Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

soan bai me ngan nhat canh dieu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.54 KB, 11 trang )

Soạn bài Viết bài văn kể lại một sự việc có thật liên quan đến nhân vật
hoặc sự kiện lịch sử
1. Định hướng
a)
- Sự việc có thật là sự việc đã xảy ra trong đời thực, không hư cấu, tưởng tượng,
được nhiều người biết hoặc chứng kiến, có sử sách ghi lại, ...
- Nhân vật hoặc sự kiện không chỉ có trong lịch sử đấu tranh giữ nước mà cịn
là những con người hoặc sự kiện trong các lĩnh vực lao động, văn hoá, khoa học
như các nhà bác học, các nhà phát minh sáng chế, những nhà văn, hoạ sĩ, nhạc
sĩ, các vận động viên nổi tiếng, ...
- Các câu chuyện liên quan đến sự kiện hoặc nhân vật lịch sử thường được kể
lại bởi người chứng kiến hoặc được sưu tầm, nghiên cứu và thể hiện lại qua
sách, báo, phim ảnh, ...
- Vì thế, muốn viết bài văn theo yêu cầu trên, các em cần đọc sách, báo, ..., sưu
tầm một số câu chuyện lịch sử về:
+ Những anh hùng dân tộc từ xưa đến nay.
+ Những tấm gương về lòng yêu nước, lòng dũng cảm trong các cuộc kháng
chiến chống giặc ngoại xâm.
+ Chuyện về cuộc đời hoạt động cách mạng và sinh hoạt đời thường của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, các chiến sĩ cách mạng hoặc các nhà hoạt động xã hội nổi
tiếng.
+ Những hoạt động khoa học, sáng tạo trong nhiều lĩnh vực cuộc sống.


* Tìm hiểu bài mẫu: Nhạc sĩ Văn Cao sáng tác Tiến quân ca.
Câu hỏi (trang 34 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
- Văn bản kể về sự việc gì? Ai là người kể chuyện?
- Sự việc ấy liên quan đến nhân vật hay sự kiện lịch sử nào?
- Những câu văn nào thể hiện sự kết hợp các yếu tố miêu tả với yếu tố tự sự?
Trả lời:
- Văn bản kể lại sự việc nhạc sĩ Văn Cao sáng tác bài hát Tiến quân ca và được


cộng đồng đón nhận.
- Người kể chuyện: người kể chuyện ngơi thứ ba - tác giả bài viết: Ngọc An.
- Sự việc ấy liên quan đến:
+ Nhân vật: nhạc sĩ Văn Cao.
+ Sự kiện lịch sử: kháng Nhật, cuộc mít tinh của cơng chức Hà Nội, cuộc mít
tinh vào ngày 19-8.
- Những câu văn thể hiện sự kết hợp yếu tố miêu tả với tự sự:
+ Lúc đó, ơng rất háo hức muốn được nhận “một khẩu súng và được tham gia
vào đội vũ trang”, nhưng nhiệm vụ mà ông được giao là sáng tác nghệ thuật.
+ Nhưng với tất cả lòng nhiệt huyết của chàng trai trẻ yêu nước, trên căn gác
nhỏ ở phố Nguyễn Thượng Hiền - Hà Nội, Văn Cao thấy mình như đang “sống
ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc”, ơng đã viết nên những giai điệu
và ca từ của Tiến quân ca.


+ Có lẽ lúc đó, Văn Cao khơng ngờ rằng chỉ một thời gian ngắn sau, lần đầu
tiên, vào ngày 17-8-1945, khi diễn ra cuộc mít tinh của cơng chức Hà Nội, bài
hát Tiến quân ca được hàng ngàn người hòa nhịp cất cao tiếng hát trước Quảng
trường Nhà hát Lớn.
+ Bài hát Tiến quân ca đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Xung
quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất vang lên theo những đoạn sôi nổi.
+ Anh là người đã buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng
thanh hát. Con người trầm lặng ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng
ngày hơm đó, cũng là người hát trước quần chúng lần đầu tiên, và cũng là một
lần duy nhất.
+ Hàng chục ngàn giọng hát cất lên, thét lên tiếng căm thù vào mặt bọn đế quốc
với sự hào hùng chiến thắng của cách mạng.
b) Để viết bài văn kể lại một sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện
lịch sử, các em cần chú ý:
- Xác định sự việc sẽ kể là sự việc gì. Sự việc ấy có liên quan đến nhân vật hoặc

sự kiện lịch sử nào? Sự việc do em nghe kể lại hay đọc được từ sách, báo, ...?
- Xác định ngồi kề, nhân vật và sự việc chính, ...
- Lập dàn ý cho bài viết.
- Sử dụng kết hợp các yếu tố miêu tả trong khi kể.
2. Thực hành
Bài tập (trang 34 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Chọn một trong hai đề sau:


