nam cũng như trên toàn cầu, VinFast
đã dựa vào kinh nghiệm chuyên môn của Siemens để tận dụng những công
nghệ tiên tiến nhất. Điều này tạo ra một hệ thống sản xuất khép kín sử dụng
các bản sao số của sản phẩm, quy trình sản xuất và hiệu suất sản xuất và sản
phẩm. Nhà máy số tồn diện được xây dựng trong vịng 21 tháng, nhanh hơn
50% so với thông thường và được thiết kế để có thể dễ dàng mở rộng trong
tương lai.
2.1.1.3 Ứng dụng công nghệ cao sản xuất
Internet kết nối vạn vật (IoT - Internet of things) là nền tảng tiên tiến mang đến
cách tiếp cận và giải pháp mới cho những vấn đề trong quản lý, sản xuất và
sinh hoạt hàng ngày. Trong đó, ứng dụng cơng nghệ IoT đối với ngành công
nghiệp ô tô là xu hướng đang được ưa chuộng trên toàn thế giới
IoT là một hệ thống gồm hàng tỷ các thiết bị phức tạp như điện tử, cảm biến,
thiết bị truyền động, trung tâm nền tảng… kết nối và tương tác với nhau qua


mạng không dây mà không yêu cầu bất kỳ sự can thiệp nào của con người. Ứng

dụng IoT trong lĩnh vực ơ tơ đang thay đổi nhanh chóng ngành cơng nghiệp này
nhằm nâng cao trải nghiệm di chuyển và khả năng quản lý, đồng thời mở ra
một tương lai của các phương tiện thông minh, tự hành.
VinFast tự hào là hãng xe tiên phong trong việc ứng dụng ô tô IoT tại Việt
Nam, khởi đầu là xe điện VF e34. Mẫu ơ tơ thế hệ mới sở hữu nhiều tính năng
thông minh phục vụ người dùng như: tương tác, quản lý xe qua smartphone, kết
nối Apple Carplay và Android Auto, cập nhật phần mềm FOTA, định vị xe, tự
động chẩn đoán và cảnh báo hư hỏng, gọi dịch vụ cứu hộ khẩn cấp eCall, lưu
trữ lịch sử hoạt động của xe,...Ngồi ra, ứng dụng quản lý trên VF e34 cịn đưa
ra các thông tin về bản đồ, quãng đường, cho phép người dùng lên trước lịch
trình di chuyển hay xác định vị trí các trạm sạc hoặc xưởng dịch vụ VinFast
gần nhất. Bên cạnh đó, khoang lái của mẫu xe điện VF e34 cũng sở hữu một
loạt công nghệ thông minh như điều khiển bằng giọng nói tiếng Việt, ứng dụng
trí tuệ nhân tạo giúp ghi nhớ sở thích, thói quen của người dùng và hệ thống
giải trí thơng minh, hiện đại.
VinFast đang sử dụng các giải pháp toàn diện của Siemens như phần mềm
Quản lý Vòng đời Sản phẩm (PLM) với danh mục hàng đầu Tecnomatix và
phần mềm Quản lý Hoạt động Sản xuất (MOM), cho tới danh mục tổng thể
mới, hài hòa của phần mềm Siemens Opcenter để hiện thực hóa quy trình sản
xuất tinh gọn qua tất cả các khâu, và giải pháp Tự động hóa Tích hợp Tồn diện
(TIA) cho các khâu tự động hóa, bao gồm robot, băng tải, máy ép và máy phay.
Cách tiếp cận tồn diện này đã tăng tốc độ và tính linh hoạt trong việc phát
triển, đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn toàn cầu khắt khe trong sản xuất, tối ưu
hóa quy trình sản xuất, đồng thời giúp cho tồn bộ nhà máy có thể chủ động sẵn
sàng cho việc mở rộng hơn nữa và phát triển các mơ hình kinh doanh mới trong
tương lai.
Hợp nhất hai thế giới ảo và thực


