Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Luận văn Doanh nghiệp Nhà nước sau CPH ở Bộ Giao thông vận tải - Thực trạng và giải pháp phát triển doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 107 trang )





1





Luận văn
Doanh nghiệp Nhà nước sau CPH ở
Bộ Giao thông vận tải - Thực trạng
và giải pháp phát triển




2

Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đổi mới doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một nội dung quan trọng
trong công cuộc đổi mới, cải cách kinh tế ở nước ta, trong đó cổ phần hóa
(CPH) DNNN là một nội dung trọng tâm. Từ năm 1992 đến nay, nước ta đã
CPH được gần 4.000 DNNN. Có thể thấy, quá trình CPH đã đem lại nhiều kết
quả khả quan cho DNNN cũng như cho nền kinh tế. Tuy nhiên, quá trình
CPH và hoạt động của DNNN sau CPH cũng đặt ra cho nền kinh tế và cơ chế
quản lý kinh tế nhiều vấn đề cần tháo gỡ. Một mặt, bản thân quá trình CPH
với sự thay đổi liên tục chính sách của Nhà nước đã làm cho DNNN sau CPH
không hoạt động trên nền tảng như nhau. Mặt khác, do môi trường CPH chưa


thuận lợi, do nền kinh tế thị trường ở nước ta chưa phát triển, … nên điều kiện
hoạt động của Công ty cổ phần (CTCP) còn khó khăn. Những vấn đề đó tác
động dai dẳng đến hoạt động của DNNN sau CPH, làm cho nhiều kỳ vọng
của các cơ quan nhà nước và người dân vào các DNNN sau CPH không trở
thành hiện thực. Mặt khác, một số DNNN sau CPH bắt đầu gặp khó khăn từ
nhiều phía như môi trường hoạt động thay đổi, DN không kịp thích ứng, cán
bộ quản lý của DN vẫn hành động theo phương thức cũ, cổ đông thiếu khả
năng tham gia quản lý DN, nhà nước chưa chuẩn bị đầy đủ để quản lý loại
hình DN mới…
Ngoài ra, một số DNNN sau CPH vẫn duy trì phần vốn khống chế của
nhà nước nên trên thực tế nhà nước vẫn có quyền kiểm soát các DN này như
trước kia, trong khi đó mô hình hoạt động và địa vị pháp lý của DN đã thay
đổi. Cách quản lý đó không chỉ gây bức xúc cho các cổ đông thiểu số trong
CTCP do nhà nước khống chế, mà còn gây lúng túng cho bản thân giới quản
lý DN và cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý DN đó.




3

Bộ Giao thông vận tải (GTVT) là cơ quan nhà nước chủ quản của nhiều
DNNN. Trong quá trình đổi mới, nhất là trong quá trình tái cơ cấu DNNN, Bộ
GTVT đã tiến hành CPH nhiều DN trực thuộc. Sau CPH, không những nhiều
DNNN đã CPH thuộc Bộ lúng túng trong hoạt động, mà bản thân nhiều bộ
phận quản lý của Bộ được giao chức năng kiểm soát DNNN sau CPH cũng
lúng túng.
Để tạo điều kiện cho DNNN sau CPH hoạt động tốt hơn, tạo niềm tin
và động lực đẩy nhanh quá trình CPH, để tìm kiếm các phương thức quản lý
DNNN sau CPH hiệu quả, cần phải tiến hành nghiên cứu thấu đáo hiện trạng

hoạt động và cơ chế quản lý của các DNNN sau CPH, trong đó có nhiều DN
thuộc Bộ GTVT. Đó chính là lý do mà đề tài “ Doanh nghiệp Nhà nước sau
CPH ở Bộ Giao thông vận tải - Thực trạng và giải pháp phát triển “ được
chọn nghiên cứu trong luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
CPH DNNN và đổi mới cơ chế quản lý DNNN đã được nhiều tác giả và
công trình quan tâm nghiên cứu trong những năm gần đây. Có thể phân loại
các nghiên cứu về lĩnh vực này theo các nhóm sau:
Nhóm thứ nhất nghiên cứu tổ chức sắp xếp lại DNNN, trong đó có
CPH, dưới khía cạnh giải pháp tái cơ cấu các DNNN ở các quốc gia khác
nhau, nhất là ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi, coi đó như giải pháp
chuyển các cơ sở sản xuất của Nhà nước cho tư nhân. Điển hình cho nhóm tác
giả này là các nhà kinh tế ở Châu Âu, một số nhà kinh tế làm việc trong các tổ
chức kinh tế quốc tế. Nội dung nghiên cứu của nhóm này là quá trình chuyển
đổi của nền kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, trong đó có quá trình
giải thể của các DNNN và tái cơ cấu lại chúng theo các giải pháp sốc, lấy
CPH toàn dân (nước Nga), hay tư nhân hoá sở hữu nhà nước làm trọng tâm.
Những công trình nghiên cứu tiêu biểu là “Chuyển đổi các doanh nghiệp nhà




4

nước” của các tác giả Barry Spicer, David Emanuel, Michael Powel; “Cải
cách doanh nghiệp thế giới” bài viết trên tạp chí Tài chính số 12 – 1997 của
tác giả Đào Trọng Thanh
Nhóm thứ hai là các nhà kinh tế của Việt Nam và Trung Quốc, họ
nghiên cứu CPH và đổi mới DNNN dưới giác độ cải cách đổi mới để làm cho
các DN này hoạt động tốt hơn, tạo thể chế để Nhà nước kiểm soát DN có hiệu

quả và phù hợp với kinh tế thị trường. Điển hình của nhóm này là sách: “Cải
cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung quốc so sánh với Việt Nam” do viện kinh
tế thế giới thuộc Viện khoa học xã hội nhân văn Việt Nam biên soạn. “Nhìn lại
bốn năm CPH DNNN” bài viết của tác giả Hoàng Công Thi trên tạp chí tài
chính số 12 – 1997; “Kinh nghiệm thí điểm chế độ CPH ở Trung Quốc” sách
do Viện kinh tế thuộc Viện Khoa học xã hội nhân văn Việt Nam biên soạn
Nhóm thứ ba chủ yếu là các nhà kinh tế Việt Nam đi sâu nghiên cứu
và mổ xẻ các vấn đề gặp phải trong quá trình thực hiện CPH DNNN ở Việt
Nam. Điển hình cho hướng nghiên cứu này là luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị
Thơm về đề tài “CPH doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam – Thực trạng và
giải pháp”; luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Hội về đề tài “CPH doanh nghiệp
nhà nước thuộc Bộ Giao thông vận tải”.
Gần đây, đã có một số nhà nghiên cứu lưu tâm xem xét các vấn đề đặt
ra đối với DNNN sau CPH như Hội thảo về hậu CPH vào tháng 8 -2004 do
Viện Quản lý kinh tế Trung ương tổ chức
Riêng chủ đề “Doanh nghiệp nhà nước sau CPH ở Bộ Giao thông
vận tải - Thực trạng và giải pháp phát triển” chưa được đề cập một cách hệ
thống trong công trình khoa học nào.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn




