Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Quá trình hình thành và phát triển hoạt động bancassurance ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.83 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
1.TỔNG QUAN VỀ BANCASSURANCE 2
1.1 Khái niệm 2
1.2 Mục đích 2
1.3 Các hình thức hoạt động của bancassurance 2
1.4 Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển bancasurance 5
2. Bancassurance trên thế giới 9
3. Bancasurance ở Việt Nam 10
3.1 Quá trình hình thành và phát triển hoạt động bancassurance ở Việt Nam 10
3.2 . Đặc điểm liên kết ngân hàng - bảo hiểm ở Việt Nam 16
3.3.Các loại hình hoạt động bancasurance ở Việt Nam 17
3.4 Cơ hội và thách thức đối với bancasurance ở Việt Nam 20
3.5 Thành tựu và hạn chế 22
3.6 Giải pháp 24
4. Kết luận 28
`
1.TỔNG QUAN VỀ BANCASSURANCE
Hiện nay sự “giao thoa” giữa hoạt động kinh doanh bảo hiểm với ngân hàng đang
được thể hiện rõ trên thị trường thế giới, nhiều tập đoàn bảo hiểm có ngân hàng thương mại
và ngược lại nhiều ngân hàng thương mại thành lập công ty bảo hiểm. Đây là xu hướng thể
hiện sự hỗ trợ nhau cùng kinh doanh phát triển. Hình thức này được gọi dưới tên
Bancassurance.
1.1 Khái niệm
Bancassurance là 1 thuật ngữ tiếng Pháp, chỉ việc NH và công ty BH hợp tác với
nhau để phát triển và phân phối một cách có hiệu quả các sản phẩm NH và BH thông qua
việc cung cấp sản phẩm cho cùng một cơ sở khách hàng. Ở đây cần phân biệt rõ việc NH
phân phối các sản phẩm BH (Bancassurance) với việc các doanh ngiệp BH cung cấp và
phân phối các dịch vụ tài chính, ngân hàng ( Assurbanking).
Một cách tổng quát, Bancassurance có thể hiểu một cách đơn giản nhất là việc các
NH tham gia cung cấp các sản phẩm BH cho khách hàng của mình. Việc tham gia cuả NH


có thể ở nhiều cấp độ khác nhau tùy theo hình thức Bancassurane. Các NH tham gia cung
cấp sản phẩm BH cho khách hàng của mình gồm hai phần: sản phẩm NH và sản phẩm BH.
Khách hàng sử dụng sản phẩm Bancassurance sẽ được tiếp cận các dịch vụ tài chính
“trọn gói” qua “một cửa” với chi phí thấp và thuận tiện. Khách hàng có thể quản lí rủi ro tốt
hơn và hoạch định tài sản trong dài hạn hiệu quả hơn, đồng thời khách hàng cũng có thể
hưởng thêm các dịch vụ gia tăng khác.
1.2 Mục đích
Các công ty BH lựa chọn hợp tác với các NH nhằm mở rộng mạng lưới kênh phân
phối càng lớn càng tốt và đa dạng hóa sản phẩm từ đó tìm được chỗ đứng trong lĩnh vực
kinh doanh này.
Hệ thống NH cũng đang mở rộng hoạt động của mình bằng sự liên kết với các công
ty bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh dịch vụ theo hướng tạo nên sự thuận tiện cho khách
hàng khi sử dụng các dịch vụ tiện ích.
Và điều quan trọng là sự hợp tác giữa 2 bên đều hướng đến mục tiêu lợi nhuận
1.3 Các hình thức hoạt động của bancassurance.
Việc tham gia cung cấp sản phẩm bảo hiểm của ngân hàng có thể ở nhiều cấp độ
khác nhau tuỳ theo thỏa thuận và hình thức liên kết giữa ngân hàng với công ty bảo hiểm:
1.3.1 Thỏa thuận phân phối
Hai bên ký kết hợp đồng thỏa thuận phân phối: Ngân hàng ký thỏa thuận phân phối
sản phẩm với công ty bảo hiểm, trong đó ngân hàng đóng vai trò là người đại diện bán hàng
hoặc người môi giới bảo hiểm cho công ty bảo hiểm. Ngân hàng phân phối các sản phẩm
bảo hiểm (bán riêng rẽ hoặc bán cùng với các sản phẩm ngân hàng) để nhận hoa hồng.
Trường hợp này, hai bên không cần hoặc chỉ chia sẻ một ít cơ sở dữ liệu khách hàng và
không cần phải đầu tư nhiều về cơ sở vật chất cho quan hệ hợp tác này.
Ưu điểm:
`
- Việc liên kết này giúp cho các NH tránh được những chi phí cơ hội cao khi thành lập một
công ty BH trực thuộc NH.
- Mang đến cho NH một mạng lưới hoạt động tốt hơn khi hợp tác với các công ty BH có sẵn
chuyên môn và kinh nghiệm trong ngành BH.

Nhược điểm:
-Sản phẩm của công ty BH và NH bị trùng lặp với nhau.
-NH và công ty BH sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh với nhau nếu liên thỏa thuận phân phối
giữa hai bên không hiệu quả.
1.3.2 Liên kết chiến lược
Ngân hàng và công ty bảo hiểm nắm giữ cổ phần của nhau: ngân hàng sẽ cung cấp
sản phẩm cho các công ty bảo hiểm với tư cách là đồng minh chiến lược của nhau. Trường
hợp này hai bên có mức độ kết hợp cao hơn trong việc cung cấp sản phẩm và quản lý kênh
phân phối, có thể có sự chia sẻ cơ sở dữ liệu khách hàng và đòi hỏi phải đầu tư đúng mức
vào công nghệ thông tin và nhân sự bán hàng.
Ưu điểm:
-Các NH và công ty BH đều được lợi do sử dụng uy tín, thương hiệu và nguồn lực
của nhau về việc cung cấp các dịch vụ BH và dịch vụ NH.
- Hỗ trợ cho nhau trong việc tìm kiếm khách hàng và tận dụng khách hàng tiềm năng
hiện có. NH sẽ huy động được lượng vốn từ khách hàng BH, có thêm hoa hồng, nhận được
cổ tức, còn công ty BH sẽ tránh được rủi ro và các loại chi phí đại lí, …từ đó đem lại lợi ích
và thu nhập cho cả hai bên.
- Với hệ thống chi nhánh lớn mạnh của NH thì việc bán các sản phẩm BH sẽ thuận
lợi hơn, đen lại doanh thu cho cả hai bên.
Nhược điểm:
- Bởi vì hoạt động theo mô hình liên kết, nếu phía NH có vấn đề về thương hiệu, uy
tín, quản lí,… sẽ ảnh hưởng đến dịch vụ, sản phẩm của công ty BH. Ngược lại, nếu công ty
BH làm ăn kém hiệu quả, gian dối sẽ ảnh hưởng tới thương hiệu của NH.
- NH cần phải có nguồn vốn đủ lớn để mua một phần hay toàn bộ công ty BH. Ngoài
ra, trình độ quản lí phải cao, danh mục đầu tư phải hợp lí, rõ ràng khi sử dụng nguồn vốn
huy động qua kênh BH.
1.3.3 Liên doanh
Ngân hàng và công ty bảo hiểm góp vốn liên doanh cùng thành lập một công ty bảo
hiểm mới: ngân hàng và công ty bảo hiểm cùng sở hữu về sản phẩm và khách hàng, cùng
chia sẻ cơ sở dữ liệu khách hàng. Cấp độ này đòi hỏi phải có sự cam kết mạnh mẽ và dài

hạn từ hai phía về chiến lược phân phối sản phẩm, về cơ sở vật chất…
Ưu điểm:
-Mô hình liên doanh giữa 1 công ty BH lớn trên thế giới và 1 NH nội địa được coi là khá
hoàn hảo. về yêu cầu kĩ thuật trong BH, phía đối tác BH nước ngoài có thể đáp ứng được
`
những yêu cầu khắt khe nhất, trong khi đó, NH trong nước có thể cung cấp cho liên doanh
một khối lượng khách hàng tiềm năng lớn qua giao dịch NH. Bên cạnh đó, với lợi thế am
hiểu môi trường kinh doanh trong nước, phía NH nội địa có thể giúp liên doanh đẩy nhanh
quá trình xin cấp giấy phép kinh doanh.
-Mặt khác, khi liên doanh với các công ty BH lớn trên thế giới, công ty liên doanh BH sẽ
được tiếp cận với nên tảng công nghệ hiện đại từ công ty BH nước ngoài, vừa mang lại hiệu
quả tốt nhất cho quá trình hoạt động và quản lí công ty, vừa tiết kiệm được chi phí khá lớn
cho việc mua lại công nghệ từ nước ngoài.
Nhược điểm:
-Liên doanh giữa NH và công ty BH với tỷ lệ góp vốn bằng nhau có thể gây khó khăn trong
việc đưa ra quyết định kinh doanh khi ý kiếm hai bên không đồng nhất.
-Trên thị trường Bancassurance có rất ít sản phẩm BH được thiết kế chuyên biệt để bán qua
NH, thậm chí một số sản phẩm BH của các doanh nghiệp BH có nhiều điểm tương tự với
một số sản phẩm của NH đã tạo ra sự cạnh tranh trực tiếp đối với các NH liên doanh.
-Nguồn chia sẻ dữ liệu khách hàng cũng bị hạn chế do sự cạnh tranh ngấm ngầm của các
công ty góp vốn liên doanh.
-Thương hiệu của NH và công ty BH sẽ bị tổn hại nếu hoạt động kinh doanh của một trong
hai bên xảy ra vấn đề.
1.3.4 Tập đoàn tài chính
Ngân hàng mua toàn bộ hoặc một phần công ty bảo hiểm hoặc thành lập một công ty bảo
hiểm mới, trong tương lai sẽ hình thành tập đoàn dịch vụ tài chính ngân hàng: Ở cấp độ này,
các hoạt động và hệ thống phân phối được kết hợp hoàn toàn, có khả năng cao trong việc sử
dụng cơ sở dữ liệu khách hàng hiện có và cung cấp các dịch vụ khác của ngân hàng.
Ưu điểm:
-Được đầu tư đúng mức từ NH mẹ, các NH chủ động, nhất quán trong chiến lược kinh

doanh với công ty BH.
-Áp lực cạnh tranh giảm xuống. Các sản phẩm của BH và NH có nhiều điểm tương đồng,
nhất là trong khoản tiền gửi tiết kiệm. Ở các hình thức khác, tuy đã kí thỏa thuận phân phối
hay hợp tác nhưng vẫn có sự cạnh tranh ngấm ngầm. Vì thế, dù là hai doanh ngiệp nhưng
cùng thuộc một tập đoàn tài chính thì sự cạnh tranh này cũng bị triệt tiêu.
-Có sự nâng cao trong chia sẻ thông tin khách hàng.
-Việc kết hợp chặt chẽ loại bỏ đáng kể rủi ro cho các bên. Khi NH mẹ có những hợp đồng
đầy rủi ro, NH có thể buộc khách hàng phải mua BH cho khoản tín dụng đó. Mặt khác, công
ty BH con cũng không phải quá lo lắng về tình trạng phá sản nếu việc huy động vốn khó
khăn kéo dài do nhận được sự hỗ trợ từ NH mẹ.
Nhược điểm:
-Hiện tượng độc quyền nhóm. Khách hàng khi sử dụng dịch vụ của NH cũng bị buộc phải
sử dụng sản phẩm từ công ty BH con mà không có được quyền thỏa thuận về chi phí, hoặc
nếu được quyền thỏa thuận thì sẽ phải chịu mức lãi suất cao hơn từ NH. Để giải quyết tình
trạng này thì phải có sự cạnh tranh nhiều hơn từ đối thủ khác.
`
-Thương hiệu của NH mẹ và công ty BH con gắn liền với nhau nên chỉ cần một trong hai
bên có thông tin xấu sẽ ảnh hưởng không tốt đến cả hai phía. Việc này có thể được giải
quyết bằng cách nâng cao trình độ quản lí từ phía NH mẹ.
-Khi NH và công ty BH chia sẻ cho nhau gần như là toàn bộ thông tin khách hàng thì nguy
cơ rò rỉ thông tin tăng lên gấp đôi, nhất là khi trình độ công nghệ thông tin nước ta còn hạn
chế.
1.4 Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển bancasurance
1.4.1 Sự cần thiết khách quan của bancasurance
Bancassurance ra đời do sự tác động của hàng loạt các nhân tố như: sự phát triển của
thị trường tài chính, sự hình thành của các tập đoàn kinh tế, nhu cầu về một dịch vụ tài
chính “trọn gói” của công chúng, tác động của cạnh tranh cũng như tác động của tiến bộ
khoa học và công nghệ. Như vậy Bancassurance ra đời là sự cần thiết và tất yếu trong tiến
trình phát triển kinh tế:
- Thứ nhất, do nhu cầu về dịch vụ tài chính “một cửa”. Bancassurance có thể đáp ứng