Việc phát triển mẫu xe hơi và xe tay ga mới, lên kế hoạch cho nhà máy mới và

cuối cùng là sản xuất với sự hỗ trợ từ các công cụ số tạo ra một hình ảnh mơ
phỏng chi tiết, bản sao số. Bản sao số tạo ra những hiểu biết mới, nhờ sự kết
hợp giữa mô phỏng vật lý với phân tích dữ liệu trong một mơi trường hồn tồn
giả lập. Điều này giúp việc hiện thực hóa các đổi mới sáng tạo trở nên nhanh và
đáng tin cậy hơn, trong khi giảm đáng kể các yêu cầu về nguyên mẫu thực tế.
Thậm chí nhiều dữ liệu hơn được tạo ra khi sản phẩm đang được sản xuất hoặc
nhà máy bắt đầu hoạt động.
Những dữ liệu về hiệu suất của quy trình sản xuất và sản phẩm thực có thể
được thu thập, phân tích và truyền trở lại vào chu kỳ phát triển, từ đó giúp
VinFast cải thiện và tối ưu hóa các sản phẩm và quy trình mới ngay từ giai
đoạn ban đầu
2.1.1.4 Giải quyết vấn đề việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao
động

Tỉ lệ (%) thiếu việc làm của lực lượng lao động
nước ta qua từng năm (2010 - 2021)
3.56
2.95

3.1
2.74

2.74
2.39

2.52

2.3
1.88


2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

1.97
1.62

2017

2018

1.5

2019

2020

2021



Theo tổng cục thống kê (GOS) tỉ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động
nước ta đang có dấu hiệu tăng trở lại những năm gần đây. Để giải quyết nhu
cầu việc làm đó cần sự chung tay của nhiều bên, đặc biệt là các doanh nghiệp
tư nhân. Trái với tình trạng này, một báo cáo khác chỉ ra nhiều doanh nghiệp
tại Việt Nam lại rơi vào tình trạng thiếu hụt nhân sự trầm trọng, thường là ví trị
yêu cầu chuyển môn cao.
Để dễ dàng tiếp cận nguồn nhân lực đó, cụ thể là đối tượng sinh viên mới ra
trường chưa có kinh nghiệm thực tiễn, các doanh nghiệp tư nhân thường kết
hợp với trường để tổ chức những buổi hội chợ việc làm – job fair. Qua đó, các
doanh nghiệp có thể tiếp cận với người lao động một các dễ dàng hơn. Ngồi
ra để có thể thu hút các lao động có chun mơn thấp hơn thì doanh nghiệp cần
có chế độ đãi ngộ tốt… Cơng ty Cổ phần Sản xuất và Kinh doanh VinFast thành viên Tập đoàn Vingroup đã thực hiện các giải pháp trên để có nguồn lao
động nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất tăng cao của các dịng xe ơ tơ. Qua đó
giải quyết phần nào vấn đề việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động.
2.1.2 Nguyên nhân
2.1.2.1 Chất lượng sản phẩm
Để có được thành cơng vượt bậc và nhanh chóng của một tập đồn cịn non trẻ
như VinFast là dấu ấn của một sản phẩm chất lượng. Thay vì tự doanh nghiệp
đầu tư con người, tiền bạc để thiết kế lại một dây chuyền sản xuất xe hơi hồn
thiện thì VinFast đã hợp tác với các cơng ty hàng đầu thế giới trong lĩnh vực ô
tô như BMW, Pininfarina, Bosch... để đặt hàng tất cả các chi tiết từ những nhà
sản xuất đó và tổng hợp lại thành xe hồn chỉnh cho riêng mình. Việc mua lại
bản quyền một số chi tiết để phát triển xe mới là kiểu thường gặp trong ngành
bốn bánh. Những công ty giàu tiềm lực nhưng khơng có kinh nghiệm về cơng
nghệ sẽ đi tắt để tạo ra mẫu xe như các hãng khác. Các mẫu xe VinFast đều đạt
tiêu chuẩn cao về chất lượng nhờ nền tảng khung gầm và hệ thống động cơ
cơng nghệ Đức có độ hồn thiện cao, được sản xuất bởi hàng nghìn robot và
quy trình kiểm sốt nghiêm ngặt.