5

Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích thực trạng hoạt động của
DNNN sau CPH ở Bộ GTVT để đề xuất các giải pháp phát triển chúng trong
tương lai.
Phù hợp với mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về phát triển DNNN sau CPH trong

nền kinh tế thị trường.
- Tổng thuật kinh nghiệm phát triển DNNN sau CPH ở một số nước
trên thế giới.
- Phân tích thực trạng hoạt động của DNNN sau CPH ở Bộ GTVT.
- Đề xuất phương hướng, và một số giải pháp phát triển các DNNN sau
CPH ở Bộ GTVT trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
DNNN sau CPH ở Bộ GTVT được khảo sát trong luận văn là các DNNN
sau CPH có vốn nhà nước lớn hơn hoặc bằng 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Thời gian khảo sát hoạt động của các DN này giới hạn từ năm 2000 đến nay.
Tuy nhiên, do DNNN sau CPH ở Bộ Giao thông vận tải chịu ảnh hưởng sâu sắc
của quá trình CPH và quá trình đổi mới DNNN nên trong từng vấn đề cụ thể, các
phân tích và dữ liệu có thể lấy ở từng khoảng thời gian xa hơn.
5. Phương pháp nghiên cứu trong luận văn
Trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
và lập trường của Đảng và Nhà nước ta, luận văn sử dụng chủ yếu phương
pháp quy nạp từ các luận điểm lý thuyết và bằng chứng thực tế để phân tích
có phê phán các vấn đề đặt ra trong luận văn.
Trong các phân tích cụ thể, luận văn dựa vào số liệu thống kê, số liệu
của các công trình, báo cáo đã có.
Trong điều kiện có thể, luận văn sẽ dựa trên số liệu điều tra ở quy mô
nhỏ và phỏng vấn riêng.
6. Những đóng góp của luận văn




6

- Luận văn đã góp phần hệ thống hoá cơ sở lý thuyết về phát triển

DNNN sau CPH trong nền KTTT.
- Đưa ra và phân tích bức tranh toàn cảnh về DNNN sau CPH ở Bộ GTVT.
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp phát triển DNNN sau CPH ở
Bộ GTVT.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.




7

Chương 1
Một số vấn đề lý luận về phát triển
doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá ở Việt nam

1.1. khái niệm, đặc điểm, vai trò doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến doanh nghiệp nhà nước sau
cổ phần hoá
1.1.1.1. Doanh nghiệp nhà nước
DNNN là các tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc giữ
phần vốn khống chế. ở các nước, DNNN, một mặt, được thành lập và tổ chức
quản lý theo Luật Doanh nghiệp, mặt khác, chịu sự kiểm soát của cơ quan đầu
tư và kinh doanh vốn nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước giao.
Do chủ sở hữu DNNN là Nhà nước, nên so với các DN khác, DNNN có
những đặc trưng cơ bản sau:
- Là một pháp nhân do nhà nước đầu tư vốn và tổ chức quản lý. Nói
cách khác, quyền kiểm soát DN thuộc về Nhà nước. Về nguyên tắc, tài chính
DNNN tách biệt với tài chính nhà nước, nhưng Nhà nước có thể hỗ trợ

DNNN bằng nhiều cách như tăng vốn, để lại lợi nhuận cho DNNN. Do đó, dù
hoạt động theo nguyên tắc thương mại bình thường, DNNN vẫn được hưởng
ưu đãi từ Nhà nước nhiều hơn các DN khác.
- DNNN có nghĩa vụ thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước giao. Rất
nhiều khi nhiệm vụ đó không thuần tuý là nhiệm vụ kinh doanh. Ví dụ như
DNNN được Nhà nước sử dụng như là một trong những công cụ kinh tế, lực
lượng vật chất để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế, là một trong những
phương tiện để Nhà nước thực hiện các chương trình, kế hoạch, chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), là mô hình tổ chức quản lý kinh tế theo
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng DNNN




8

để phát triển các lĩnh vực công cộng, cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội, bảo vệ
môi trường…, là những khu vực cần thiết cho nền kinh tế, nhưng khả năng
sinh lời thấp, thời gian thu hồi vốn lâu, không hấp dẫn các nhà đầu tư tư nhân.
Do các DNNN có đặc điểm riêng như vậy, nên nhiều DNNN sau khi
CPH vẫn chưa rũ bỏ được các đặc điểm khi còn là DNNN. Vì thế, phát triển
các DNNN sau CPH mang nhiều nét khác biệt so với các CTCP khác.
1.1.1.2. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
a. Khái niệm công ty cổ phần
Khái niệm CTCP được qui định trong Luật Doanh nghiệp như sau:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân. Số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và
không hạn chế tối đa.
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của DN trong phạm vi vốn góp vào DN.

- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác (trừ trường hợp cổ đông sáng lập hoặc cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi
khi chuyển nhượng phải kèm theo những điều kiện nhất định).
Như vậy, CTCP là loại hình DN dựa trên chế độ sở hữu hỗn hợp, trong
đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia sẻ lợi nhuận, cùng chịu lỗ, cùng
tham gia quản lý tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn
về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp của mình vào công ty.
Với đặc điểm trên, CTCP có rất nhiều lợi thế về việc huy động vốn của
các thành viên là cổ đông của công ty. CTCP có thời gian tồn tại là vô hạn,
không phụ thuộc vào cuộc sống cá nhân của các cổ đông. Các cổ phiếu có thể
được tự do mua bán trên thị trường chứng khoán và được quyền thừa kế.
Trong CTCP, quyền sở hữu tách rời khỏi quyền quản lý và gắn kết trở
lại thông qua cơ chế đại diện khá phức tạp là Đại hội cổ đông, Hội đồng quản