những khách hàng có nhiều nhu cầu về dịch vụ tài chính chỉ qua “một cửa”. Chẳng hạn,
khách hàng có nhu cầu vay tiền, có tài khoản hoặc sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng,
có thể tham gia bảo hiểm ngay tại ngân hàng. Khi tham gia bảo hiểm tại ngân hàng, việc
nộp phí cũng thuận tiện hơn vì khách hàng có thể nộp phí qua chuyển khoản, thẻ ATM, thẻ
tín dụng… Bên cạnh đó, như đã đề cập ở trên, khách hàng có thể tham gia bảo hiểm tại
ngân hàng để bảo đảm khả năng trả nợ cho ngân hàng trong trường hợp có rủi ro xảy ra đối
với tài sản và sinh mạng, sức khoẻ của mình. Ngoài ra, khách hàng còn có thể được hưởng
những quyền lợi và dịch vụ giá trị gia tăng do sử dụng đồng thời nhiều dịch vụ, chẳng hạn:
được giảm phí do nộp phí qua ngân hàng, được cung cấp thẻ ATM mà không phải trả lệ
phí… Tóm lại, với bancassurance, khách hàng có thể đồng thời sử dụng các sản phẩm ngân
hàng và bảo hiểm một cách thuận tiện và hiệu quả.
- Thứ hai, do sự thay đổi “khẩu vị” hay nhu cầu và sở thích sử dụng tiền của khách
hàng. Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy, “khẩu vị” của khách hàng có nhu cầu đầu tư
đang chuyển từ sản phẩm tiết kiệm đơn giản sang các sản phẩm bảo hiểm và các sản phẩm
phức tạp, do vậy ngân hàng cần phải cung cấp nhiều dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng
và luôn thay đổi của khách hàng. Bancassurance là cách thức có thể đáp ứng được sự thay
đổi “khẩu vị” này.
-Thứ ba, do yêu cầu tiết kiệm chi phí hoạt động. Việc sử dụng hệ thống cung cấp
dịch vụ của ngân hàng giúp công ty bảo hiểm có thể tiết kiệm được chi phí hoạt động, qua
đó tăng khả năng cạnh tranh và lợi nhuận. Trước hết, công ty bảo hiểm có thể giảm chi phí
đào tạo (vì đội ngũ nhân viên ngân hàng thường có trình độ cao, rất am hiểu về tài chính) và
có thể sử dụng cơ sở dữ liệu khách hàng, quan hệ của ngân hàng để bán bảo hiểm. Ngoài
ra, công ty bảo hiểm có thể trả hoa hồng cho ngân hàng thấp hơn so với trả cho đại lý hoặc
môi giới.
- Thứ tư, thông qua bancassurance, có thể sử dụng uy tín, thương hiệu và nguồn lực
(cơ sở dữ liệu, văn phòng, nhân viên…) của cả ngân hàng và công ty bảo hiểm vào việc
cung cấp dịch vụ bảo hiểm cũng như tăng cường các dịch vụ ngân hàng. Bên cạnh đó,
`
bancassurance cũng giúp công ty bảo hiểm thâm nhập vào những thị trường chưa được khai
thác, nhất là các thị trường chỉ có thể khai thác được thông qua ngân hàng. Điểm này cũng

gợi ý ngân hàng và công ty bảo hiểm cần phải lựa chọn đối tác một cách khôn ngoan nhất
để có thể phát huy sức mạnh của mình và hưởng lợi từ uy tín, thương hiệu của đối tác.
-Thứ năm, do tác động của cạnh tranh làm giảm biên lợi tức (interest margin) của
ngân hàng cũng như của công ty bảo hiểm, đòi hỏi ngân hàng và công ty bảo hiểm phải đa
dạng hoá kênh phân phối, đa dạng hoá sản phẩm nhằm tạo thêm lợi nhuận, năng suất, tạo ưu
thế cạnh tranh. Các công ty gia nhập thị trường sau, đặc biệt là các công ty nước ngoài, có
thể phải tạo cho mình ưu thế cạnh tranh mới để giành thị phần. Có thể thấy, việc công ty
Prevoir – công ty BHNT mới thâm nhập thị trường Việt Nam- tìm kênh phân phối mới qua
hệ thống bưu điện Việt Nam là một ví dụ minh họa rõ nét trong việc tạo ưu thế cạnh tranh.
Bancassurance cũng là một giải pháp để thay thế kênh phân phối qua đại lý – kênh phân
phối rất “kén” người mà nhiều các công ty BHNT trên thế giới, đặc biệt là các công ty
BHNT Việt Nam, đang gặp khó khăn trong tuyển dụng.
-Thứ sáu, sự phát triển của công nghệ thông tin, dịch vụ viễn thông giúp cho việc lưu
trữ, khai thác cơ sở dữ liệu khách hàng, cung cấp dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm được nhanh
chóng, thuận tiện.
-Thứ bảy, xu hướng phi trung gian hóa trong hoạt động ngân hàng và bảo hiểm cúng
là một trong những lý do dẫn đến sự ra đời của bancassurance. Bancassurance làm giảm sự
phụ thuộc của công ty bảo hiểm đối với lực lượng đại lý, môi giới, tạo ra đối trọng cần thiết
cho sự phát triển bền vững.
-Thứ tám, chính sách tự do hóa hoạt động tài chính cho phép sự thâm nhập lẫn nhau
giữa hoạt động ngân hàng và bảo hiểm. Bên cạnh đó, xu thế toàn cầu hoá cũng thúc đẩy sự
hoạt động động của bancassurance.
-Thứ chín, khách hàng ngày càng hiểu sâu sắc về dịch vụ tài chính, mức sống ngày
càng tăng cũng là những nhân tố thúc đẩy hoạt động bancasurance.
1.4.2 Lợi ích mà Bancassurance mang lại.
Như phân tích ở trên, việc bắt tay giữa ngân hàng và bảo hiểm thông qua
bancassurance đem lại lợi ích cho cả ngân hàng, công ty bảo hiểm và khách hàng. Tất
nhiên, những lợi ích đem lại cho các bên còn tùy thuộc vào mô hình hợp tác. Một số lợi ích
cho các bên có thể kể:
Đối với ngân hàng:

Có thêm dịch vụ cung cấp cho khách hàng, qua đó tăng cường khả năng cạnh tranh
của mình, tăng khả năng duy trì và phát triển cơ sở khách hàng do khách hàng tin tưởng và
trung thành hơn và thu hút thêm khách hàng mới sử dụng dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng có
thể tăng doanh thu hoạt động ngân hàng từ việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách
hàng mua bảo hiểm.
Tăng thu nhập không phải từ lãi (non-interest income) thông qua việc thu phí các dịch vụ
ngân hàng (phí chuyển khoản, ATM, thẻ tín dụng…), cho thuê mặt bằng giao dịch, hoa
`
hồng từ bán bảo hiểm Ngân hàng có thể tận dụng cơ sở khách hàng, mối quan hệ dài hạn
với khách hàng, hệ thống phân phối hiện thời… nhằm tạo ra lợi thế so với các kênh phân
phối khác trong việc phân phối các sản phẩm bảo hiểm nhằm tạo ra thu nhập ổn định.
Đây là cơ hội để phát triển thêm nhiều khoản thu từ hoạt động ngân hàng. Chẳng hạn, công
ty bảo hiểm có thể có được hợp đồng bảo hiểm cho vận chuyển hàng hoá trên biển trong khi
ngân hàng giữ vai trò thanh toán xuất nhập khẩu hàng.
Tăng năng suất hoạt động của nhân viên ngân hàng thông qua việc cung cấp thêm các sản
phẩm bảo hiểm, do vậy giúp giảm chi phí cố định một cách tương đối cho ngân hàng. Đồng
thời, các nhân viên ngân hàng cũng có thêm động lực và thu nhập. Ngoài ra, “văn hoá bán
hàng” thu nhận được trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm sẽ tác động tích cực trở lại đối
với hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng.
Tăng cường thương hiệu và uy tín của mình trên thị trường. Đồng thời, tạo thêm năng lực
đổi mới, giảm bớt sự biến động của lợi nhuận theo thời gian (profitability volatility) do khả
năng sinh lợi của ngành ngân hàng và bảo hiểm thường biến động không theo cùng một chu
kỳ. Thêm vào đó, bancassurance giúp giảm vốn theo rủi ro (risk-based capital) của ngân
hàng.
Việc cung cấp các sản phẩm bảo hiểm giúp giảm thiểu rủi ro không thu hồi được nợ
của ngân hàng đối với các khoản cho vay.
Giúp tăng nguồn vốn huy động của ngân hàng từ phí bảo hiểm. Có thể thấy trong các thỏa
thuận hợp tác của các công ty BHNT Việt Nam với các ngân hàng đều bao hàm thỏa thuận
đầu tư tiền hoặc phí bảo hiểm thu được vào ngân hàng.
+ Đối với công ty bảo hiểm:

Bancassurance tạo ra nguồn khách hàng mới, cơ hội cho các sản phẩm mới và tiết
kiệm chi phí nhờ quy mô lớn. Công ty bảo hiểm có thể tiếp cận và sử dụng nguồn dữ liệu rất
lớn về khách hàng của ngân hàng, qua đó giảm chi phí phân phối sản phẩm. Có thể thấy,
những khách hàng của ngân hàng là những khách hàng tiềm năng lớn đối với công ty bảo
hiểm vì họ thường có thu nhập trung bình khá trở lên và ít nhiều có thói quen sử dụng dịch
vụ tài chính. Ngoài việc tạo ra khách hàng mới, Bancassurance còn có khả năng hỗ trợ các
công ty bảo hiểm duy trì và phát triển cơ sở khách hàng do khách hàng tin tưởng và trung
thành hơn.
Đa dạng hóa kênh phân phối, tăng cường khả năng cạnh tranh nhất là trong giai đoạn
thị trường bão hòa, “người khôn của khó”, đồng thời giảm bớt sự biến động của lợi nhuận
theo thời gian.
Bán các sản phẩm ngân hàng cho khách hàng tham gia bảo hiểm( chẳng hạn, công ty
bảo hiểm có thể có được hợp đồng bảo hiểm cho vận chuyển hàng hoá trên biển trong khi
ngân hàng giữ vai trò thanh toán xuất nhập khẩu hàng), qua đó giúp giảm thiểu rủi ro phát
sinh từ việc giao dịch bằng tiền mặt, giải quyết tốt bài toán thu phí, thanh toán quyền lợi bảo
hiểm bằng tiền mặt. Đối với các nước mà người dân có thói quen sử dụng tiền mặt cao như
ở Việt Nam điều này vô cùng có ý nghĩa. Thực tế cho thấy, các công ty bảo hiểm, đặc biệt là
`
các công ty BHNT ở Việt Nam, chịu rủi ro lớn trong việc quản lý tiền mặt trong quá trình
thu phí, giải quyết quyền lợi bảo hiểm (mất cắp, tiền giả, nhầm lẫn, biển thủ…) và phải giải
quyết bài toán rất lớn về tổ chức lực lượng thu phí bảo hiểm. Rõ ràng, bancassurance giúp
giảm bớt sự lệ thuộc của công ty bảo hiểm vào hệ thống đại lý, môi giới.
Tăng cường thương hiệu và uy tín của mình trên thị trường thông qua việc sử dụng
uy tín và thương hiệu của ngân hàng vì trên thực tế, hệ thống ngân hàng thường có uy tín rất
lớn trong đời sống kinh tế-xã hội.
+ Đối với khách hàng:
Khách hàng được sử dụng các dịch vụ tài chính “trọn gói” qua “một cửa” với chi phí
thấp hơn, thuận tiện hơn và mua sản phẩm với giá thấp hơn, do tiêu dùng nhiều sản phẩm và
người cung cấp sản phẩm tiết kiệm được chi phí phân phối.
Khách hàng có thể quản lý rủi ro tốt hơn và hoạch định tài sản hiệu quả hơn. Đồng thời,

khách hàng có thể tăng thụ hưởng tiện ích của các sản phẩm do được hưởng thêm các dịch
vụ gia tăng khác.
Bên cạnh đó, khi mua bảo hiểm tại ngân hàng khách hàng có thể có thêm niềm tin vì
có thêm một người nữa “bảo lãnh uy tín” cho công ty bảo hiểm. Khách hàng cũng có thể
được hưởng lợi từ chính sách ưu đãi thuế của nhà nước.
+ Đối với xã hội:
Bancassurance ra đời tạo điều kiện cho việc thúc đẩy và phát triển kinh tế trong an
toàn và vững chắc. Hơn nữa, việc sử dụng các gói dịch vụ chính “trọn gói” qua “một cửa”
được nhân rộng sẽ góp phần vào giảm thiểu các chi phí dịch vụ công, cũng như sử dụng hợp
lý và hiệu quả nguồn nhân lực của xã hội.
Việc ngày càng có nhiều ngân hàng và công ty bảo hiểm tiếp cận với Bancassurance
sẽ đẩy mạnh tính cạnh tranh trong chính các công ty bảo hiểm và ngân hàng đòi hỏi mỗi
doanh nghiệp phải nâng cao tính chuyên nghiệp, hoàn thiện hệ thống làm việc, góp phần
thúc đẩy sự hoàn thiện của các công ty doanh nghiệp và sự phát triển của nền kinh tế.
Các ví dụ đơn giản về sự phối hợp giữa hoạt động ngân hàng và các sản phẩm bảo hiểm
tương ứng, có thể tạo cơ hội bán chéo giữa chúng
Sản phẩm
của ngân
hàng
Thẻ tín dụng Quản lý
dòng tiền
Vay thế
chấp
Các món
vay mua tài
sản
Cho vay cá
nhân
`
Sản phâm

bảo hiểm
Sản phẩm
bảo hiểm
mất thẻ tín
dụng
Bảo hiểm
tín dụng
nhân thọ
Bảo hiểm
cho các tài
sản dùng
thế chấp
Bảo hiểm
tài sản
Bảo hiểm
tín dụng cá
nhân
?Tại sao việc liên kết giữa bảo hiểm và ngân hàng có nhiều lợi thế. Nhưng hiện nay nhiều
nước trên thế giới vẫn không cho ngân hàng hoạt động các hoạt động khác ngoài các hoạt
động cốt lõi?
Tại một số nước trên thế giới, đặc biệt là những nước kém và đang phát triển, việc
chấp nhận và áp dụng Bancassurance vẫn còn khá khó khăn. Do
Bancassurance đòi hỏi phải được thiết lập dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, nhưng có
thể nói đây là điểm yếu của các ngân hàng và công ty bảo hiểm tại các nước này; ngoại trừ
các ngân hàng và công ty bảo hiểm có yếu tố vốn nước ngoài, nhưng nếu thực hiện hình
thức này thì các ngân hàng và công ty bảo hiểm trong nước sẽ không có đủ sức mạnh để
cạnh tranh với sự liên kết của các công ty nước ngoài và có thể sẽ dần mất chỗ đứng của
mình tại chính thị trường trong nước. Khó khăn này không thể khắc phục trong một sớm
một chiều mà cần phải mất một thời gian khá dài và tốn kém khá nhiều chi phí.
Cơ sở vật chất của ngân hàng cũng là một vấn đề khóa khăn đặt ra với nhứng nước còn kém

và đang phát triển. Hầu hết phương diện này còn rất hạn chế, do vậy việc bố trí một vị trí
riêng, thích hợp tại ngân hàng để nhân viên bảo hiểm hoạt động thường trực để tiếp xúc với
những khách hàng có nhu cầu mua bảo hiểm sẽ rất khó khăn.
Tập quán tham gia bảo hiểm mới bắt đầu hình thành ở nhứng nước này nên phần đông dân
chúng chưa hiểu rõ về bảo hiểm, còn e ngại tham gia các hợp đồng bảo hiểm dài hạn, các
phương tiện thông tin đại chúng đôi khi còn gây nhiều sai lệch về bảo hiểm … trong khi đó,
cán bộ ngân hàng không có đủ thời gian và nghiệp vụ để giải thích những tiện ích của sản
phẩm cho người mua bảo hiểm…
Vì vậy, hiện nay, dù hình thức Bancassurance đã và đang tiếp tục phát triển mạnh
trên thế giới thì đối với một số nước hình thức này vẫn còn quá mới mẻ. Và với điều kiện
hiện tại của từng nước, việc áp dụng Bancassurance có thể sẽ đem lại một thách thức vô
cùng to lớn đối với nền kinh tế của nước họ. Vậy nên việc để ngân hàng vẫn tiếp tục thực
hiện các hoạt động cốt lõi sẽ như là một sự lựa chọn an toàn cho sự phát triển của nền kinh
tế.
2. Bancassurance trên thế giới
“Bancassurance” xuất hiện đầu tiên ở Pháp và Tây Ban Nha vào những năm đầu của
thập kỷ thứ 8, thứ 9, thế kỷ 20. Ở Pháp vào thời gian đó, các tổ chức ACM (Assurances du
`
Crédit Mutuel); Vie et IARD (Bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm chung) chính thức được phép
bắt đầu các hoạt động được coi là bước ngoặt trong lịch sử bảo hiểm.
Tại Pháp, vào năm 1971, ngân hàng Crédit Lyonnais mua lại tập đoàn Médicale de France
và đến năm 1993 ký kết thỏa thuận để tập đoàn Union des Assurances Fédérales đặc quyền
bán sản phầm bảo hiểm nhân thọ qua mạng lưới của Crédit Lyonnais.
Tại Tây ban nha, vào năm 1981, tập đoàn Banco De Bilbao đã giành được phần lớn cổ phần
trong Euroseguros SA (một công ty bảo hiểm và tái bảo hểm có nguồn gốc là La Vasca
Aseguradora SA, thành lập năm 1968). Tuy nhiên, ban đầu sự kiểm soát của tập đoàn chỉ là
về mặt tài chính, bởi vì thời đó luật pháp Tây ban nha cấm các ngân hàng bán sản phầm bảo
hiểm nhân thọ. Sự cấm đoán đó đã được dỡ bỏ vào năm 1991 và sau đó nhóm 5 công ty
“bancassurance” hàng đầu của Tây ban nha (Vida Caixa, BBVA, SHC Seguros, Aseval,
Mapfre Vida) đã kiểm soát 1/3 thị trường bảo hiểm nhân thọ.

Ở Châu Á, “bancassurance” chỉ thực sự thu hút sự chú ý của ngân hàng Korean sau
khi chính phủ cho phép vào năm 2003 còn tại Thailand, năm 2004, Fortis ký hợp đồng với
tập đoàn Muang Thai cho việc bán cả hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân
thọ và sau đó còn nắm giữ 25% cổ phần của Muang Thai Bảo hiểm nhân thọ. Bán bảo hiểm
qua hệ thống ngân hàng cũng đã dần phát triển ở nhiều nước châu Á khác như Sigapore,
Malaysia…
Bancassurance là kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm hiệu quả, cạnh tranh mạnh mẽ
với kênh phân phối truyền thống (thông qua các đại lý bảo hiểm). Số liệu thống kê cho biết,
ở Pháp 70% phí bảo hiểm kinh doanh được thu thông qua kênh phân phối tại các ngân hàng,
con số này ở Bồ Đào Nha là 68% và Tây Ban Nha: 63%. Hầu hết các công ty bảo hiểm lớn
trên thế giới đều có hình thức hợp tác với các ngân hàng để triển khai loại hình dịch vụ này.
3. Bancasurance ở Việt Nam
3.1 Quá trình hình thành và phát triển hoạt động bancassurance ở Việt Nam
- Ở Việt Nam, hoạt động “bancassurance” đã nhen nhóm từ giữa những năm 1995 bằng việc
các ngân hàng thực hiện chương trình khuyến mãi các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ cho
khách hàng của mình, tiếp đó là các sản phẩm gần giống như bảo hiểm nhân thọ
Sacombank, sự xuất hiện hàng loạt các liên kết từ 2 phía.
-Ngoài ra, nhiều ngân hàng cũng nắm giữ cổ phần của các công ty bảo hiểm.Tuy nhiên sự
hợp tác của hai bên mới chỉ dừng lại ở mức sơ đẳng, chủ yếu là các ngân hàng tạo điều kiện
về không gian để các công ty bảo hiểm đến bán tại ngân hàng.
-Nhưng thực tế phải tới tháng 6/2001 mới chính thức ra mắt với cột mốc đánh dấu khi công
ty TNHH Bảo hiểm quốc tế Mĩ (AIA Việt Nam) kí thỏa thuận hợp tác với Ngân hàng Hồng
Công- Thượng Hải( HSBC).
Năm 2003
-Ngày 5/6/2003 tại Tp.HCM, Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ +Manulife VN và Ngân
hàng TMCP Đông Á đã ký kết hợp đồng đại lý bảo hiểm. Theo thỏa thuận, các sản phấm
bảo hiểm của Manulife sẽ được bán thông qua mạng lưới chi nhánh của Ngân hàng Đông Á.
Sau chương trình hợp tác cung cấp dịch vụ bảo hiểm nhân thọ qua ngân hàng
`
(Bancassurance tháng 6/2003), Thẻ liên kết Đông Á - Manulife là chương trình liên kết thứ