Các chính sách hậu mãi của VinFast cịn ưu việt hơn nhiều hãng khác đã có mặt
lâu đời tại Việt Nam. Những chính sách bảo hành như vậy nhằm tạo nhiềm tin
cho khách hàng, muốn khách hàng luôn được hài lịng với sản phẩm của mình.
2.1.2.2 Chính sachs kinh doanh đầy hấp dẫn
Mặc dù sản phẩm chất lượng vượt trội nhưng xe hơi của VinFast ln có giá
cạnh tranh đối với các sản phẩm cùng phân khúc. Để có được giá tốt như này,
doanh nghiệp chấp nhận lỗ để khách hàng có giá xe tốt nhất, cũng như ni
dưỡng thương hiệu ơtơ Việt đầu tiên. Về chính sách bán hàng, VinFast triển
khai các chương trình ưu đãi, kích cầu hấp dẫn như hỗ trợ 100% lệ phí trước
bạ, miễn lãi 2 năm đầu cho khách mua xe trả góp, đổi cũ lấy mới, hay áp dụng
voucher dành cho người mua nhà Vinhomes để mua xe VinFast. Qua đó,
VinFast cho thấy nỗ lực giúp nhiều người Việt dễ dàng sở hữu những mẫu xe
sang trọng, cao cấp với mức giá phù hợp.
2.1.2.3 Truyền thơng mạnh mẽ
Có lẽ truyền thơng là mảng khiến cả Việt Nam chú ý nhiều nhất tới Vinfast và
ít nhiều bất ngờ với độ “chịu chi”. Tại lễ ra mắt ở Paris Motor Show, VinFast
đã mời cựu danh thủ bóng đá người Anh David Beckham, Hoa hậu Việt Nam
2018 Trần Tiểu Vy, Á hậu Hoàn vũ Việt Nam 2017 Hoàng Thùy và người mẫu
Trần Quang Đại… và nhiều hãng truyền thông lớn trên thế giới.
VinFast sử dụng rất thành cơng chiến lược marketing tích hợp nghĩa là khơng
sử dụng đơn lẻ một công cụ mà sử dụng cùng một lúc rất nhiều công cụ tạo ra
sự cộnghưởng. Do đó có sức ảnh hưởng rất lớn. Các hoạt động của VinFast
không thực hiện rời rạc mà thực hiện rất mạch lạc, bài bản, trên mọi mặt trận.
Ngoài ra, VinFast tạo ra hình ảnh định vị là dịng xe cao cấp, hướng tới đối
tượng khách hàng cả nội và ngoại địa, nghĩa là phân khúc của họ là tầng lớp thu
nhập cao. Nên việc “rót tiền” vào hàng loạt những kênh truyền thông, đặc biệt
là mạng xã hội với các KOLs là chiến thuật sẽ giúp Vinfast định hướng dư luận
và tạo nhận diện của VinFast.



2.2 Những mặt hạn chế và nguyên nhân
2.2.1 Những mặt hạn chế
Thứ nhất, khu vực kinh tế tư nhân thiếu sự liên kết, khó tạo ra tiếng nói chung
để nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia đầy đủ vào chuỗi giá trị khu vực và
tồn cầu cịn nhiều hạn chế. Hiệu quả của khu vực kinh tế tư nhân cịn chưa
cao. “Hiện chỉ có khoảng 20% doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia một số
chuỗi giá trị toàn cầu, 14% thành công trong việc liên kết với đối tác nước
ngoài.”[1]. Sự thiếu liên kết giữa các chủ doanh nghiệp vừa làm tăng sự cạnh
tranh vừa giảm hiệu quả của sản phẩm, làm cho kinh tế trì trệ kém phát triển
vượt bậc để đưa nền kinh tế Việt Nam tiếp cận với các thị trường lớn trên thế
giới. “Từ năm 2011 đến nay, hệ số ICOR của kinh tế tư nhân giao động từ là
5-6, mức này cơ bản bằng với hệ số ICOR của toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên,
ICOR của kinh tế tư nhân so với khu vực có vốn FDI vẫn cao hơn, cho thấy
hiệu quả đầu tư của kinh tế tư nhân trong nước chưa bắt kịp với những doanh
nghiệp nước ngoài. Nguyên nhân là do khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu hoạt