9

trị và Ban kiểm soát. Người quản lý không nhất thiết phải là người sở hữu
công ty. Điều này cho phép công ty sử dụng các nhà quản lý chuyên nghiệp
để điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, CTCP cũng mang trong mình nó một số nhược điểm. Đó là
hiện tượng thao túng của cổ đông đa số, là hiện tượng giới quản lý lợi dụng
quyền hạn để tư lợi riêng, là khả năng kiểm soát tương đối yếu của chủ sở hữu
nếu không tham gia bộ máy quản lý, là cơ chế quản lý khá cồng kềnh Mặc
dù CTCP dựa trên sở hữu hỗn hợp, nhưng trên thực tế, quyền kiểm soát vẫn
thuộc về một hoặc một nhóm nhỏ cổ đông nắm phần vốn chi phối trong công
ty. Do đó, để hỗ trợ cổ đông, nhất là cổ đông thiểu số, Nhà nước, thông qua
luật pháp và các cơ quan giám sát thi hành luật pháp, phải chế định chặt chẽ

hoạt động của CTCP.
CTCP được hình thành bằng các con đường sau:
- CTCP được thành lập mới ngay từ đầu. Việc thành lập mới này có thể
do một số cổ đông sáng lập đưa ra ý tưởng và kêu gọi mọi người cùng góp
vốn để kinh doanh.
- CTCP được thành lập trên cơ sở chuyển đổi từ một số loại hình DN
khác như DN tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH), DNNN, DN
liên doanh
b. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
CPH DN nói chung được hiểu là quá trình chuyển đổi hình thức tổ
chức của DN từ chỗ không phải là CTCP sang hoạt động theo hình thức
CTCP. Do việc thay đổi hình thức pháp lý của tổ chức sản xuất kinh doanh
như vậy, nên cơ cấu tổ chức của CTCP và sự chế định của pháp luật đối với
DN sau CPH cũng có sự thay đổi.
CPH DNNN ở nước ta thực chất là chuyển đổi hình thức sản xuất kinh
doanh của DNNN từ mô hình 100% vốn nhà nước, hoạt động theo Luật
DNNN sang mô hình CTCP đa sở hữu hoạt động theo Luật DN. Sau CPH




10
Nhà nước có thể tham gia sở hữu trong CTCP dưới nhiều hình thức như cổ
đông khống chế, cổ đông thiểu số.
Một nội dung quan trọng của CPH DNNN là chuyển một phần sở hữu
của Nhà nước trong DNNN cho tư nhân. " Về hình thức, CPH là việc nhà
nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong xí nghiệp cho
các đối tượng là tổ chức hoặc cá nhân trong và ngoài nước, hoặc cho các cán
bộ quản lý và công nhân của xí nghiệp bằng hình thức đấu giá công khai hay
thông qua thị trường chứng khoán để hình thành các CT TNHH hoặc CTCP"

[24, tr 84]. Tuy nhiên, khía cạnh chuyển đổi sở hữu thường không được
những người chủ trương CPH ở nước ta coi trọng bằng chuyển đổi mô hình tổ
chức sản xuất kinh doanh.
Dưới giác độ chuyển đổi mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh, CPH
DNNN ở nước ta có những đặc điểm sau:
- Về mục đích, CPH DNNN ở nước ta là một hình thức tái cơ cấu
DNNN theo hướng phù hợp với kinh tế thị trường, nâng cao hiệu quả kinh
doanh của chúng và phù hợp với yêu cầu của quá trình hội nhập vào nền kinh
tế thế giới.
- Về sở hữu, CPH chuyển một phần năng lực sản xuất không thích hợp
với chế độ sở hữu Nhà nước sang sở hữu tư nhân nhằm cải thiện hiệu quả sử
dụng chúng.
- Chương trình CPH không chỉ nhằm mục đích cơ cấu lại hệ thống
DNNN mà còn nhằm tạo ra một hệ thống DNNN sau CPH hoạt động hiệu quả
bằng cách tự do hoá việc tham gia sở hữu, chuẩn mực hoá quản lý công ty,
với quyền chủ động của giới quản lý DN cao hơn, thu hút người lao động mua
cổ phiếu để trở thành cổ đông…
1.1.1.3. Doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá




11
DNNN sau CPH là một thuật ngữ phát sinh trong quá trình CPH
DNNN ở Việt Nam dùng để chỉ các CTCP là kết quả của quá trình CPH
DNNN. Đây là một dạng DN đặc biệt xét trên các khía cạnh:
+ Về hình thức là CTCP mới được thành lập và đăng ký lại, nhưng hoạt
động sản xuất kinh doanh của DN đã hình thành từ lâu và DN mới kế thừa cả
thành quả lẫn nợ nần, yếu kém của DNNN cũ;
+ Về địa vị pháp lý, DNNN sau CPH hoạt động theo Luật DN, nhưng

tuỳ thuộc vào sự kiểm soát nhiều hay ít của Nhà nước, DN này còn chịu sự
chế định của Luật DNNN;
+ Các cổ đông của DNNN sau CPH chủ yếu là người lao động, cơ quan
nhà nước và một phần nhỏ là đối tác và cổ đông tự do. Đa phần các cổ đông
của DNNN sau CPH chưa có kinh nghiệm quản lý CTCP.
+ DNNN sau CPH gồm nhiều loại đa dạng: có DN Nhà nước giữ cổ
phần khống chế (CTCP nhà nước); có DN Nhà nước không nắm phần vốn
khống chế nhưng lượng vốn của Nhà nước còn khá lớn và Nhà nước còn có
ảnh hưởng đến quản trị DN thông qua đại diện của mình; có DN Nhà nước
chỉ giữ cổ phần không đáng kể; có DN nhà nước hoàn toàn không có cổ phần.
Hơn nữa, ngay trong các CTCP Nhà nước còn giữ phần cổ phần lớn cũng
gồm hai loại: Loại Nhà nước cần giữ cổ phần khống chế để nắm quyền kiểm
soát DN do vai trò quan trọng của nó; loại Nhà nước còn giữ cổ phần lớn là
do không bán được cổ phần….
Với các loại DNNN sau CPH khác nhau thì chế độ chính sách của Nhà
nước nhằm phát triển chúng cũng khác nhau.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá
1.1.2.1. Doanh nghiệp phải chuyển sang hoạt động theo mô hình
công ty cổ phần