hai giữa hai đơn vị. Đội ngũ nhân viên tư vấn chuyên nghiệp của ngân hàng sẽ trực tiếp tư
vấn cho các khách hàng có nhu cầu tham gia bảo hiểm nhân thọ. Ngoài ra, khách hàng còn
được hưởng tiện lợi trong việc đóng phí bảo hiểm và phương thức hiệu quả đế quản lý
nguồn tài chính và các hợp đồng báo hiếm của mình. Được biết, Manulife VN hiện có hơn
200.000 khách hàng và hơn 6.000 đại lý chuyên nghiệp.
Ngày 20/8/2003, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Công ty Bảo hiếm
nhân thọ Prudential Việt Nam đã ký hợp đồng Doanh nghiệp đại lý bảo hiếm nhân thọ và
hợp đồng Dịch vụ thanh toán phí bảo hiếm bằng thẻ Connect 24 của Vietcombank. Theo
họp đồng, Prudential và Vietcombank sẽ thực hiện thí điểm trước tiên mô hình phân phổi,
Vietcombank sẽ là đại lý chính thức phân phối các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ của
Prudential tại ngân hàng. Trước mắt, việc triển khai hoạt động kênh phân phối này sẽ được
thí điểm thực hiện trên địa bàn Hà Nội ngay trong năm nay, sau đó sẽ đồng loạt triển khai
trên toàn quốc. Các khách hàng cá nhân và doanh nghiệp của Vietcombank được giới thiệu
và tư vấn các sản phấm bảo hiếm nhân thọ đặc thù của Prudential thông qua các chương
trình giới thiệu nhóm hoặc sẽ được nhân viên ngân hàng giới thiệu, tư vấn trực tiếp ngay tại
các chi nhánh của Vietcombank. Hợp đồng Dịch vụ thanh toán phí bảo hiểm bằng thẻ
Connect 24 cho phép các khách hàng của Vietcombank và Prudential khi tham gia bảo hiểm
với Prudential có thể thanh toán phí bảo hiểm với Prudential ngay tại các máy máy rút tiền
tự động (ATM) của Vietcombank đặt trên toàn quốc.
Ngày 8/12/2003 Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Prudential Việt Nam và Ngân hàng Ngoại
thương (VCB) đã chính thức khai trương hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ qua ngân
hàng. Cùng với việc ký kêt hợp đông dịch vụ thanh toán phí bảo hiêm băng thẻ Connect 24
vào tháng 8/2003 vừa qua, việc Prudential và VCB mở quầy giao dịch bảo hiểm nhân thọ
qua ngân hàng sẽ giúp khách hàng tiết kiệm thời gian do chỉ phải giao dịch một nơi duy
nhất cho cả dịch vụ ngân hàng và bảo hiểm. Khách hàng khi đến giao dịch với VCB cũng
đồng thời có thể giao dịch với Prudential thông qua các nhân viên của VCB tại các quầy
giao dịch bảo hiếm. Mọi thủ tục giao dịch bảo hiếm như lập hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, đóng
phí bảo hiểm cũng sẽ được thực hiện ngay tại quầy tư vấn bảo hiểm ở các điếm giao dịch
của VCB.
Năm 2004

Theo thoả thuận họp tác toàn diện được ký kết (14/1/2004), Bảo Việt nhân thọ sẽ cùng
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) tư vấn cho khách
hàng về các dịch vụ bảo hiểm nhân thọ. Agribank cũng sẽ cung cấp cho Bảo Việt nhân thọ
các dịch vụ về quản lý tài khoản tiền gửi của Bảo Việt nhân thợ trong cả nước, các dịch vụ
thanh toán (đóng phí bảo hiếm, thanh toán tiền bảo hiếm cho khách hàng, rút tiền tự động
qua máy ATM ). Đây là thoả thuận chính thức về hợp tác toàn diện giữa 2 nhà ngân hàng
và bảo hiểm lớn nhất Việt Nam hiện nay.
Này 6/5/2004, Ngân hàng Đông Á và Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Manulife Việt Nam sẽ
hợp tác phát hành Thẻ liên kết Đông Á - Manulife, dành riêng cho khách hàng của Manulife
Việt Nam. Khách hàng đăng ký sử dụng thẻ sẽ không phải trả phí thường niên trong 2 năm.
`
Đây là nội dung chính của hợp đồng họp tác dự kiến được ký kết giữa Ngân hàng Đông Á
và Công ty Manulife Việt Nam vào ngày 6/5/2004 và chính thức triển khai cùng ngày. Theo
đó, Manulife Việt Nam sẽ giới thiệu và bán dịch vụ này cho các khách hàng do Công ty lựa
chọn. Các khách hàng được lựa chọn có thế đăng ký sử dụng miễn phí một chiếc Thẻ liên
kết Đông Á - Manulife với nhiều tiện ích trong việc thanh toán phí bảo hiểm và được nhiều
ưu đãi hấp dẫn khác. Cụ thể, khách hàng đăng ký sử dụng thẻ được miễn phí mở thẻ, không
phải trả phí thường niên trong 2 năm (tổng cộng 100.000 đồng), không cần ký quỹ vào tài
khoản và được miễn phí khi thanh toán phí bảo hiểm tại máy ATM, tại quầy giao dịch của
Ngân hàng Đông Á hoặc đăng ký thanh toán phí bảo hiểm tự' động (Ngân hàng tự động
trích tài khoản của khách hàng khi đến kỳ đóng phí bảo hiểm). Khách hàng có thể sử dụng
Thẻ liên kết Đông Á - Manulife như một chiếc thẻ đa năng của Ngân hàng Đông Á phát
hành để rút tiền mặt, gửi tiền vào tài khoản, kiểm tra số dư tài khoản, chuyển khoản, thanh
toán mua hàng tại các điểm chấp nhận hoặc tại máy ATM. Ngoài ra, khách hàng (chủ thẻ)
có thể hưởng chương trình ưu đãi giảm giá tại hơn 20 điếm cung cấp dịch vụ và hàng tiêu
dùng.
Năm 2005
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) và Công ty bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIAV)
ngày 27/6/2005 đã ký hợp đồng hợp tác toàn diện trong kinh doanh và đầu tư. Theo hợp
đồng đã được ký kết, AIAV sẽ bán báo hiểm qua hệ thổng của BIDV trên toàn quốc. Mạng

lưới của BIDV hiện bao gồm 3 sở giao dịch, hơn 200 chi nhánh cấp 1, cấp 2, phòng giao
dịch và 141 quỳ tiết kiệm. AIAV cũng sẽ thực hiện các hoạt động đầu tư cùng với BIDV.
Phạm vi của các hoạt động đầu tư dự kiến sẽ bao gồm các dịch vụ từ mua hộ chứng khoán,
mua và bán lại chứng khoán cho đến việc BIDV xem xét cấp hạn mức tín dụng cho AIAV.
BIDV cũng sẽ cung cấp dịch vụ ngân hàng trọn gói cho AIAV. Các nhân viên và khách
hàng và văn phòng của AIAV sẽ được sử dụng tất cả các dịch vụ sẵn có của BIDV bao gồm
cả dịch vụ thu phí, chuyển tiền và ATM.
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước với xu hướng mở cửa thu hút đàu tư nước
ngoài, cùng với sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhiều loại hình công nghiệp và dịch vụ sau khi
được nới lỏng chiếc áo cơ chế, ngành bảo hiểm Việt Nam cũng đã góp vào những tiếng nói
riêng cho mình. Điển hình là nhiều loại hình bảo hiểm với sự đa dạng, phong phú đã ra đời.
Song, thực tế cũng cho thấy thị trường bảo hiểm có sự phát triển muộn hơn so với thị trường
dịch vụ ngân hàng cũng như đổi mới hoạt động ngân hàng. Do đó, mối lương duyên giữa
ngành bảo hiểm và ngân hàng ở Việt Nam lúc bấy giờ vẫn còn là một ẩn số, bởi vì đa phần
chưa có một sản phẩm Bancassurance nào được giới thiệu trên thị trường Việt Nam.
Năm 2006
AIA Việt Nam tiếp tục phân phối hợp với các ngân hàng Đầu tư- Phát triển (BIDV), Công
thương (Incombank), Quốc tế (VIB Bank) đưa ra các sản phẩm “ An nghiệp bảo tín”.Khách
hàng đến những ngân hàng có quan hệ hợp tác với AIA vay tiền có thể mua sản phẩm “ An
nghiệp bảo tín “ để đảm bảo cho khoản vay của mình. Nếu có rủi ro , AIA sẽ thanh toán cho
ngân hàng số dư còn lại của khoản vay.
`
Ngoài ra khách hàng sử dụng bancassurance, khách hàng còn được tiếp cận với dịch vụ toàn
diện, chi phí thấp. Ví dụ, một khách hàng 35 tuổi muốn vay 150 triệu đồng từ một ngân
hàng có quan hệ với AIA Việt Nam, có thể bảo đảm khoản vay bằng cách mua sản phẩm
“An nghiệp bảo tín” , với mức phí hàng năm 583.000 đ tương đương với 1.600 đ/ngày.
Ngày 01/08/2006 tại Hội sở chính Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank),
Techcombank và Bảo Việt Nhân Thọ tổ chức lễ ký kết “Thoả thuận hợp tác về việc liên kết
phân phối các sản phẩm bảo hiểm qua ngân hàng” và ra mắt hai sản phẩm Bancassurance
“Tài khoản Tiết kiệm Giáo dục” và “Tín dụng cho Nhà mới và Ô tô xịn”. Việc đưa ra thị

trường 2 sản phẩm trên là bước cụ thể hoá các nội dung trong Thoả thuận hợp tác được hai
bên kí kết ngày 28/02/2006. Theo đó, Techcombank và Bảo Việt Nhân Thọ cùng nỗ lực hợp
tác trong nghiên cứu phát triển, hoàn thiện các sản phẩm Bancassurance nhằm đáp ứng tốt
nhất nhu cầu của khách hàng và đem lại lợi ích cho cả hai bên.
“Tài khoản tiết kiệm giáo dục” là hình thức tài khoản tiết kiệm định kỳ dài hạn bằng VND
để trang trải chi phí giáo dục, đào tạo cho trẻ em trong tương lai. Khi tham gia, ngoài việc
hưởng lãi suất tiết kiệm, khách hàng còn được bảo hiểm miễn phí theo sản phẩm “An tâm
tiết kiệm” của Bảo Việt Nhân thọ. Nếu khách hàng gặp rủi ro tử vong, hoặc thương tật toàn
bộ vĩnh viễn, Bảo Việt Nhân thọ sẽ đóng số tiền tiết kiệm cho đến khi đáo hạn thay cho
khách hàng, với mức tối đa 500 triệu đồng. Sản phẩm “Tín dụng nhà mới, ô tô xịn” của
Techcombank gắn với loại hình “An tâm bảo tín” của Bảo Việt Nhân thọ. Tham gia chương
trình này, khách hàng được bảo hiểm cho khoản vay mua nhà, ô tô trong trường hợp chẳng
may gặp rủi ro (tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn). “Tích lũy bảo gia” là sản phẩm
tài khoản tiền gửi VND có kỳ hạn của Techcombank. Hằng tháng, khách hàng có thể nộp
một khoản tiền nhất định để hưởng lãi. Sử dụng dịch vụ này, khách hàng được tặng bảo
hiểm theo sản phẩm “An tâm tiết kiệm” của Bảo Việt Nhân thọ. Số tiền tối đa mà Bảo Việt
Nhân thọ cam kết đóng thay cho khách hàng lên đến 500 triệu đồng. Số tiền tiết kiệm sẽ
được trả cho người hưởng quyền lợi của khách hàng Kể từ khi triển khai (tháng 8-2006),
đã có gần 2.000 khách hàng sử dụng sản phẩm “Tài khoản tiết kiệm giáo dục”, với tổng số
tiền huy động từ loại hình tiết kiệm này là hơn 38 tỷ đồng. Các khách hàng tham gia chương
trình “Tín dụng nhà mới, ôtô xịn” cũng đã tham gia bảo hiểm “An tâm bảo tín” với hơn 15
tỷ dư nợ tín dụng.
Hiện nay, Techcombank và Bảo Việt Nhân thọ đang phối hợp để xây dựng sản phẩm “Bảo
hiểm an tâm tiêu dùng”, dành cho những khách hàng tham gia chương trình “Cho vay tiêu
dùng trả góp”. Với sản phẩm này, khoản vay của khách hàng sẽ được bảo hiểm trong suốt
thời hạn vay.
Năm 2007
Ngày 18/06/2007, tại Trụ Sở chính Bảo Việt Nhân thọ, số 1 Đào Duy Anh, Hà Nội, Bảo
Việt Nhân thọ chính thức công bố ra mắt sản phẩm bảo hiểm nhóm “An Nghiệp thành
công”. Sản phẩm mới này là sự kết hợp giữa sản phẩm bảo hiểm An nghiệp Thành công của