động ở các lĩnh vực có giá trị gia tăng thấp và chưa tham gia sâu vào chuỗi
sản xuất giá trị tồn cầu (Hình 2).”
Thứ hai, trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp còn thấp. Các chủ doanh
nghiệp chưa được đào tạo bài bản đa số đều trưởng thành qua học hỏi, tích lũy,
qua bạn hàng “ước tính khoảng trên 80% trưởng thành từ kinh nghiệm thực tiễn
chỉ có một số được đào tạo qua trường lớp chính quy về quản trị doanh nghiệp


hay quản lý về kinh tế chung.”[3] Chính vì ít được qua trường lớp đào tạo bài bản
khơng có bằng cấp chuyên môn nên các chủ doanh nghiệp thường gặp khó khăn
trong việc cạnh tranh. Hơn nữa với đà phát triển hội nhập như hiện nay, với kiểu
kinh doanh bằng cảm tính, chộp giật thì khó có khả năng phát triển lâu dài, điều
đó đã được dẫn chứng bằng rất nhiều doanh nghiệp thất bại ở trên thương trường
và một số chuyên gia kinh tế đã đưa ra những quan điểm để chỉ ra nguyên nhân

thất bại “Chính tâm lý muốn tự mình làm chủ đã khiến các khởi nghiệp chưa
thực sự nghiên cứu thị trường một cách nghiêm túc và tồn diện. Ngồi ra, các
khởi nghiệp cịn nóng vội, muốn giàu nhanh, tư duy 'người khác làm được mình
cũng làm được' và xu hướng gia đình hóa các cơng ty đã vơ hình làm hạn chế
tầm nhìn phát triển sản phẩm của mình," bà Phạm Chi Lan phân tích”[4]. Đây
cũng là điều mà các chủ doanh nghiệp cần lưu ý đặc biệt là các startup để không
bị mắc phải.
Thứ ba năng lực cơng nghệ của các doanh nghiệp cịn lạc hậu, công nghệ ở nước
ta chưa được áp dụng triệt để vào khâu sản xuất, chế biến, vận chuyển,… Đây
cũng là yếu điểm mà nền kinh tế tư nhân ở nước ta đang mắc phải trong khi các
thị trường kinh tế của nước ngồi đã áp dụng cơng nghệ triệt để nhằm nâng cao
sự hiệu quả và giảm thiểu những tác động từ bên ngoài. “Đầu tư của doanh
nghiệp cho đổi mới công nghệ chỉ chiếm 0,3% doanh thu, thấp hơn nhiều so với
các nước như Ấn Độ (5%), Hàn Quốc (10%),…”[5] Công nghệ lạc hậu dẫn đến
năng suất lao động không cao, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường thấp, kể cả thị trường trong và ngoài nước, trong khi cạnh tranh là yếu tố
cơ bản để đảm bảo tồn tại và phát triển, là yếu tố sống còn của doanh nghiệp tư
nhân trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, trình độ lao động của các doanh nghiệp chủ yếu cịn thấp, thiếu nhân
lực giỏi, thường thì lao động không được đào tạo bài bản, kỹ năng thấp. “Tỷ lệ
lao động 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo đang làm việc trong nền kinh tế tăng
dần qua các năm nhưng đến năm 2011 tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ
mới đạt 15,4%; năm 2018 đạt 21,9%.  Như vậy, cả nước hiện có tới 42,4 triệu


lao động (chiếm 78,1% tổng số lao động) chưa được đào tạo để đạt trình độ
chun mơn kỹ thuật nào đó.” Do đó, doanh nghiệp khó tiếp thu được những
tiến bộ khoa học,  năng suất lao động khơng cao. Cịn đối với những nhân lực
giỏi thì học lại khơng mặn mà với những loại hình này do khơng đáp ứng được
những tham vọng của họ. Ngoài ra, doanh nghiệp tư nhân thiếu ổn định, tỷ lệ lao