12
Thời điểm CPH thành công là DNNN được chính thức thừa nhận đã
hoàn thành thủ tục CPH và bắt đầu tiến hành đăng ký kinh doanh theo hình
thức CTCP. Về mặt pháp lý, DNNN sau CPH có đủ điều kiện để vận hành
theo mô hình mới. Tuy nhiên, trong thực tế, có rất nhiều vấn đề về tổ chức
trong DN còn phải tiếp tục hoàn thiện. Chẳng hạn như vấn đề vận hành của
Đại hội cổ đông. Do chính sách CPH của Nhà nước ta ưu tiên người lao động

trong DN được mua cổ phiếu theo chế độ ưu đãi, nên về mặt hình thức, hầu
hết người lao động của DNNN cũ đều trở thành cổ đông. Tuy nhiên, trên thực
tế, nhiều người lao động không có tiền mua cổ phiếu nên đã sang nhượng
quyền mua cổ phiếu cho người khác, kể cả người ngoài DN, một cách không
chính thức nên vấn đề quản lý cổ đông rất phức tạp. Nhiều CTCP không đại
hội được cổ đông vì một số cá nhân ngoài DN thu gom cổ phiếu, trở thành cổ
đông đa số một cách không chính thức và lũng loạn Đại hội cổ đông mà Hội
đồng quản trị được hình thành trong quá trình CPH không có khả năng ổn
định và kiểm soát tình hình. Hoặc một số cán bộ quản lý DNNN cũ, bằng các
con đường không chính thức, cũng thu gom cổ phiếu để lũng đoạn DN mới.
Thậm chí, một số cán bộ quản lý CTCP mới muốn giữ quyền kiểm soát DN
đã vi phạm quyền của cổ đông… Ngay cả phương thức vận hành của bộ máy
quản trị mới cũng không phải luôn suôn sẻ sau CPH. Có hiện tượng một số
cán bộ đại diện cho cổ phần Nhà nước muốn duy trì cung cách quản trị và sự
chi phối của cơ quan nhà nước đối với DNNN sau CPH như là DNNN trước
kia. Nhiều cán bộ đã làm được điều này vì họ đại diện cho phần vốn khống
chế và giữ các chức vụ quan trọng trong Hội đồng quản trị và Ban giám đốc
điều hành. Cung cách quản lý như vậy cản trở DNNN sau CPH phát huy lợi
thế của mô hình CTCP. Có những DNNN sau CPH lại vấp phải vấn đề cán bộ
quản lý chủ chốt của DN tìm cách thao túng DN gây lộn xộn và bất bình trong
cổ đông …




13
Bản thân các cổ đông là người lao động cũng không có kinh nghiệm, tri
thức và nhu cầu tham gia quản lý DN, nên nếu bộ máy quản lý mới của CTCP
không có năng lực và không công tâm thì CTCP mới sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
1.1.2.2. Kế thừa nhiều di sản của doanh nghiệp nhà nước cũ

Sau nhiều năm hoạt động dưới sự đầu tư và quản lý trực tiếp của các cơ
quan nhà nước, các DNNN sau CPH kế thừa nhiều di sản của DNNN mà chưa
thể thay đổi trong một thời gian ngắn, cụ thể là:
+ Tài sản trong các DNNN sau CPH có quy mô và cơ cấu không hợp
lý. Đa phần tài sản đã cũ, ngoài số đã bàn giao về cho tổ chức quản lý tài sản
của Nhà nước, số tài sản còn lại đều lạc hậu và không đồng bộ, đòi hỏi các
DNNN sau CPH phải cơ cấu lại.
+ DNNN sau CPH có thế mạnh là mặt bằng sản xuất, kinh doanh
thường rộng rãi, thuận lợi hơn các DN tư nhân và DN có vốn đầu tư nước
ngoài. Lợi thế này thường không nằm trong giá trị của DNNN khi CPH nên
có thể coi đây là “của hồi môn” có giá trị của DNNN sau CPH. Nếu DN nào
biết cách sử dụng ưu thế này thì khả năng phát triển sẽ thuận lợi.
+ Nhiều DNNN sau CPH còn phải gánh những món nợ của DNNN cũ
hoặc chịu chi phí cho các dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị trước kia đầu
tư không hợp lý. Giải quyết được hết các tồn đọng này cũng là một thách thức
đối với DNNN sau CPH.
+ Lực lượng lao động trong DNNN sau CPH vẫn chủ yếu là lực lượng
lao động của DNNN cũ, ngoại trừ số được giải quyết trước CPH. Số người bổ
sung mới vào CTCP thường không nhiều, chủ yếu ưu tiên cho các cương vị
quản lý và kỹ thuật quan trọng. Do đa phần là người lao động cũ, nên việc
thay đổi thói quen và kỷ luật lao động đối với họ là rất khó khăn. Họ thường
giữ cách tư duy cũ, phong cách làm việc cũ, quen dựa vào chế độ và ưu đãi
của Nhà nước. Hơn nữa, pháp luật về lao động hiện tại chưa cho phép DNNN




14
sau CPH có thể sa thải dễ dàng người lao động của công ty. Chính sức ỳ này
làm cho CTCP mới khó hoạt động năng động và hiệu quả như mong đợi.

+ Nhiều DNNN sau CPH vẫn duy trì đội ngũ cán bộ quản trị DNNN
cũ. Số cán bộ này, một mặt, rất khó thay đổi cung cách quản lý phù hợp với
mô hình mới; mặt khác, tìm mọi cách, kể cả các thủ đoạn làm giảm hiệu quả
hoạt động của CTCP, để duy trì địa vị của mình. Tình thế đó cản trở hoạt
động tích cực của CTCP mới.
+ Các cơ quan quản lý nhà nước cấp trên của DNNN trước kia vẫn
muốn gây ảnh hưởng tới các DNNN sau CPH. Tuy giờ đây họ không được
can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của DN như trước, nhưng thông
qua vai trò đại diện phần vốn nhà nước tại DN, họ vẫn tìm cách chi phối DN.
Vì vậy, nhiều qui định cụ thể và cách thức quản lý của Nhà nước chưa theo
kịp với sự thay đổi của DNNN sau CPH.
+ Một số DNNN sau CPH chưa quen với cơ chế tự chủ rộng rãi, bỡ ngỡ
khi không có cơ quan cấp trên chỉ bảo, không tiếp cận được thông tin của cấp
trên và lúng túng trong tự vạch phương hướng hành động hiệu quả.
1.1.2.3. Doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá phải hoạt động
theo nguyên tắc thương mại bình thường, không được Nhà nước bao cấp
như cũ
+ Ngay sau khi hoàn thành CPH, DNNN chuyển sang hoạt động theo
sự chế định pháp lý đối với CTCP. Nói cách khác, dù giới quản lý DN và cơ
quan nhà nước có còn giữ cung cách cũ, thì về nguyên tắc, mọi vấn đề của
DN đều phải được quyết định theo cơ cấu: Đại hội cổ đông- Hội đồng quản
trị- Ban kiểm soát và Ban giám đốc điều hành. Các cổ đông là tư nhân có
quyền khiếu kiện nếu bộ máy điều hành CTCP không tuân thủ pháp luật và
Điều lệ của công ty. Mặt khác, Nhà nước muốn quyết định các vấn đề quan
trọng của công ty phải thông qua cơ chế quyết định của Đại hội cổ đông. Các