Bảo Việt Nhân thọ và sản phẩm Tiết kiệm Nhân văn của SCB. Tất cả các khách hàng khi
`
tham gia gửi Tiết kiệm Nhân văn sẽ được SCB mua tặng bảo hiểm An nghiệp Thành công
của Bảo Việt Nhân thọ. Trên thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam. Đây là sản phấm bảo
hiểm nhóm dành cho tất cả các tổ chức kinh tế, giáo dục, xã hội và đặc biệt là hướng tới
các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh tại Việt Nam
Sản phẩm mới “An Nghiệp thành công” là sản phẩm bảo hiểm nhóm thứ 2 của Bảo Việt
Nhân thợ kế thừa những tính năng ưu việt của sản phẩm thứ nhất để mở rộng phạm vi bảo
hiểm, quyền lợi bảo hiểm như: biên độ tuổi của nhóm người được bảo hiểm đã được mở
rộng thành 05 - 65 tuổi (phạm vi cũ là từ 18-65 tuổi); người được báo hiểm sẽ được chi trả
quyền lợi trong mọi trường hợp tử vong và các thương tật khác trong thời hạn bảo hiểm.
-Các lợi ích sản phẩm mang lại :
Khách hàng được hưởng lãi suất bậc thang theo số dư tiền gửi.
Được tặng tiền mặt khi gửi mới nhân các ngày lễ, sự kiện lớn hàng năm.
Tặng chuyến du lịch nghỉ dưỡng cho Khách hàng hàng năm.
Lãi suất tặng tăng thêm theo kỳ hạn gửi dành cho Khách hàng từ 50 tuổi trở lên.
Được tặng họp đồng bảo hiểm nhân thọ (bảo hiểm tử vong và thương tật do tai nạn). Số tiền
bảo hiểm được nhận bằng 50% tổng số tiền Khách hàng gửi.
- Đặc tính sản phâm
Đối tượng: Khách hàng cá nhân.
Kỳ hạn gửi: Từ 12 tháng đến 60 tháng.
Loại tiền gửi: VND và USD.
số tiền gửi tối thiểu: 10,000,000 đồng hoặc 700
usd
Lãi suất: Theo Biểu lãi suất sản phẩm tiền gửi “Tiết kiệm Nhân văn” mà SCB công bổ tại
thời điểm gửi.
Cách thức trả lãi: Lĩnh lãi hàng tháng và lĩnh lãi cuối kỳ.
Rút tiền: Khách hàng không được rút vốn trước hạn.
Năm 2008
Từ sau cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2008 các ngân hàng thương mại và công ty bảo

hiểm có cái nhìn “tròn trịa “ về dịch vụ.
Từ ngày 18/6/2008, Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIC) sẽ
triển khai bốn sản phẩm bảo hiểm qua kênh Bancassurance tại gần 500 điểm giao dịch của
BIDV trên toàn quốc. Bốn sản phẩm bảo hiểm mà BIC chuẩn bị phân phối qua hệ thống
ngân hàng BIDV bao gồm: bảo hiểm ô tô, bảo hiểm xe máy, bảo hiểm tai nạn con người
24/24 và bảo hiểm nhà tư nhân.
Sacombank tiếp tục liên kết với công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ Prévoir Việt Nam cho ra
đời sản phẩm “Bảo an - Phát Lộc” và “Bảo an - Tích lũy”. Sản phẩm “Bảo an - Phát Lộc”
được hiểu là sản phẩm tiền gửi gắn kết bảo hiểm rủi ro toàn diện cho khách hàng tiết kiệm
tiền gửi trong Hợp đồng phân phối sản phấm giữa công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ
Prévoir Việt Nam và Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín. Đối
`
tượng khách hàng là cá nhân có độ tuôi tù’ 18-60, đủ điều kiện gửi tiên tiết kiệm theo Quy
chế về Tiền gứi tiết kiệm. Lọai hình tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn lĩnh lãi cuối kỳ. Bao gồm
các kỳ hạn: 6, 9, 12, 18, 24, 36 tháng. Loại hình bảo hiểm: Nhân thọ tử kỳ. Sản phẩm “Bảo
an - Tích hiỹ” định kỳ được hiểu là sản phẩm tiền gửi gắn kết bảo hiểm cho khách hàng tiết
kiệm tích luỳ “Vì tương lai” trong Hợp đồng phân phối sản phẩm giữa công ty TNHH Bảo
hiểm Nhân thọ Prévoir Việt Nam và Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín. Đối tượng
khách hàng là cá nhân có độ tuổi từ 18-60, đủ điều kiện gửi tiền tiết kiệm theo Quy chế về
Tiền gửi tiết kiệm. Lọai hình tiền gửi: tiết kiệm tích lũy bao gồm các kỳ hạn: 1, 2, 3, 4, 5
năm. Loại hình bảo hiểm: Nhân thọ tử kỳ.
Năm 2009
23/06/2009 : Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SHB) và Công ty Bảo Hiểm SHB- Vinacomin
(SVIC – công ty do SHB, Tập đoàn Than – khoáng sản Việt Nam cùng các đối tác khác là
cổ đông sang lập) đã hợp tác triển khai dịch vụ bancassurance cung cấp các loại bảo hiểm
đa dạng kết hợp với dịch vụ ngân hàng.
07/09/2009: ABBANK và Công ty Bảo Hiểm nhân thọ Prudential Việt Nam đã tổ chức Lễ
công bố mở rộng hợp tác giữa hai bên sau thành công bước đầu của dịch vụ bán sản phẩm
bảo hiểm qua ngân hàng.
25/09/2009 : CTCP Bảo hiểm Quân đội (MIC) và NHTMCP Quân đội (MB) đã ra mắt sản

phẩm mới Bancassurance .
Năm 2010 :
đã lên tới 50 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này (11 doanh nghiệp bảo hiểm nhân
thọ, 28 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 10 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và 1 công
ty tái bảo hiểm).
Ngày 15/10/2010 công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential Việt Nam đã chính thức giới thiệu
ra thị trường sản phẩm bảo hiểm mới ‘‘Phú - Bảo Nghiệp”. Đây là sản phẩm bảo hiểm
nhóm được thiết kế đặc biệt dành cho các tổ chức, doanh nghiệp mua cho nhân viên của
mình.Với tiêu chí “Chinh phục niềm tin, gắn kết lâu dài”, “Phú - Bảo Nghiệp ” là giải pháp
ưu việt giúp người sử đụng lao động tăng cường phúc lợi cho nhân viên, duy trì sự ổn định
và phát triển nguồn nhân lực. Sản phẩm bảo hiếm này ra đời đã đáp ứng được nhu cầu của
thị trường nhân sự trong việc bảo vệ tài sản quan trọng nhất của doanh nghiệp: con người.
“Phú - Bảo Nghiệp” không chỉ tạo điều kiện cho bản thân nhân viên được bảo vệ mà còn
giúp họ hoàn thành tôt nghĩa vụ chăm sóc, bảo vệ những người thân trong gia đình; tù' đó
tạo ra động lực gắn bó với công việc. Sản phẩm này đáp ứng được nguyện vọng từ cả hai
phía là người lao động và người sử dụng lao động: bảo vệ toàn diện, nhẹ bớt gánh nặng tài
chính cho bản thân người lao động và gia đình; đồng thời tạo dựng hình ảnh tốt về tổ chức
và doanh nghiệp, tránh được những rủi ro về khủng hoảng nhân sự.
Tính đến hết năm 2010, công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
( BIC) đã đặt quan hệ hợp tác với 22 ngân hàng / chi nhánh ngân hàng ngoài BIDV , dẫn
đầu thị trường về mạng lưới ngân hàng liên kết.
`
Tuy nhiên Bancassurance vân là một kênh phân phối có thể khá mới đối với thị trường Việt
Nam. Sau 10 năm triển khai hoạt động Bancasurance toàn thị trường Việt Nam vẫn chưa tới
5%.
Năm 2011:
BIC đã ra mắt kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua internet mở đầu chiến lược đẩy
mạnh bảo hiểm cá nhân. Kênh bancassurance trực tuyến , ứng dụng phần mềm bán bảo
hiểm trực tuyến tại các điểm giao dịch ngân hàng BIDV , đây được xác định là kênh tiềm
năng, khác biệt mang lại hiệu quả lâu dài chi BIC.

Năm 2012:
không chỉ các ngân hàng nội địa vốn có quan hệ và thị phần trên nhiều vùng miền cả nước
mới bắt tay với công ty bảo hiểm để triển khai bán bảo hiểm qua ngân hàng, lĩnh vực này
cũng được các ngân hàng ngoại nhận thấy tiềm năng lớn của thị trường bảo hiểm Việt Nam.
17/10/2012 Citibank chính thức thông báo về việc hợp tác phân phối các sản phẩm bảo
hiểm phi nhân thọ với Công ty Bảo hiểm Chartis Việt Nam , một tập đoàn bảo hiểm hàng
đầu thế giới. Citibank cùng Chartis mang đến cho khách hàng Việt Nam những sản phẩm và
dịch vụ đẳng cấp quốc tế, bao gồm Bảo hiểm xe ô tô, Bảo hiểm nhà và Bảo hiểm thẻ, giúp
khách hàng bảo vệ bản thân, gia đình và tài sản. Điểm đặc biệt là các sản phẩm này được
thiết kế dành riêng cho khách hàng của Citibank.
Đồng thời, ANZ và AIA Việt Nam cũng đã bắt đưa sản phẩm bảo hiểm nhân thọ “An Lộc
Phát” vào thị trường. Theo đó, sản phẩm được phân phối độc quyền thông qua hệ thống các
văn phòng giao dịch và các chi nhánh của ANZ trên phạm vi toàn quốc. ANZ và AIA cũng
đã phối hợp triển khai “An Phát trọn đời”.
Ngày 1/2/2012 , Dai-ichi Life Việt Nam đã bắt tay với Sacombank (ngân hàng thứ 2,
sau Eximbank) triển khai phân phối các sản phẩm qua hệ thống ngân hàng. Theo đó, Dai-
ichi sẽ giới thiệu ra thị trường sản phẩm “An tâm tín dụng”, một sản phẩm tương tự khi kết
hợp với Eximbank .
Ngày 10/2/2012, Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Việt sẽ hợp tác với MaritimeBank
trong việc phát triển bancassurance. Công ty mẹ của Bảo hiểm Bảo Việt, Tập đoàn Bảo Việt
(Bảo Việt) cho biết, đang tìm kiếm các đối tác mới để mở rộng kênh phân phối, đưa sản
phẩm ngày càng gần hơn tới mọi đối tượng người tiêu dùng; sớm đưa ra thị trường các sản
phẩm bancassurance hấp dẫn và tiện dụng như sản phẩm bảo hiểm người vay, bảo hiểm chủ
thẻ tín dụng, bảo hiểm nhân sự chủ chốt, bảo hiểm người gửi tiền như sản phẩm Bảo hiểm
nhà tư nhân và An Phát trọn đời.
Tóm lại, nhìn sơ lược sư phát triển
Trong các năm tới bán bảo hiểm qua kênh ngân hàng được các chuyên gia dự báo sẽ tiếp tục
tăng trưởng ở mức độ cao so với kênh truyền thống ( đại lý, môi giới, trực tiếp).
3.2 . Đặc điểm liên kết ngân hàng - bảo hiểm ở Việt Nam
Thứ nhất, các sản phẩm của hoạt động Bancassurance ở Việt Nam hiện nay thường mang