động học việc chiếm tỷ lệ cao, vi phạm chế độ lao động trong việc trả lương,
đóng bảo hiểm xã hội, ngày giờ làm việc,… Bên cạnh đó, tình trạng thất nghiệp
ở nhóm lao động trẻ hoặc không phù hợp giữa công việc và trình độ đào tạo cịn
khá phổ biến. Một bộ phận lớn người lao động chưa được tập huấn về kỷ luật
lao động công nghiệp, người lao động thiếu các kiến thức và kỹ năng làm việc
theo nhóm, thiếu khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến.
“Theo TS. Nguyễn Bích Lâm, đây chính là rào cản lớn cho việc cải thiện NSLĐ.
Bên cạnh đó, già hóa dân số cũng là một vấn đề sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến
NSLĐ của Việt Nam trong tương lai.”[6]
Thứ năm, trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn nhiều
bất cập. Hạn chế không chỉ xảy ra đối với lao động phổ thông mà cịn diễn ra ở
cách quản lý và trình độ quản lý nhân cơng cịn nhiều điểm bất cập điển hình
như “Năng lực quản lý, quản trị doanh nghiệp cịn hạn chế, còn một số “điểm
nghẽn” về cải cách thể chế và thủ tục hành chính. Tỷ lệ đóng góp của năng suất
các nhân tố tổng hợp (TFP) cho tăng trưởng GDP của Việt Nam thời gian qua
còn ở mức thấp, giai đoạn 2001-2010 chỉ đạt 4,3%.
Trong giai đoạn 2011-2018, đóng góp của TFP được nâng lên nhưng vẫn ở
mức thấp là 37,7%, trong khi đóng góp của vốn và lao động là 62,3%. Tỷ lệ
đóng góp của TFP trong tăng trưởng GDP cho thấy trình độ phát triển khoa
học công nghệ, ý thức tổ chức và quản lý trong sản xuất kinh doanh của lao
động Việt Nam còn chưa đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại.”[7]
Cho thấy sự yếu kém về khâu quản lý ảnh hưởng đến nhiều mặt của việc kinh
doanh còn làm chậm tiến trình hội nhập nền kinh tế của nước ta. Tuy đã chỉ ra


được những hạn chế song giải pháp vẫn chưa thực tiễn để gỡ bỏ những khó khăn
của nền kinh tế nước ta.
Những điểm tồn tại, hạn chế này của khu vực kinh tế tư nhân trên có một phần
nguyên nhân xuất phát từ hạn chế, yếu kém của cơ chế, phương thức quản lý
nhà nước về kinh tế, đặc biệt quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế tư nhân.

Hệ thống cơ chế, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân còn nhiều bất cập,
thiếu đồng bộ, chưa sát thực tế; mơi trường đầu tư kinh doanh cịn nhiều hạn
chế, tiềm ẩn rủi ro, thiếu minh bạch.
2.2.2 Nguyên nhân
Mỗi đất nước đều có những điểm mạnh, điểm yếu, đặc thù riêng của từng nước.
Đối với nền kinh tế đang phát triển của nước ta thì gặp những hạn chế là điều
khơng thể tránh khỏi, nó vừa là thách thức vừa là cơ hội để nền kinh tế nước
nhà tự nghiệm lại những thành tựu đã đạt qua các năm sự phát triển về mọi mặt
GDP, công nghệ, mức sống,… Nhìn lại những thành tựu thì cịn có những hạn
chế, những điều chưa đạt được và nguyên nhân từ những điều sau khiến nền
kinh tế Việt Nam vẫn chưa phát triển vượt bậc.
Thứ nhất, máy móc, thiết bị và quy trình cơng nghệ cịn lạc hậu. Nước ta tuy đã
phát triển về nhiều mặt trong thời gian ngắn nhưng đó là do sức người, chứ
khơng phải do máy móc thiết bị, với nền kinh tế nước ta máy móc vẫn cịn thơ
sơ mới chỉ là cơng cụ trợ giúp con người một phần nào đó trong cuộc sống chứ
chưa hoàn toàn thay thế được con người và đa số các doanh nghiệp ở nước ta
vẫn chưa áp dụng công nghệ, thành tựu khoa học vào khâu sản xuất, chế biến,
vận chuyển,… “Phần lớn doanh nghiệp nước ta, đặc biệt là doanh nghiệp dân
doanh, trình độ khoa học cơng nghệ và đổi mới sáng tạo còn thấp, nhiều doanh
nghiệp đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, tụt hậu 2-3 thế hệ so với mức
trung bình của thế giới.
Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2018, Việt Nam được xếp hạng
chung là 77/140 quốc gia, trong khi các chỉ số cấu phần liên quan đến đổi mới
sáng tạo lại thấp hơn nhiều (Mức độ phức tạp của quy trình sản xuất xếp hạng