15

vấn đề về để lại lợi nhuận, đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, phát hành cổ
phiếu tăng vốn… đều do Đại hội cổ đông hoặc Đại hội cổ đông uỷ quyền cho
Hội đồng quản trị quyết định. Nói cách khác, Nhà nước không còn quyền đơn
phương tự mình quyết định phương hướng và hành động của DN như trước
kia.
- CTCP có quyền phát hành cổ phiếu ra thị trường theo qui định của
pháp luật và thị trường chứng khoán (TTCK). Vốn của DN không còn phụ
thuộc vào nguồn vốn Nhà nước cấp như trước. Hơn nữa, qua các đợt phát
hành cổ phiếu, cổ phần của Nhà nước có thể giảm một cách tương đối.
- Mối quan hệ của DNNN sau CPH với các đối tác khác, kể cả với DN
100% vốn nhà nước, là quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ bình đẳng theo
pháp luật. Sau CPH, CTCP không thuộc diện được vay tín chấp, không thuộc
lĩnh vực riêng của Nhà nước, không có cơ quan chủ quản đỡ đầu trong việc
xin vốn đầu tư, xin dự án hoặc che đỡ trong quan hệ với cơ quan thuế, hải
quan… Chính vì thế, sau CPH, nhiều DN cảm thấy bị thiệt thòi, bị bỏ rơi, bị
phân biệt đối xử …
- DNNN sau CPH hoàn toàn tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động
sản xuất kinh doanh. Các vấn đề lỗ, lãi được DN xử lý với tư cách một pháp
nhân độc lập, trong đó Nhà nước chỉ có quyền ứng xử như một cổ đông.
1.2.1.4. Cổ đông nhà nước
Trong các DNNN sau CPH Nhà nước là cổ đông như mọi cổ đông
khác. Việc Nhà nước quyết định mình tham gia với tư cách nào (là cổ đông
thông thường, cổ đông chi phối hoặc không giữ lại vốn của mình trong DN)
tuỳ thuộc vào đặc điểm của DN và mục tiêu mà Nhà nước đặt ra đối với DN.
Có thể, trong giai đoạn đầu khi CTCP khó bán cổ phiếu cho tư nhân, Nhà
nước sẽ trở thành cổ đông chi phối một cách bất đắc dĩ. Khi CTCP hoạt động





16
tốt, Nhà nước, nếu xét thấy không cần thiết tham gia quá nhiều vào vốn của
CTCP, có thể bán bớt cổ phiếu của mình trên TTCK. Cũng có DN Nhà nước
giữ vị trí cổ đông chi phối lâu dài nhằm kiểm soát lĩnh vực do DN nắm giữ
Nói cách khác, trong quá trình phát triển của DNNN sau CPH, địa vị của Nhà
nước có thể thay đổi.
Đối với các DNNN sau CPH mà Nhà nước là cổ đông chi phối thì cơ
chế quản lý và điều hành DN ít có động lực thay đổi. Hơn nữa, hiện tại, chính
sách và cơ chế quản lý của Nhà nước đối với loại hình DN này chưa rõ ràng,
chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, nên ít nhiều tạo điều kiện để giới lãnh đạo các
DN này chậm thay đổi cách quản lý và vận hành kiểu cũ.
1.2.1.5. Sự tham gia của người lao động với tư cách cổ đông.
Khác với DN 100% vốn nhà nước và cũng khác với CTCP thành lập
mới dựa trên sự góp vốn của tư nhân, người lao động trong DNNN sau CPH
hầu hết là cổ đông ở các mức độ khác nhau. Lúc này, người lao động của DN
không chỉ tham gia với tư cách là người làm thuê cho chủ sở hữu mà được
tham gia với tư cách là cổ đông, người góp vốn vào DN. Vị trí mới này đòi
hỏi người lao động buộc phải có trách nhiệm hơn với DN, khiến họ quan tâm
tới kết quả kinh doanh hơn, vì ngoài tiền lương, họ còn được chia cổ tức.
Người lao động cũng có nhiều quyền hơn trong việc tham gia kiểm tra, giám
sát hoạt động kinh doanh, góp phần đảm bảo tính minh bạch về tài chính,
nhân sự của DN. Tuy nhiên, đa phần người lao động trong các DNNN sau
CPH là người lao động trưởng thành từ môi trường DNNN với chế độ làm
việc suốt đời, với các chế độ an sinh cao hơn các loại hình DN khác, quen làm
việc theo chế độ, chính sách của nhà nước, kém năng động, sợ rủi ro, không
có tri thức và kỹ năng của cổ đông, coi trọng lợi ích ngắn hạn Đa phần
người lao động trở thành cổ đông một cách bị động (được chia cổ phiếu, mua
ưu đãi hoặc mua để giữ chỗ làm việc ). Với một đội ngũ cổ đông như vậy,





17
DN cần phải giáo dục họ, giúp họ tổ chức lại thành cổ đông đa số, tạo cơ chế
cho họ cử đại diện của mình vào các cơ quan quản lý CTCP thì tác động
tích cực của họ mới được phát huy. Nếu không làm được như vậy, thì đội ngũ
cổ đông này chính là điểm hạn chế của DN do tính không nhất quán, thiếu tri
thức và kinh nghiệm, dễ bị chia rẽ và lợi dụng của họ.
1.2.3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá
1.2.3.1. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá đối với
Nhà nước
a. Công ty cổ phần nhà nước là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô
nền kinh tế
ở nước ta, mục đích chủ yếu của CPH DNNN là để Nhà nước tái cơ cấu
lại hệ thống DNNN của mình theo hướng hiệu quả, thích nghi với kinh tế thị
trường và hội nhập. Mục tiêu tái cơ cấu DNNN được ưu tiên hơn mục tiêu
chuyển đổi sở hữu của Nhà nước trong DNNN cho tư nhân. Cách làm như
vậy vừa giúp cho nước ta tránh được các suy thoái như cách làm của Nga và
các nước Đông âu trước đây, đồng thời vẫn cho phép Nhà nước, thông qua
các DNNN sau CPH, điều tiết vĩ mô và kiểm soát nền kinh tế. Vai trò điều tiết
đó dựa chủ yếu vào các CTCP nhà nước và tập đoàn kinh tế do Nhà nước
khống chế. Thực tế đổi mới DNNN ở nước ta những năm qua cho thấy, các
tập đoàn kinh tế lớn, các tổng công ty lớn sau CPH vẫn có thể chịu sự chi
phối của Nhà nước, đồng thời vẫn hoạt động có hiệu quả và duy trì được khả
năng điều tiết thị trường. Hơn nữa, thông qua mô hình CTCP Nhà nước giữ
cổ phần chi phối, Nhà nước có thể xây dựng các tập đoàn kinh tế lớn có khả
năng cạnh tranh, có năng lực đầu tư ra nước ngoài, giúp Nhà nước kiểm soát
một lĩnh vực rộng lớn mà không cần tăng đầu tư vốn nhà nước quá lớn.
b. Đầu tư dưới hình thức giữ cổ phần trong công ty cổ phần là hình
thức đầu tư có lợi đối với Nhà nước.