đặc điểm của các bảo hiểm nhân thọ, loại sản phẩm bảo hiểm mang yếu tố tích lũy tài chính,
sản phẩm dài hạn, thuận lợi hơn cho việc bán hàng loạt. Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ giới
`
thiệu qua ngân hàng có thể là những sản phẩm truyền thống hoặc là những sản phẩm hoàn
toàn đặc trưng cho lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ qua ngân hàng ví dụ như bảo hiểm nhân thọ
cho vay thế chấp - tín chấp, bảo hiểm nhân thọ cho người gửi tiền, sản phẩm “Tiết kiệm
định kỳ vì tương lai” của Techcombank. Tuy nhiên, phần trăm doanh thu phí bảo hiểm từ
bảo hiểm nhân thọ trong hoạt động Bancassurance ở Việt Nam dường như còn rất khiêm tốn
so với kết quả của thế giới. Nếu so sánh với con số khoảng 66.67% của Tây Ban Nha, thì
con số vài phần trăm ở Việt Nam chỉ thể hiện được sự non trẻ.
Thứ hai, các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ trong hoạt động Bancassurance ở Việt Nam
có sự phát triển khá đặc biệt, ngược với xu hướng của thế giới. Trong khi doanh thu phí bảo
hiểm trong hoạt động Bancassurance trên thế giới chủ yếu đến từ các sản phẩm bảo hiểm
nhân thọ, thì ở Việt Nam, doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ lại có được kết quả doanh
thu phí bảo hiểm từ Bancassurance ấn tượng hơn nhiều so với các doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ. Đã có doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, doanh thu phí bảo hiểm có được từ
kênh phân phối này chiếm tỷ trọng quá bán trong tổng doanh thu phí bảo hiểm, thậm chí
tuyệt đối lớn (trên 80%) đối với một số loại sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ như bảo hiểm
xe cơ giới.
Thứ ba, hoạt động Bancassurance ở Việt Nam dường như vẫn còn ở trong tình trạng sơ
khai, thăm dò. Các ngân hàng chủ yếu vẫn chỉ đóng vai trò làm đại lý bán sản phẩm cho các
công ty bảo hiểm, chứ chưa có được những hướng đi chủ động mạnh mẽ. Ở nhiều ngân
hàng, hợp tác đơn thuần là việc ngân hàng cho công ty bảo hiểm mượn chỗ để bán sản
phẩm. Doanh thu phí từ hợp đồng mới do kênh bancassurance mang lại trong năm 2008 chỉ
chiếm chưa đầy 1% tổng doanh thu phí từ hợp đồng mới toàn ngành bảo hiểm, trong khi tại
Singapore con số này xấp xỉ 20%; Hồng Kông gần 30%; Malaysia và Trung Quốc là gần
10% (theo tổng hợp của PVN). Đánh giá một cách khách quan thì trong thời gian qua, việc
hợp tác giữa ngân hàng và công ty bảo hiểm ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chế, chưa tương
xứng với tiềm năng của hai bên.
Thứ tư, Bancassurance ở Việt Nam đã đang phát triển một hệ thống marketing thân thiện

với xu hướng xúc tiến và mở rộng việc cung cấp nhiều loại hàng hoá, dịch vụ khác nhau cho
các đối tượng khách hàng hiện có. Bước đi sáng kiến này có thể tạo thêm một tiềm lực phát
triển cho hoạt động Bancassurance ở Việt Nam trong tương lai.
3.3.Các loại hình hoạt động bancasurance ở Việt Nam
Việc cung cấp sản phẩm bảo hiểm qua kênh ngân hàng được thể hiện ở nhiều cấp độ khác
nhau tuỳ thuộc vào mức độ liên kết giữa ngân hàng và công ty bảo hiểm.
Hiện nay, tại Việt Nam, đã có những bước phát triển và những kết quả nhất định, các hình
thức hoạt động cũng đã được mở rộng và ngày càng phong phú hơn
3.3.1Hợp tác phân phối:
Ngân hàng ký thoả thuận phân phối sản phẩm cho công ty bảo hiểm và nhận hoa hồng phí.
Đây là hình thức đơn giản nhất, nhưng đang hoạt động có hiệu quả nhất, theo đó ngân hàng
đóng vai trò như là một đại lý của công ty bảo hiểm.
`
Trong hơn 10 năm có mặt tại thị trường Việt Nam, bancassurance đã phát triển qua nhiều
loại hình hoạt động nhưng loại hình thỏa thuận phân phối sản phẩm giữa công ty bảo hiểm
và ngân hàng là loại hình phổ biến nhất. Điển hình như:
Ngày 1/8/2006, liên kết giữa Bảo Việt nhân thọ và techcombank đã cho ra đời sản phẩm
bancassurance đầu tiên tại Việt Nam “Tài khoản Tiết kiệm giáo dục” và “Bảo hiểm tín dụng
cho nhà mới và ô tô xịn”. Ngày 20/11/2007, tiếp tục cho ra mắ 2 sản phẩm là sự kết hợp
“An tâm tiêu dùng”(Bảo Việt) và “cho vay tiêu dùng”, “cho vay trả góp mua hàng”
(techcombank).
26/12/2007, sacombank và Bảo Việt nhân thọ đã ký kết triển khai sản phẩm là sự kết hợp
của “ an nghiệp thành công” và “ tiết kiệm nhân văn”
6/11/2009, HDBank sẽ làm tư vấn, giới thiệu Bảo Việt là nhà cung cấp các sản phẩm bảo
hiểm phi nhân thọ cho khách hàng của mình.
23/7/2010, Habubank chính thức trở thành đại lý phân phối các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
của Bảo hiểm Bảo Việt.
Bên cạnh đó, Prudential cũng có một số liên kết đối với các ngân hàng như ACB,
Vietcombank để bán BH và còn liên kết với Agribank để triển khai một số dự án…
3.3.2Mô hình liên kết chiến lược:

Ở các mô hình khác, ngân hàng hợp tác với công ty bảo hiểm để nhận hoa hồng là chủ yếu
nhưng ở kiểu mô hình liên kết này, ngân hàng sẽ mua lại toàn bộ công ty bảo hiểm để làm
chủ, kiểm soát và nhận toàn bộ lợi nhuận từ công ty bảo hiểm này hoặc mua lại một phần
công ty bảo hiểm (mua cổ phần công ty bảo hiểm) để nhận thêm lợi nhuận được chia từ
công ty bảo hiểm ngoài số tiền hoa hồng nhận được.
Tại Việt Nam, mô hình liên kết này chưa phát triển mạnh do trình độ khoa học kĩ thuật còn
hạn chế, Bên cạnh đó, trên 90% doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ của thị trường là từ các
sản phẩm tiết kiệm, do vậy tạo ra sự cạnh tranh trực tiếp đối với tiết kiệm ngân hành, chưa
có nhiều sản phẩm đặc biệt, uy tín và thương hiệu của các ngân hàng vẫn còn khá mới mẻ
so với các nước. Tuy nhiên trong những năm gần đây, một số ngân hàng cũng đã triển khai
mô hình liên kết này và đạt được những thành quả nhất định. Điển hình như:
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) mua lại toàn bộ phần vốn góp của tập
đoàn Bảo hiểm Quốc Tế QBE (Úc) (công ty liên doanh với BIDV trước đó) và chính thức đi
vào họa động kể từ ngày 1/1/2006. Kể từ năm 2006, doanh thu thuần từ hoạt động kinh
doanh bảo hiểm của BIC đã liên tục tăng, năm 2011 đạt 108,286 tỷ đồng, tăng 87,588 tỷ
đồng so với năm 2005. Theo thống kê của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, hiện nay BIC đang
đứng thứ 6/29 công ty bảo hiểm phi nhân thọ về thị trường trong 5 năm qua. Ngoài ra, BIC
còn là công ty dẫn đầu thị trường về phát triển kênh Bancassurance, các kênh bảo hiểm trực
tuyến (E- business) và là công ty bảo hiểm đầu tiên có mạng lưới hoạt động rộng tại thị
trường Đông Dương
Khác với BIDV, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam Vietcombank mua 10% cổ phần của
Công ty cổ phần bảo hiểm petrolimex PIJCO: Vietcombank là 1 trong những cổ đông sáng
lập của công ty cổ phần bảo hiểm petrolimex. Với 10% cổ phần, việc thực hiện liên kết này
`
cũng đem lại cho VCB một phần thu nhập trong việc nhận cổ phần từ lợi nhuận được chia
của công ty bảo hiểm này. Cụ thể: tổng lợi nhuận trước thuế của PIJCO trong những năm
gần đây tăng lên đáng kể, chỉ trong 2 năm 2008 đến 2010 tăng khảng 27,34 tỷ đồng( Năm
2008 đạt 55 tỷ VND, đến năm 2010 đạt 82,34 tỷ). Như vậy, ngoài tiền hoa hồng nhận được
từ phân phối sản phẩm bảo hiểm thì cổ tức cũng được hưởng khá cao.
3.3.3Mô hình liên doanh:

Khái niệm: Ngân hàng và công ty bảo hiểm liên doanh thành lập công ty bảo hiểm mới. Cơ
sở khách hàng được chia sẻ giữa ngân hàng và công ty bảo hiểm.
Tại thị trường bảo hiểm Việt Nam, từ những năm 2008 trở về trước, hoạt động
bancassurance chưa thực sự phát triển, chỉ dừng lại ở việc hợp tác giữa ngân hàng và côn ty
bảo hiểm nhân thọ theo hình thức các công ty Bảo hiểm nhân thọ nhờ ngân hàng là nơi phân
phối sản phẩm.
Tới năm 2009, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã bắt tay vào một cuộc chơi mới bằng
cách liên doanh với công ty bảo hiểm nước ngoài Cardif- thuộc công ty bảo hiểm BNP và
ngân hàng thương mại Đông Nam Á thành lấp công ty liên doanh bảo hiểm VCLI với mức
vốn điều lệ 600 tỷ đồng theo tỷ lệ góp vốn tương ứng là vietcombank (45%) Cardif (43%)
và Seabank (12%). VCLI cung cấp các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ truyền thống và các sản
phẩm bảo hiểm nhân thọ gắn liền với các hoạt động của ngân hàng, Hiện tại VCLI cung cấp
các sản phẩm bao gồm: bảo hiểm tín dụng cá nhân, bảo hiểm tín dụng nhóm, bảo hiểm tín
dụng cho 2 người đồng vay và bảo hiểm tử kỳ.
VCLI là công ty chuyên nghiệp đầu tiên của lĩnh vực bảo hiểm kết hợp với ngân hàng tại
Việt Nam, phân phối sản phẩm BCS một các bài bản, cung cấp sản phẩm bảo hiểm và ngân
hàng thông qua 1 kênh phân phối chung cho cùng 1 cơ sở khách hàng. VCLI mang đến cho
thị trường bảo hiểm Việt Nam một bức tranh toàn diện hơn, đầy đủ hơn và hiệu quả hơn cho
lĩnh vực BCS vốn vẫn còn đang bỏ ngỏ.
Tuy mới thành lập nhưng VCLI đã có những kết quả khả quan. Tổng lợi nhuận trước thuế
năm 2010 của công ty đạt 30.246 triệu đồng. Trong 5 tháng đầu năm 2011, VCLI đã phân
phối thành công sản phẩm bảo hiểm tử kỳ với doanh thu gần 6,2 tỷ đồng tương ứng 6984
hợp đồng xếp thứ 2 trong nghiệp vụ bảo hiểm tử kỳ của thị trường bảo hiểm nhân thọ (sau
Prudential)
VCLI đạt được kết quả như trên là do công ty đã hội tụ các thế mạnh như: kỹ thuật chuyên
môn, kinh nghiệm kinh doanh BCS của công ty BNP Paribas Assurance trên thị trường
quốc tế, thêm vào đó là sự am hiểu sâu sắc thói quen tiêu dùng của khách hàng, mạng lưới
chi nhánh rộng khắp trên toàn quốc và khối lượng khách hàng đầy tiềm năng của hai ngân
hàng đầu Việt Nam là Vietcombank và Seabank. Kết hợp với thế mạnh về sản phẩm hấp
dẫn, đáp ứng nhu cầu bảo vệ thiết yếu, mạng lưới triển khai phân phối đơn giản, hiệu quả,