90; Tăng trưởng của các doanh nghiệp có đổi mới sáng tạo: 90; Kỹ năng số
hóa của dân số: 98; Kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp: 128; Chất lượng đào tạo
nghề: 115; Ứng dụng các sáng chế: 89).”[8]
Cho thấy Việt Nam cần tiếp tục kiến tạo môi trường thuận lợi cùng với các thể

chế, chính sách mới cho khu vực doanh nghiệp để thúc đẩy q trình nâng cao
cơng nghệ và sáng tạo. Đây được coi là một nội dung quan trọng của sự chuyển
đổi mơ hình tăng trưởng ở Việt Nam.
Thứ hai, doanh nghiệp tư nhân luôn ở trong tình trạng thiếu hụt nguồn vốn và
dịng tiền kinh doanh, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp ở quy mô vừa, nhỏ
và siêu nhỏ. Nguyên nhân sâu xa này dẫn tới sự phát triển và mở rộng mô hình
kinh doanh của doanh nghiệp, điều này cũng gián tiếp ảnh hưởng tới nền kinh
tế của nước ta. Vì đa số doanh nghiệp tư nhân ở nước ta ở quy mô vừa và nhỏ
chiếm phần lớn “Theo Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, cả nước
có khoảng 800.000 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhỏ và vừa (DN
SME) chiếm trên 98%.”[9] Vì là những doanh nghiệp nhỏ và vừa nên việc thiếu
hụt nguồn vốn, dòng tiền là điều dễ hiểu, nhà nước đã mở các gói chính sách hỗ
trợ tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập giữa nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân
“Doanh nghiệp cho biết khó tiếp cận gói chính sách hỗ trợ giảm lãi suất ngân
hàng và giãn thời gian cho vay; 44% doanh nghiệp được hỏi khơng tiếp cận
được gói hỗ trợ tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội và gần 40% doanh nghiệp cho
biết chưa đến được với chính sách gia hạn đóng thuế thu nhập doanh nghiệp
và thuế gia trị gia tăng,... Trong khi nguồn lực hỗ trợ từ Nhà nước ngặt nghèo
thì việc tự lực để tiếp cận nguồn tài chính ngân hàng cũng không thuận lợi và
dễ dàng.”[10]
Thứ ba, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở mức thấp. Cụ thể là “Tỉ lệ lao động
qua đào tạo năm 2021 đạt 71,2%, tăng thêm 1,2% so với năm 2020, tương ứng
có 566.120 lao động qua đào tạo của lực lượng lao động đang làm việc trong
các ngành kinh tế (ước tính năm 2021 là 795.100 người). Trong đó, lao động


qua đào tạo được cấp bằng, chứng chỉ đạt 21%, tăng thêm 1% so với năm
2020.”[11]
Cho tới hiện tại, tỷ lệ lao động có bằng của Việt Nam vẫn ở mức thấp và có
sự chênh lệch giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa lao động nam và lao