18
Việc CPH DNNN bằng cách phát hành thêm vốn, không bán tài sản
của Nhà nước trong DN không làm cho năng lực sản xuất của Nhà nước bị
thu hẹp lại. Ngược lại, dưới hình thức CTCP đa sở hữu, trong đó Nhà nước
giữ phần cổ phần khống chế, Nhà nước có thể sử dụng được năng lực sản xuất
xã hội để thực hiện các mục tiêu mà mình mong muốn. Hơn nữa, cơ chế quản
lý đặc thù theo luật của CTCP vừa cho phép Nhà nước tách biệt rõ ràng tài
chính nhà nước và tài chính DN, vừa tạo cơ chế để nhà nước kinh doanh tài
sản của mình một cách hiệu quả hơn thông qua cơ chế thuê giám đốc điều
hành và cơ chế kiểm soát nội bộ độc lập với cán bộ quản lý điều hành.
Ngoài ra, thông qua CPH, Nhà nước có thể thu hồi được vốn của các
DN CPH để đầu tư sang các lĩnh vực khác của nền kinh tế phù hợp hơn với vị
thế của Nhà nước CTCP nhà nước cũng là hình thức liên kết sở hữu nhà
nước và sở hữu tư nhân hiệu quả. Thông qua các DNNN sau CPH, Nhà nước
hỗ trợ để mở rộng tiềm năng đầu tư từ kinh tế tư nhân. Như vậy, các DNNN
sau CPH sẽ làm cho đầu tư của cả Nhà nước và đầu tư tư nhân vừa tăng lên,
vừa có hiệu quả hơn. Chỉ tính trong giai đoạn 1989- 1996, có 10 DNNN được
CPH đã tăng doanh thu bình quân 56,0%, đồng thời khu vực DNNN cũng
tăng trưởng hơn 10% [29].
1.2.3.2. Lợi ích của doanh nghiệp sau cổ phần hoá xét từ phía doanh nghiệp
a. Cổ phần hoá giúp các doanh nghiệp giải quyết các khó khăn về vốn
kinh doanh
Trước đây, các DNNN muốn đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, dây
chuyền công nghệ, đất đai nhà xưởng, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới,
mở rộng thị trường đều phải đi xin cấp vốn đầu tư từ NSNN. Trong khi đó,
NSNN không đủ sức đáp ứng nhu cầu về tăng vốn của DNNN. Tình trạng bó

buộc đó đã kìm hãm sự phát triển của DNNN, khiến nhiều DNNN phải bỏ phí
cơ hội kinh doanh, kết quả là tiềm năng phát triển và tiềm năng hiệu quả của




19
DNNN đều không được khai thác tốt. Với CPH, DNNN được phát hành cổ
phiếu thu hút vốn. Phương thức này đã cơ bản giúp DNNN giải quyết nhu cầu
về vốn cho đầu tư phát triển. Thực tiễn CPH đã chứng minh nhận định này.
Tính từ năm 1993- 1997 bình quân vốn của DNNN sau CPH tăng 45%/năm
[29]. Ngoài ra, do vốn chủ sở hữu tăng, DN sau CPH có năng lực tài chính
đảm bảo lớn hơn để ký hợp đồng tín dụng vay các khoản vốn lớn.
c. Doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá được hưởng lợi từ các yếu
tố động lực hướng tới hiệu quả
Sau CPH, lợi ích của người lao động, người quản lý và chủ sở hữu
được nâng lên do họ được hưởng trực tiếp thành quả của kinh doanh dưới
hình thức cổ tức và chênh lệch giá cổ phiếu. Hơn nữa, cơ chế quản lý theo
nguyên tắc tách biệt và đại diện cho phép DNNN sau CPH thu hút được nhiều
nhân tài phục vụ hoạt động kinh doanh. Quyền chủ động của DN dưới hình
thức CTCP cho phép DN tăng khả năng mở rộng liên doanh liên kết, thu hút
vốn, công nghệ mới cho sản xuất kinh doanh. Mô hình quản lý của CTCP
cũng đòi hỏi tăng cường tính minh bạch và hiệu quả trong điều hành DN, nhờ
đó DN cũng được quản lý và kiểm soát tốt hơn. Tất cả những lợi thế đó góp
phần không chỉ tăng lợi nhuận ngắn hạn cho cổ đông, mà còn tạo vị thế, uy
tín, thị phần và năng lực cạnh tranh của DN, cho phép DN phát triển về lâu
dài. Khi DN ngày càng làm ăn tấn tới thì cả chủ sở hữu lẫn người làm công
đều được lợi.
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển Doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần
hoá

1.2.1. Chính sách và quá trình cổ phần hoá trong thực tiễn
1.2.1.1. Chính sách cổ phần hoá thay đổi theo thời gian đã hình thành
các doanh nghiệp sau cổ phần hoá có những vấn đề không giống nhau




20
Từ Đại Hội Đảng lần thứ VI, sau khi nhất trí chủ trương chuyển nền
kinh tế nước ta sang quỹ đạo của kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta đã
bắt đầu nghiên cứu soạn thảo chính sách CPH. Tuy nhiên, vì lựa chọn xu
hướng XHCN, vì chưa có sự hiểu biết và kinh nghiệm CPH, nên Đảng và Nhà
nước ta đã lựa chọn giải pháp CPH thận trọng với các bước thử nghiệm kéo
dài và sự bổ sung, đổi mới chính sách thường xuyên. Chính vì thế, mặc dù là
kết quả của CPH, đều được gọi là DNNN sau CPH, nhưng các thực thể kinh
tế này rất không giống nhau và gặp phải nhiều vấn đề khác nhau. Ví dụ, trong
giai đoạn thử nghiệm 1992-1995, các DNNN thuộc diện CPH phải là các
DNNN làm ăn có hiệu quả, hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ, thương mại
hoặc sản xuất công nghiệp tiêu dùng. Điều kiện CPH như vậy đã tạo thuận lợi
rất lớn cho các DN này hoạt động có hiệu quả sau CPH vì không vấp phải vấn
đề nợ nần, không phải bù lỗ cho các hoạt động trước CPH và hoạt động trong
các lĩnh vực sinh lợi cao. Hơn nữa, giai đoạn thử nghiệm CPH theo Quyết
định 22/CP còn được hưởng khá nhiều ưu đãi như mặt bằng định giá thấp, lợi
thế thương mại và đất đai ít được tính vào giá trị DNNN để CPH, người lao
động trong DN được cho không một số cổ phiếu Chính vì có những điều
kiện thuận lợi rất lớn đó mà hầu hết các DNNN trong giai đoạn thử nghiệm
đều hoạt động rất hiệu quả sau khi được CPH, thể hiện ở sự tăng nhanh doanh
số và lợi nhuận của chúng.
Đến giai đoạn mở rộng CPH (1996 – 2004), diện DNNN CPH được mở
rộng đến tất cả các ngành nghề, kể cả các ngành có mức thu lợi thấp như các

nhà máy đường, giao thông ; CPH cả các DNNN không làm ăn hiệu quả;
Chính sách CPH được thay đổi theo hướng ít lợi hơn cho DNNN sau CPH
như không cho không người lao động cổ phiếu mà họ phải mua theo giá ưu
đãi, hoặc cấp tín dụng ưu đãi cho người lao động mua cổ phiếu với điều kiện