VCLI dự tính sẽ nhanh chóng đạt hiệu quả kinh doanh cao trong thời gian ngắn.
3.3.4.Tập đoàn tài chính:
Ở cấp độ này có sự kết hợp hoàn toàn giữa hoạt động ngân hàng và hân phối sản phẩm bảo
hiểm. Do công ty bảo hiểm và ngân hàng đều thuộc một tập đoàn nên việc sử dụng cơ sở dữ
`
liệu của nhau trở nên dễ dàng hơn và không gặp vấn đề về bảo mật thông tin. Đây là mô
hình trong tương lai sẽ hình thành tập đoàn dịch vụ tài chính ngân hàng vững mạnh.
Tháng 1/2006, ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) đã đi đầu trong việc thực
hiện mô hình này khi đứng ra thành lập công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam (BIC). Tiền thân của BIC là Liên doanh Bảo hiểm Việt-Úc (liên doanh giữa
BIDV và công ty bảo hiểm quốc tế QBE của Úc) hoạt động tại thị trường Việt Nam từ năm
199, nhưng cho đến khi BIC ra đời thì hoạt động BCS của BIDV và BIC mới có bước phát
triển vượt bậc. Chỉ trong một năm tổng doanh thu của BIC tăng hơn gấp 3, từ xấp xỉ 50 tỷ
đồng lên vượt mức 160 tỷ đồng. Đến năm 2009, doanh thu qua kênh BCS đã chiếm 9,6%
trong tổng doanh thu bảo hiểm gốc của BIC, và đến năm 2010, doanh thu của BIC qua BCS
đã đạt 62 tỷ đồng, tăng trưởng 66% so với năm 2009. Các sản phẩm BCS có thể kể đến như
sau:
BIC – Bình An: sản phẩm bảo hiểm được tặng dành cho các khách hàng vay vốn bằng hình
thức tín chấp tại ngân hàng BIDV. Công ty BIC sẽ thay khách hàng trả toàn bộ khoản nợ
còn lại tại ngân hàng khi có những rủi ro không lường trước được.
BIC – Vía Gold: là sản phẩm kết hợp giữa thẻ Vía Gold của BIDV và sản phẩm bảo hiểm
chủ thẻ tín dụng của BIC, đảm bảo cho tính mạng và sức khỏe khách hàng 24/24 giờ trên
phạm vi toàn cầu và mức chi trả tối đa lên tới 50 triệu đồng.
BIC – An sinh toàn diện: là sản phẩm bảo hiểm con người được tích hợp sản phẩm huy
động tiền gửi tiết kiệm của BIDV. Khi khách hàng tham gia gửi tiền tích lũy định kỳ tại
BIDV sẽ được tăng bảo hiểm BIC –An sinh toàn diện. Khi khách hàng chẳng may gặp rủi ro
tai nạn không lường trước được, BIC sẽ thay mặt chủ tài khoản tiếp tục gửi tiền theo cam
kết trong suốt thời gian còn lại.
Sau khi BIC được thành lập, ngày 8/8/2007 đến lượt công ty Bảo hiểm ngân hàng nông
nghiệp (ABIC) ra đời với vốn đầu tư hoàn toàn từ ngân hàng Agribank. Mô hình mới mà

ABIC triển khai đã cho kết quả cực kì khả quan. Tỷ trọng doanh thu BCS tại ABIC chiếm
27,5% năm 2008, 49% năm 2009, 56,6% năm 2010, tương đương với những nước có BCS
phát triển. Tổng kết 3 năm đã chạm mốc 217,5 tỷ đồng.
BIDV và Agribank đang phát triển theo đúng định hướng trở thành tập đoàn tài chính
ngân hàng hùng mạnh tại Việt Nam.
3.4 Cơ hội và thách thức đối với bancasurance ở Việt Nam
Môi trường chính trị-pháp luật:
-Nền chính trị khá ổn định
-Chưa có khung pháp lý rõ rang đối với
các hình thức liên kết giữa ngân hang
vào bảo hiểm
-Tạo môi trường
thuận lợi để các
doanh nghiệp phát
triển, điển hình là
các ngân hang vào
công ty bảo hiểm
-Rủi ro chính
sách từ các quy
định có thể thay
đổi các dự định
Bancassurance
`
Môi trường kinh tế:
-9 tháng đầu năm 2013, GDP của VN
đã tăng khoảng 5,14% so với cùng kỳ
năm 2012; thu nhập bình quân đầu
người ước đạt 1.854 USD/người( năm
2012 là 1.749 USD/người)
-Lạm phát cao, CPI tháng 8-2013 tăng

0,83% so với tháng trước; tăng 3,53%
so với tháng 12-2012 và tăng 7,5% so
với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân
tám tháng đầu năm nay tăng 6,90% so
với bình quân cùng kỳ năm 2012.
Nguồn
-Đời sống của
người dân được cải
thiện, từ đó nhu cầu
về bảo hiểm cũng
ngày càng tăng cao
-Rủi ro tín dụng gia
tăng dẫn đến tăng
nhu cầu mua bảo
hiểm cho nhứng
khoản vay
-Rủi ro đầu tư
của quốc gia cao
có thể làm nản
lòng các bên bên
tham gia nước
ngoài
Kỹ thuật- công nghệ:
-Thực tế ứng dụng công nghệ thong tin
(CNTT) trong ngành Bảo hiểm-ngân
hang còn thấp.
Mua sắm qua mạng đã và đang rất phổ
biến ở Việt Nam
-Thuận tiên trong
việc phân phối các

kênh Bancassurance
-Đòi hỏi một nền
tảng công nghệ
hiện đại phù hợp
phát triển nhanh
cùng với nhu cầu
phát triển
Xã hội-văn hóa:
-Dân số trẻ, với 53 triệu người trong độ
tuổi lao động, chiếm 58,9% dân số. Đời
sống vật chất, tinh thần, trình độ dân trí
trung bình toàn xã hội không ngừng
được cải thiện
-Tập quán bảo hiểm nước ta còn nhiều
mới mẻ
-Lực lượng lao
động đồi dào, tạo
thị trường tiêu thụ
lớn; dễ dàng trở
thành thị trường
tiềm năng
-Gây dựng lòng
tin về các sản
phẩm bảo hiểm ở
khách hàng
Môi trường tự nhiên:
-Địa lý: nước ta có khí hậu nhiệt đới gió
mùa, về địa lý thì nước ta giáp biển
Đông với đường bờ biển dài 3.260km
-Tình hình thiên tai, dịch bệnh nước ta

vẫn rất hay xảy ra, vì vậy rủi ro về tính
mạng hoặc thiệt hại tài sản là tất yếu
xảy ra
-Phát triển bảo hiểm
hàng hải thông qua
ngân hang
-Tạo điểu kiện phát
triển bảo hiểm nhân
thọ và cả phi nhân
thọ
Môi trường quốc tế:
-Nước ta đang trong tiến tình hội nhập
quốc tế, gia nhập WTO, Việt Nam đã
thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170
quốc gia trên thế giới, ký kết trên 90
-Có điều kiện tiếp
cận với các công
nghệ hiện đại, phù
hợp với chuẩn mực
và thông lệ quốc tế
-Cạnh tranh ngày
càng khốc liệt đòi
hỏi các sản phẩm
liên kết phải đa
dạng chất lượng
`
Hiệp định thương mại song phương
-Việc các ngân hàng nước ngoài thành
lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại
Việt Nam và triển khai kế hoạch mở

rộng kinh doanh
-Khu vực ngân
hàng sẽ phát triển
với tốc độ nhanh
chóng trong thời
gian từ 2011-2015
3.5 Thành tựu và hạn chế
3.5.1 Thành tựu
Tại Việt Nam , sự xuất hiện ngày càng nhiều các thỏa thuận hợp tác mới giữa DNBH và NH
đã chứng minh cho sự phát triển nhanh chóng của xu hướng này. Không chỉ xuất hiện ở
phân khúc thị trường bảo hiểm nhân thọ, hiện nay tại phân khúc thị trường phi nhân thọ ,
kênh bancassurance còn phát triển với tốc độ nhanh hơn và đang được đánh giá là thành
công hơn so với khối nhân thọ do sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ thường đơn giản dễ bán
hơn. Mặt khác các NH cũng tỏ ra chuộng sản phẩm phi nhân thọ để bảo vệ vốn vay cho
chính ngân hàng. VD như sản phẩm bảo hiểm chăm sóc sức khỏe , y tế có doanh thu bán
hàng khá cao , có ngân hàng thậm chí bán được 700 tỉ đồng /năm
Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường năm 2012 ước đạt 40.858 tỷ đồng, tăng 11,7%
so với năm 2011; trong đó doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 22.942 tỷ đồng,
tăng 11,5% và doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ ước đạt 17.916 tỷ đồng, tăng 12% so với
năm 2011.
Năm 2012 , Bảo hiểm Bảo Việt đã thu về 140 tỉ đồng doanh thu phí bảo hiểm gốc qua kênh
bancassurance từ 3 ngân hàng HSBC , Bảo Việt và Maritime.Với kết quả này , Bảo hiểm
Bảo Việt đã hoàn thành vượt kế hoạch gần 5% tăng trưởng gần 40% so với năm 2011
Đối với công ty Bảo hiểm Nhân thọ Vietcombank-Cardif (VCLI), doanh thu từ hoạt động
bancassurance tăng từ dưới 29 tỷ đồng năm 2011 lên đến 50 tỷ đồng năm 2012.
Công ty manulife Việt Nam có doanh thu từ kênh bảo hiểm liên kết ngân hàng năm 2012
tăng 85% so với năm 2011. Đặc biệt, trong quý I/2013, doanh thu từ kênh bảo hiểm liên kết
ngân hàng của Manulife tiếp tục tăng trưởng vượt trội với mức tăng 360% so với cùng kỳ
năm ngoái.
Tính đến 31/5/2013, toàn hệ thống Agribank đã có 130 chi nhánh cấp I ký hợp đồng tổng