động nữ. “Tỷ lệ lao động động qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ đạt cao
nhất
ở vùng Đồng bằng sông Hồng (36,96%), tiếp đến là vùng vùng Đông Nam Bộ
(28,34%), vùng Trung du và miền núi phía Bắc (25,99%), vùng Bắc Trung bộ
và duyên hải miền Trung (25,75%); thấp nhất là 2 vùng Tây Nguyên (16,51%)
và vùng Đồng bằng sông Cửu Long (14,61).”[12]
Luôn là vấn đề cấp thiết qua từng năm tuy tỷ lệ lao động có bằng tăng qua từng
năm nhưng tốc độ không nhanh và đây là vấn đề cần phải giải quyết đối với
nước có nguồn nhân lực dồi dào như nước ta.
3. Phương hướng và giải pháp nhằm thúc đấy sự phát triển của thành
phần kinh tế tư nhân ở nước ta trong thời gian tới
3.1 Phương hướng nhằm thúc đấy sự phát triển của thành phần kinh tế tư
nhân ở nước ta trong thời gian tới
Để khắc phục các bất cập, Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng Đề
án “Đổi mới toàn diện quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt
Nam” với mục tiêu chính là đề xuất hệ thống giải pháp đổi mới toàn diện quản
lý nhà nước thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển trở thành một động lực
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Một là, Nhà nước cần tạo lập bằng được môi trường bảo đảm sự cạnh tranh thật
sự bình đẳng, lành mạnh, để kinh tế tư nhân phát huy được vai trị của mình,
chấm dứt tình trạng doanh nghiệp “thân hữu” có q nhiều ưu đãi.  Các “luật
chơi” phải được xác định rõ ràng, minh bạch, nghiêm túc. Cải cách doanh
nghiệp nhà nước được đẩy mạnh tạo dư địa, không gian và cơ hội kinh doanh
cho khu vực kinh tế tư nhân đầu tư nâng cao năng lực.


Hai là, về các giải pháp hỗ trợ cũng cần có tính tốn thay đổi cách thức. Theo
đó, cần tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, có sự
chuyển giao cơng nghệ tiên tiến, để các doanh nghiệp không cảm thấy “cô
đơn”, nhưng cũng cân nhắc hạn chế hỗ trợ dàn trải, cho số đông những doanh

nghiệp chỉ có các sản phẩm thơng thường khơng mang lại nhiều lợi ích, giá trị
gia tăng mới cho cộng đồng, tập trung vào các nhóm giải pháp hỗ trợ cộng
đồng doanh nghiệp trụ vững, phục hồi và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển... Đảng
đã nhận thức sâu sắc rằng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư
nhân phát triển cũng chính là tạo điều kiện để giải phóng các nguồn lực phát
triển trong xã hội, để nền kinh tế thị trường phát huy tối đa các tiềm năng to lớn
của nó. Luận điểm này là nguồn cổ vũ tinh thần khởi nghiệp, đổi mới và sáng
tạo, tạo sức sống và đột phá phát triển mạnh mẽ đất nước ta trong giai đoạn
mới.Việc xây dựng mạng lưới đổi mới sáng tạo cũng vô cùng quan trọng, trong
đó Bộ Kế hoạch và Đầu tư là một đầu mối tích cực, với việc đưa vào vận hành
Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) tập hợp được nhiều người tài, tâm
huyết, kết nối để đưa công nghệ mới về hỗ trợ phát triển.
Trong đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tại Đại hội IX, Với
kinh tế tư bản tư nhân, quan điểm của Đảng ta là : “Khuyến khích phát triển
kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh
mà pháp luật không cấm. Tạo mơi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách,
pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của
Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngồi; khuyến khích chuyển thành doanh
nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kết với nhau,
với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh
nghiệp và người lao động.
Cần xác định đúng vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, thúc đẩy
tham gia doanh nghiệp trong đầu tư, cung cấp dịch vụ hành chính cơng, giảm
can thiệp hành chính sâu vào quản trị nội bộ doanh nghiệp.