21
không được chuyển nhượng khi chưa trả hết nợ, giá trị DN được xác định sát
giá thị trường hơn, Nhà nước hỗ trợ giải quyết lao động dôi dư và nợ đọng
của DN bằng các tổ chức chuyên môn hoá và bằng các quỹ của Nhà nước;
quyền được mua cổ phiếu mở rộng cho người ngoài DN Kết quả của CPH
giai đoạn này là số lượng CTCP do CPH tạo thành tăng nhanh, điều kiện hoạt
động của DNNN sau CPH khó khăn hơn, khó phát hành cổ phiếu để huy động
vốn hơn Đã có một số DNNN sau CPH gặp khó khăn trong hoạt động
buộc Nhà nước phải ra tay cứu trợ. Nhìn chung, DNNN sau CPH bắt đầu gặp
nhiều khó khăn hơn trước như cơ chế quản lý của nhà nước chưa kịp thay đổi
cho phù hợp, cơ quan nhà nước ít quan tâm đến DNNN sau CPH, các loại thủ
tục xác định quyền sở hữu và quyền sử dụng sau CPH thường kéo dài và phức
tạp CPH không còn là con đường mang lại toàn lợi ích cho người lao động
và DNNN sau CPH như giai đoạn thử nghiệm.
Từ năm 2005 đến nay, với chủ trương hoàn thành CPH trong thời
gian sớm nhất, đồng thời cố gắng hạn chế thất thoát vốn nhà nước trong
quá trình CPH, diện DNNN cần CPH đã mở rộng đến tất cả các DNNN,
chính sách CPH đã được xây dựng chuẩn mực và chặt chẽ hơn như việc
định giá DNNN đã có tính đến giá trị quyền sử dụng đất, chính sách hỗ trợ
giải quyết lao động dôi dư độc lập với tiến trình CPH, phương thức phát
hành cổ phiếu mang tính thị trường nhiều hơn Tất cả những thay đổi đó
đã dẫn đến tình hình là DNNN sau CPH kế thừa được rất ít lợi ích từ

DNNN và chính sách CPH của Nhà nước, trong khi thị trường ngày càng
xuất hiện nhiều CTCP hơn, mức cạnh tranh ngày càng cao. Đặc điểm này
đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển tiếp theo của DNNN sau CPH ở
thời
kỳ này.




22
1.2.1.2. Các thủ tục hành chính liên quan đến quá trình cổ phần hoá
đã đặt doanh nghiệp sau cổ phần hoá vào tình trạng khó khăn
Về nguyên tắc, CTCP do CPH tạo ra hoạt động theo khuôn khổ luật
pháp và chính sách khác với DNNN. Tuy nhiên, việc vận hành các khuôn khổ
mới này cả về phía Nhà nước lẫn về phía DN đều không thành thạo và nhiều
khi không có tiền đề để thực hiện hiệu quả. Chính vì thế DNNN sau CPH
thường bị đặt vào thế lưỡng nan, nhất là các DNNN sau CPH mà Nhà nước
chiếm cổ phần chi phối. Ví dụ, sau CPH, dù Nhà nước chiếm cổ phần khống
chế trong CTCP, thì Nhà nước cũng chỉ có quyền như một cổ đông đa số.
Nhưng do Nhà nước chưa chuẩn bị đầy đủ điều kiện (về luật pháp, về bộ máy
và về cán bộ) để thực thi hoàn hảo vai trò cổ đông đa số, nên trong hầu hết
các CTCP do CPH tạo ra mà Nhà nước chiếm giữ cổ phần chi phối, đại diện
Nhà nước tại CTCP vẫn duy trì cung cách hoạt động của công ty như cũ. Do
đó xuất hiện tình trạng “ bình mới, rượu cũ” rất khó để CTCP hoạt động có
hiệu quả. Ngoài ra, các thủ tục pháp lý cần thiết để chuyển quyền sở hữu tài
sản sang các chủ sở hữu mới và xác nhận quyền sử dụng của DNNN sau CPH
thường khó thực hiện và kéo dài. Ví dụ, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho CTCP thường khó khăn, nhiều CTCP không được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất vì liên quan đến CPH vào thời kỳ chưa tính giá
quyền sử dụng đất, hoặc hồ sơ pháp lý không đầy đủ Thủ tục bàn giao tài

sản DN không sử dụng về cho Nhà nước cũng không được thực hiện dứt
điểm, dẫn đến hiện tượng nhập nhèm giữa tài sản nhà nước và tài sản của
CTCP Các cơ quan quản lý nhà nước ít quan tâm đến DNNN sau CPH,
nhất là các DN, Nhà nước không giữ cổ phần khống chế. Sự “bỏ rơi” này, một
mặt, làm cho DNNN sau CPH hoang mang, khi gặp khó khăn không biết
trông cậy vào đâu, thậm chí không có địa chỉ để lấy thông tin về chính sách