đại lý cho ABIC, trong đó 94 tổng đại lý tham gia triển khai mô hình kênh phân phối
Bancassurance. Cùng với đó, ABIC đã phối hợp với các chi nhánh Agribank tổ chức 228
khóa đào tạo cho hơn 22 nghìn lượt cán bộ Agribank tham dự. Kết quả là từ năm 2008 đến
nay, doanh thu phí bảo hiểm qua mô hình Bancassurance tăng trưởng mạnh mẽ, từ 50,9 tỷ
đồng (năm 2008) lên hơn 338 tỷ đồng (năm 2012).
3.5.2 Hạn Chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì bancansurance vẫn còn tồn tại không ít những
hạn chế, yếu kém . Cụ thể
Bancassurance đòi hỏi phải được thiết lập dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, nhưng có
thể nói đây là điểm yếu của các ngân hàng và công ty bảo hiểm tại VN (ngoại trừ các ngân
`
hàng và công ty bảo hiểm có yếu tố vốn nước ngoài). Khó khăn này không thể khắc phục
trong một sớm một chiều mà cần phải mất một thời gian khá dài và tốn kém khá nhiều chi
phí.
Công tác tuyên truyền để khách hàng hiểu và mua sản phẩm bảo hiểm từ ngân hàng là trở
ngại ko hề nhỏ. Hầu hết khách hàng đều không biết có thể mua sảm phẩm bảo hiểm từ ngân
hàng. . Một cuộc khảo sát tại Mỹ, quốc gia có hình thức Bancassurance phát triển nhất, đã
đưa ra con số khiến nhiều nhà cung cấp dịch vụ tài chính ngạc nhiên, chỉ 39% số người
được hỏi biết rằng họ có thể mua bảo hiểm nhân thọ tại ngân hàng.
Còn tại VN tập quán tham gia bảo hiểm mới bắt đầu hình thành , phần đông dân chúng chưa
hiểu rõ về bảo hiểm, còn e ngại tham gia các hợp đồng bảo hiểm dài hạn, các phương tiện
thông tin đại chúng đôi khi còn gây nhiều sai lệch về bảo hiểm … trong khi đó, cán bộ ngân
hàng không có đủ thời gian và nghiệp vụ để giải thích những tiện ích của sản phẩm cho
người mua bảo hiểm. Chính điều này mà bancanssuarance còn chua thực sự được phát triển.
Tại Việt Nam, bancassurance vẫn là hình thức mới mẻ, hứa hẹn nhiều tiềm năng. Tuy nhiên,
thị trường trong nước lại đang thiếu hụt các gói sản phẩm BH thiết kế dành riêng cho kênh
phân phối bancassurance và cho khách hàng. Trong hai hình thức bảo hiểm nhân thọ và phi
nhân thọ, Bancassurance được triển khai hữu hiệu đối với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ.
Nhưng, thị trường bảo hiểm nhân thọ của Việt Nam chưa thực sự phát triển, một phần do
mức sống người dân còn thấp, tập quán chưa quen mua bảo hiểm và một phần do thiếu

những chính sách khuyến khích mảng dịch vụ này phát triển.
Trong khi đó thì một số sản phẩm bảo hiểm của các công ty bảo hiểm có hình thức tương
tự với một số sản phẩm của ngân hàng (tiết kiệm tích lũy, tiết kiệm định kỳ…). Vì vậy, nếu
không xây dựng được phương án hợp tác hiệu quả giữa ngân hàng và công ty bảo hiểm có
thể ngân hàng sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh giành khách hàng với các công ty bảo hiểm là
đối tác của ngân hàng.
Kiến thức chung về bảo hiểm và các kỹ năng bán sản phẩm bảo hiểm của cán bộ ngân hàng
còn nhiều hạn chế:
+ Thiếu sự chuyên nghiệp trong các thỏa thuận hợp đồng, thấu hiểu khách hàng,
marketing phát triển sản phấm.
+ Thiếu sự thống nhất, đồng hợp tác phát triển thương hiệu với các sản phẩm ngân hàng.
+ Các ngân hàng còn thiếu kiến thức về bảo hiểm, khả năng tư vấn cho khách hàng còn
nhiều hạn chế.
Kỹ năng bán chéo sản phẩm (kết hợp giữa sản phẩm ngân hàng và sản phẩm bảo hiểm) yếu
và thiếu của đội ngũ cán bộ ngân hàng là trở ngại lớn để ngân hàng triển khai mảng dịch vụ
mới này.
Bancassurance sẽ gắn liền thương hiệu của ngân hàng với thương hiệu của các công ty bảo
hiểm. Do đó, nếu xảy ra những trường hợp như: Công ty bảo hiểm làm ăn kém hiệu quả,
gian dối, khách hàng không hài lòng, công ty bảo hiểm phải bồi hoàn tiền bảo hiểm trong
một vụ tai nạn lớn; công ty bảo hiểm không có một kế hoạch hợp lý để tiếp xúc với khách
hàng của ngân hàng hoặc đội ngũ nhân viên của các công ty bảo hiểm không chuyên nghiệp,
`
giao tiếp với khách hàng vụng về… sẽ ảnh hưởng nhất định đến tâm lý của khách hàng và
sự tín nhiệm của khách hàng đối với thương hiệu của ngân hàng. Điều này có thể gây tâm lý
e dè của một số ngân hàng trước khi hợp tác với các công ty bảo hiểm.
Được biết, đối với kênh bancassurance, dù các DN bảo hiểm có trả phí cao hơn so với quy
định, thì so với việc chi trả cho các đại lý, chi phí này vẫn thấp hơn. Tuy nhiên, các chuyên
gia trong ngành cũng cảnh báo, việc trả phí cao để tăng doanh thu chiếm lĩnh thị phần qua
kênh bán hàng đang được chú ý này có thể nhanh chóng tạo ra làn sóng cạnh tranh không
lành mạnh. Điều đáng e ngại hơn cả là hiện tượng cạnh tranh trong việc trả phí cao cho ngân

hàng xảy ra phổ biến với sản phẩm bảo hiểm xe cơ giới, nghiệp vụ đang có sự cạnh tranh
khốc liệt bằng hạ phí không tương xứng với rủi ro hoặc tăng hoa hồng đại lý bằng chính
sách trợ giúp kinh phí… Chính điều này đã khiến nhiều nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tuy
đem lại doanh thu cao, tăng trưởng tốt, nhưng vẫn lỗ đều trong những năm qua.
Minh bạch trong tài chính của các ngân hàng ở VN còn kém, điều này đã tạo trở ngại lớn
trong việc chia sẻ dữ liệu khách hàng giữa ngân hàng với công ty bảo hiểm.
Các công ty bảo hiểm vẫn chưa có sự hợp tác thực sự nhiệt tình từ phía ngân hàng. Các
công ty bảo hiểm hiện nay đang phải đối mặt với những khó khăn như: chưa giải quyết
được mâu thuẫn giữa kênh bán hàng này với kênh bán hàng cũ, ví dụ như là bán trực tiếp
qua các đại lí. Trong khi đó, với kênh bancanssuarance cần phải có 1 chương trình thúc đấy
động lực tới các nhân viên ngân hàng thực hiện bán chéo sản phẩm của bảo hiểm.
Trên thực tế, hoạt động Bancassurance ở VN hiện chỉ mới ở mức độ sơ khai dưới hình thức
ngân hàng làm đại lý bán các sản phẩm cho công ty bảo hiểm. Ở nhiều ngân hàng, hợp tác
đơn thuần là việc ngân hàng cho công ty bảo hiểm mượn chỗ để bán sản phẩm. Kết quả
khảo sát mới đây của Bảo Việt cho thấy, nếu như doanh thu phí bảo hiểm qua hệ thống ngân
hàng ở Hồng Kông là 40%, ở Pháp là 70% thì ở VN chưa được 1,5%. Việc tăng tốc phát
triển Bancassurance ở VN trong thời gian trước mắt là chưa thể xảy ra vì điều kiện hạ tầng
công nghệ, trình độ nhận thức của người dân về ngân hàng và bảo hiểm còn hạn chế.
3.6 Giải pháp
Để hoạt động bancanssuarance thành công cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa hai bên là ngân
hàng và công ty bảo hiểm. Phải có sự cam kết mạnh mẽ giữa ngân hàng và công ty bảo hiểm
ở tất cả các cấp thực hiện, đặc biệt là cam kết của cấp lãnh đạp cao nhất. Đồng thời phải tổ
chức tốt việc thực hiện thỏa thuận bancanssuarance trên thực tế và đầu tư thích hợp để thực
hiện kênh phân phối này. Đặc biệt phải đầu tư thích đáng vào công nghệ thông tin, để phục
vụ xây dựng, lưu trữ và khai thác thông tin khách hàng. Đồng thời mỗi bên cần có biện pháp
riêng để phát triển kênh phân phối bảo hiểm qua ngân hàng.
Về phía công ty bảo hiểm
- Đẩy mạnh hơn nữa việc quảng cáo, phổ biến tới mọi tầng lớp dân cư lợi ích mà họ có thể
nhận được khi mua bảo hiểm qua ngân hàng.
-Thiết kế các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ mới với thời gian bảo hiểm linh hoạt, phí bảo

hiểm thấp, phù hợp với đặc điểm của các dịch vụ ngân hàng để người tham gia có thể có
nhiều lựa chọn. Đồng thời các công ty bảo hiểm nhân thọ nên kết hợp với ngân hàng có các
`
dịch vụ hậu mãi với khách hàng như: sử dụng một vài dịch vụ ngân hàng miễn phí, hưởng
mức lãi suất ưu đãi…
-Cần phát triển các sản phẩm đã được kiểm nghiệm thành công tại các thị trường khác,như
là: niên kim (annuities), bảo hiểm gắn với dư nợ tín dụng (credit life), bảo hiểm người gửi
tiền( depositor’s insurance), bảo hiểm thương tật, bảo hiểm xe máy, ô tô, bảo hiểm di lịch,
bảo hiểm tư nhân. Các sản phẩm bancanssuarance thường gắn với các khoản vay thế chấp,
chẳng hạn khoản vay thế chấp gắn với bảo hiểm tử kì có số tiền bảo hiểm giảm dần.
- Sử dụng linh hoạt đội ngũ bán bảo hiểm: có thể sử dụng kết hợp nhân viên ngân hàng, các
nhà tư vấn tài chính, các nhà môi giới, các đại lí bảo hiểm tùy thuộc theo mô hình hợp tác
giữa ngân hàng và công ty bảo hiểm, độ phức tạp của sản phẩm, trình độ đôi ngũ bán
hàng… Đối với các sản phẩm đơn giản có thể sử dụng đội ngũ nhân viên ngân hàng, tuy
nhiên với các sản phẩm phức tạp cần có sự phân phối của các nhà tư vấn đặc biệt.
-Thiết kế chế độ thù lao cho ngân hàng khuyến khích đội ngũ nhân viên ngân hàng trực tiếp
bán hàng cũng như đội ngũ lãnh đạo ngân hàng.
-Cần có cách tiếp cận với khách hàng của ngân hàng một cách pù hợp như khai thác khách
hàng qua điện thoại bằng cách gọi điện tư vấn cho khách hàng. Đồng thời thực hiện tốt việc
quảng cáo, tuyên truyền để dân chúng hiểu hơn và sử dụng các sảm phẩm ngân hàng cũng
như bảo hiểm.
-Để đạt được hiệu quả cao, công ty bảo hiểm cần đưa ra các tiêu chí:
+ Đối với việc bán bảo hiểm qua ngân hàng: thỏa thuận để cử nhân viên ngân hàng qua
tập huấn theo chương trình của công ty về nghiệp vụ bảo hiểm
+ Trong việc đưa ra các dịch vụ bảo hiểm cho khách hàng của ngân hàng: thỏa thuận mứa
phí bảo hiểm, điều kiện bồi thường, và cách thức tiến hành bồi thường…
Không ngừng mở rộng phạm vi phục vụ từ công nghiệp sang nông nghiệp, từ thành thị tới
nông thôn nhằm tương xứng với tiềm năng của ngành nói riêng, của toàn bộ nền kinh tế nói
chung. Xây dựng giải pháp nhằm hạn chế xung đột giữa các kênh phân phối sản phẩm bảo
hiểm truyền thống với kênh bảo hiểm qua ngân hàng.

Nâng cao chất lượng dịch vị nhằm thu hút được nhiều khách hàng tiêu dùng sản phẩm bảo
hiểm hơn.
Về phía ngân hàng
- Nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thanh toán
phí bảo hiểm đồng thời giúp cho khách hàng có thể tiếp cận các dịch vụ khác của ngân
hàng.
- Các nhân viên ngân hàng bán sản phẩm bảo hiểm cần được đào tạo và thường xuyên cập
nhật thông tin, nâng cao kĩ năng, kiến thức, về sản phẩm và kĩ năng bán hàng. Phát triển
nguồn nhân lực có chất lượng cao phù hợp với yêu cầu phát triển của ngân hàng, gửi các
cán bộ sang nước ngoài họp tập và công tác.
- Ngân hàng có thể phat triển các mối quan hệ với khách hàng thông qua việc giới thiệu các
sản phẩm mới của ngân hàng lien quan đến các sản phẩm bảo hiểm với lợi ích thuyết phục
`

×