Ba là, chính sách tập trung vào hồn thiện mơi trường thể chế, chính sách, mơi
trường tâm lý xã hội trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Với nhận thức rõ ràng là: để kinh tế tư nhân phát triển thì điều
quan trọng mấu chốt là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, Đảng đã đề ra các

định hướng cơ bản hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN,
trong đó nhấn mạnh về hoàn thiện thể chế sở hữu, phát triển các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất - kinh doanh, hoàn
thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các
loại thị trường. Hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách để doanh nghiệp tư
nhân tiếp cận bình đẳng mọi cơ hội, các nguồn lực, nhất là về vốn, đất đai, tài
nguyên. Cần thực hiện đúng, đầy đủ, chất lượng, hiệu quả vai trò của Nhà nước
trong định hướng, quy hoạch và điều tiết kinh tế. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả
thực thi chính sách, pháp luật pháp luật nhằm tạo lập môi trường kinh doanh
thuận lợi thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển, nâng cao năng lực sản xuất kinh
doanh, đổi mới sáng tạo.  
Bốn là, định hướng phát triển cho khu vực kinh tế tư nhân, trong khi khẳng
định kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng lâu dài trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước cũng khuyến khích
các doanh nghiệp tư nhân chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, các tập đoàn
kinh tế lớn, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kết với nhau, với
kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước, trở thành kinh tế tư bản nhà nước. Với các
hộ cá thể, tiểu chủ, Nhà nước tạo điều kiện, hỗ trợ để phát triển lên quy mơ lớn
hơn hoặc liên kết hình thành các tổ hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho doanh
nghiệp. Định hướng này phù hợp với xu thế xã hội hóa lực lượng sản xuất và
cũng cho thấy sự thống nhất trong quan điểm, nhận thức của Đảng về sự cần
thiết tồn tại cũng như xu thế phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
Năm là, về phân bổ nguồn lực, cần tập trung nâng cao chất lượng, hỗ trợ doanh
nghiệp trên nguyên tắc thị trường, cạnh tranh, bình đẳng, thúc đẩy hình thành


chuỗi giá trị, liên kết. Ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp
nhỏ và vừa Việt Nam cho rằng, yếu tố dẫn dắt là quan trọng. Trong đó, hiện
Việt Nam cũng có doanh nghiệp tư nhân quy mơ lớn, có tiền nhưng dẫn dắt

được các doanh nghiệp nhỏ khơng là chuyện khác. Hơn nữa, ông Nguyễn Văn
Thân đánh giá cao khâu thực thi. Quản lý nhà nước phải có tư duy mới và chính
sách có hay đến mấy, đề án có tốt đến mấy mà thực hiện khơng tốt thì cũng
chẳng ý nghĩa.
3.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đấy sự phát triển của thành phần
kinh tế tư nhân ở nước ta trong thời gian tới
Sau khi các chuyên gia, đại diện Hiệp hội DN trao đổi, đóng góp ý kiến, lãnh
đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư nêu 5 nhóm giải pháp trọng tâm để đổi mới toàn
diện quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế tư nhân.
Theo đó, trước tiên, cần thực hiện đúng, đầy đủ, chất lượng, hiệu quả vai trò
của Nhà nước trong định hướng, quy hoạch và điều tiết kinh tế. Cùng với
khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển, cần phải đẩy mạnh việc đổi mới, sắp
xếp, củng cố và phát triển kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác và hợp tác xã, để
kinh tế nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Cần tăng cường hơn nữa sự
quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân, để phát huy vai trị tích cực, ngăn
ngừa có hiệu quả những động thái tiêu cực của kinh tế tư nhân; nhằm làm cho
sự phát triển kinh tế tư nhân thực sự là một nhân tố làm tăng sức mạnh toàn dân
bảo vệ Tổ quốc. 
Xóa bỏ những định kiến về thành phần kinh tế nói chung, về KTTN nói riêng
phải trở thành khâu đột phá trong nhận thức và cơ sở pháp lý cho sự phát triển
KTTN tương lai, làm tốt hơn công tác tư tưởng, thống nhất nhận thức về vai trò
của kinh tế tư nhân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nâng cao
nhận thức, hiểu đúng chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân của
Đảng là vấn đề chiến lược, nhất quán, lâu dài trong phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là sự vận dụng đúng đắn quy luật về sự phù


×