23
của Nhà nước; mặt khác, nhiều vấn đề của DN sau CPH cần sự hỗ trợ bên
ngoài DN như tranh chấp giữa các cổ đông, giữa cổ đông và Hội đồng quản
trị, vấn đề cấp giấy xác nhận quyền sở hữu cổ phần, vấn đề chuyển nhượng cổ
phiếu CTCP không nhận được sự hỗ trợ của các cơ quan nhà nước chủ
quản nên thực sự khó khăn.
Nói tóm lại, do diện DNNN CPH quá rộng, do chính sách CPH của
Nhà nước thường xuyên thay đổi, do dân cư và giới quản lý DN chưa kịp làm
quen với CTCP do CPH tạo ra, do các cơ quan nhà nước chưa được chuẩn bị
để hỗ trợ DNNN sau CPH nên đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của
DNNN sau CPH và đặt DNNN sau CPH vào điều kiện hoạt động khá đặc biệt
so với các CTCP khác.
1.2.2. Môi trường sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
1.2.2.1. Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý ảnh hưởng quyết định đến hoạt động của CTCP bởi
đây là mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh của DN mang tính xã hội hoá cao
nhất. Nếu như các mô hình DN tư nhân, CT TNHH còn có sự hỗ trợ kiểm
soát trực tiếp của cá nhân chủ sở hữu đối với hoạt động của DN, thì CTCP
hoàn toàn chịu sự quản lý của các cơ quan đại diện, chủ sở hữu chỉ có vai trò
quản lý gián tiếp hoạt động của công ty. Do đó, luật pháp cần phải chế định

hoạt động của CTCP chặt chẽ hơn các mô hình hoạt động khác của DN để,
một phần, bảo vệ lợi ích cho giới chủ sở hữu, nhất là các cổ đông thiểu số,
phần khác, để ngăn ngừa hoạt động phiêu lưu, lạm dụng của giới quản lý
CTCP. Chính vì thế, nội dung của các chế định trong các luật kinh tế có ảnh
hưởng vô cùng lớn tới sự tồn tại và phát triển của CTCP do CPH tạo ra.
Trước hết phải kể đến Luật DN. Luật DN càng rõ ràng minh bạch, càng
chế định chặt chẽ hành vi của giới quản lý CTCP thì CTCP càng có cơ hội
phát triển lành mạnh và bền vững. Ngược lại, các Luật DN sơ hở, thiếu sự chế




24
định hành vi của cán bộ quản lý CTCP, thiếu cơ chế bảo vệ cổ đông, thì sẽ tạo
điều kiện cho giới đầu cơ lũng đoạn CTCP nhằm làm lợi cho riêng họ, phá hại
sự ổn định của CTCP, thậm chí có thể làm cho CTCP phá sản. Nói cách khác,
Luật DN của một nước càng đạt đến trình độ chuẩn mực và phù hợp với yêu
cầu của kinh tế thị trường hiện đại, thì càng tạo điều kiện cho CTCP phát triển
bền vững.
Các luật khác như Luật Lao động, Luật Thương mại (nhất là nội dung
cạnh tranh trong Luật Thương mại), Luật sở hữu trí tuệ … tạo môi trường
pháp lý cần thiết để CTCP hoạt động và phát triển. Nếu các luật này thông
thoáng và hợp lý, nếu bộ máy Nhà nước đủ năng lực thực thi hiệu quả các sắc
luật này, thì CTCP sẽ có điều kiện hoạt động tốt hơn. Ngược lại, các sắc luật
không hợp lý, nhất là các quy định lạc hậu và không nhất quán với nhau, khả
năng thực thi luật của Nhà nước yếu kém, sẽ làm cho CTCP không chỉ phải
chi phí nhiều hơn, mà còn có nguy cơ hoạt động không an toàn. Vì thế, trong
nền kinh tế thị trường hiện đại, các Nhà nước, kể cả các nước thích sử dụng
hệ thống các nguyên tắc tự định trong nền kinh tế, đều phải chú trọng hoàn
thiện hệ thống pháp luật, coi đó là điều kiện tối cần thiết để hệ thống DN của

họ, nhất là các CTCP có điều kiện phát triển thuận lợi.
1.2.2.2. Đường lối, chính sách đối với doanh nghiệp của Nhà nước
Với sự lựa chọn xu hướng XHCN, Đảng và Nhà nước ta tất yếu thực
thi chính sách tạo điều kiện cho kinh tế nhà nước, trong đó có các DNNN,
phát triển mạnh mẽ, đảm đương được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Hơn
nữa, trong quá khứ và hiện tại, hệ thống chính sách kinh tế của Nhà nước ta
đã được thiết kế với phần ưu đãi cho DNNN khá lớn. Về nguyên tắc, ưu đãi
cho DNNN là tạo vị thế cạnh tranh không bình đẳng cho các DN khác, nhất là
cho các DN vừa thoát thai khỏi mô hình DNNN, tức là các DNNN sau CPH.




25
Các ưu đãi cho DNNN còn tạo tâm lý ganh tỵ trong người lao động và cán bộ
ở DNNN thuộc diện CPH. Để khuyến khích họ ủng hộ CPH, có hai cách làm:
Một là, xoá bỏ ưu đãi cho các DNNN còn lại; hai là, đền bù cho những người
làm việc trong các DN thuộc diện CPH. Nhà nước ta đã chọn cách làm thứ hai
trong điều kiện ngân sách nhà nước vô cùng hạn hẹp, thường xuyên bị bội chi.
Cách làm đó đã ảnh hưởng đến DNNN sau CPH theo hai hướng: 1, DNNN
thuộc diện CPH cố tình trì hoãn CPH để đòi được chế độ đền bù cao hơn.
Trong điều kiện chính sách CPH của nước ta luôn thay đổi, các DNNN càng
có lý do để chờ đợi; 2; Chế độ đền bù của Nhà nước không nhất quán do ngân
sách không đủ sức gánh chịu, dẫn đến các chế độ bồi thường trong các giai đoạn
khác nhau là khác nhau, vừa tạo ra tình trạng không công bằng, gây bất bình
trong số những người có liên quan, vừa tạo cớ để DNNN không muốn CPH.
Thời gian gần đây, dưới sức ép của đường lối đổi mới nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của các DNNN và sức ép của hội nhập kinh tế quốc tế,
Nhà nước đã tuyên bố kiên quyết xoá bỏ bao cấp cho DNNN dưới mọi hình
thức, từng bước đưa DNNN hoạt động trong môi trường thương mại bình

thường, bình đẳng với các DN khác. Một số giải pháp đã được đưa vào thực
hiện như khẩn trương xoá bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh của các
DNNN phù hợp với lộ trình gia nhập WTO; đổi mới quản lý nhà nước đối với
DNNN, thành lập công ty đầu tư tài chính của Nhà nước và cơ quan quản lý
Nhà nước để thực hiện thống nhất và có hiệu quả chức năng đại diện chủ sở
hữu vốn nhà nước đầu tư vào DN thuộc mọi ngành trong nền kinh tế quốc
dân; chuyển DNNN sang hoạt động theo Luật DN năm 2005 Tuy nhiên, vẫn
còn nhiều chính sách ưu đãi cho DNNN như giao đất, tín chấp, bù lỗ, tín dụng
ưu đãi, hỗ trợ của cơ quan chủ quản Tình trạng này ảnh hưởng không nhỏ
đến sự phát triển của DNNN sau CPH.
1.2.2.3. Môi trường kinh tế- xã hội của quốc gia

×