Đề 1: Các em đã học và đọc nhiều câu chuyện lịch sử, hãy viết bài văn kể lại
sự việc liên quan đến một nhân vật hoặc sự kiện lịch sử mà em yêu thích.
Đề 2: Dựa vào văn bản ở mục “Định hướng”, em hãy đóng vai nhạc sĩ Văn Cao,
viết bài văn kể lại sự ra đời của bài hát “Tiến quân ca”.
Gợi ý:
Đề 1:
* Dàn ý:
a. Mở bài:
+ Nêu được sự việc có thật liên quan đến nhân vật, sự kiện lịch sử mà văn bản
sẽ thuật lại
+ Nêu lí do hay hồn cảnh người viết thu thập tư liệu liên quan
b. Thân bài:
- Gợi lại bối cảnh, câu chuyện, dấu tích liên quan đến nhân vật, sự kiện
+ Câu chuyện, huyền thoại liên quan đến nhân vật, sự kiện
+ Dấu tích liên quan
- Thuật lại nội dung/ diễn biến của sự việc có thật liên quan đến nhân vật, sự
kiện lịch sử
+ Bắt đầu - diễn biến - kết thúc
+ Sử dụng được một số bằng chứng (tư liệu, trích dẫn,...); kết hợp kể chuyện
với miêu tả



- Ý nghĩa, tác động của sự việc đối với đời sống hoặc đối với nhận thức về nhân
vật/ sự kiện lịch sử
c. Kết bài: Khẳng định ý nghĩa của sự việc hoặc nêu cảm nhận của người viết
về sự việc.
* Bài mẫu tham khảo:
TRẦN QUỐC TOẢN
Mới 15 tuổi, tính theo “tuổi ta” là 16, nhưng chàng thiếu niên này đã
hừng hực chí lớn muốn diệt giặc bạo tàn, bảo vệ sự tồn vẹn cho non sơng nước
Việt. Chàng thiếu niên dũng mãnh ấy đã từng bóp nát quả cam vua ban vì khơng
được dự bàn việc nước, dốc lịng xông pha trận mạc với là cờ thêu sáu chữ vàng
“Phá cường địch, báo hoàng ân”, nổi danh sử sách. Có lẽ, nói đến đây ai cũng
biết, chàng thiếu niên ấy chính là Hồi Văn vương Trần Quốc Toản.
Trần Quốc Toản sinh năm 1267, là con trai của Trung Thành vương (sử
liệu khơng ghi rõ Trung Thành vương có tên thật là gì), nên được phong là Hồi
Văn hầu.
Trước khi Hoài Văn hầu chào đời 10 năm, quân, dân Đại Việt đã khiến
giặc Nguyên Mông thua tan tác trong trận quyết chiến Đông Bộ Đầu, giành
thắng lợi tưng bừng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ
nhất. Biết rằng giặc Nguyên Mông không bao giờ từ bỏ giấc mộng thơn tính
Đại Việt, triều đình nhà Trần một mặt giảng hịa với nhà Ngun, một mặt tích
cực chuẩn bị lực lượng sẵn sàng ứng phó. Suốt từ năm 1258 trở đi, trong khoảng
1/4 thế kỷ, nhà Trần áp dụng phương sách đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt nhưng
cũng không kém phần cương quyết, khơng ít lần vua Trần khéo léo từ chối
những yêu sách quá quắt của Hốt Tất Liệt, hồng đế Ngun Mơng. Điều này


càng khiến Hốt Tất Liệt nung nấu quyết tâm thôn tính Đại Việt và càng ngày
càng đưa ra những yêu sách quá quắt để “nắn gân” và “dọn đường” cho cuộc
tấn cơng xuống Đại Việt. Đó là lý do vua Trần triệu tập hội nghị Bình Than vào
tháng 10 năm 1282, khởi đầu cho câu chuyện “bóp nát quả cam” hy hữu trong

lịch sử của Trần Quốc Toản.
Trước nguy cơ giặc Nguyên Mông đánh chiếm Đại Việt hiện hữu, tháng
10 năm 1282, vua Trần Nhân Tông triệu tập Hội nghị Bình Than để bàn phương
hướng kháng chiến, tiến cử và quyết định nhân sự cho cuộc kháng chiến khi
Nguyên Mông xua quân đánh chiếm nước ta. Hội nghị này bao gồm quan lại,
vương hầu và được đích thân vua Trần chủ trì. Do mới 16 tuổi (theo cách tính
tuổi như bây giờ thì khi ấy, Trần Quốc Toản mới 15 tuổi), nên Hồi Vương hầu
khơng được mời dự Hội nghị. Tuy vậy, Hồi Vương hầu vẫn tới bến Bình Than,
địi được vào dự Hội nghị. Bị lính canh chặn cửa, Hoài Văn hầu vặn hỏi:
– Ta là Hoài Văn hầu, quan gia truyền gọi tất cả vương, hầu tới họp. Ta
là hầu, cớ sao không cho vào?
Thấy chuyện ầm ĩ bên ngồi, Trần Nhân Tơng hỏi ra mới biết chuyện,
bèn cho người mang ban cho Hoài Văn hầu một quả cam và khun Hồi Văn
hầu lui bước vì chưa đến tuổi bàn việc nước. Về chuyện này, Đại Việt sử ký
toàn thư chép lại như sau: “Vua thấy Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, Hồi
Nhân Vương Kiện đều cịn trẻ tuổi, khơng cho dự bàn. Quốc Toản trong lịng
hổ thẹn, phẫn kích, tay cầm quả cam, bóp nát lúc nào khơng biết.”
Trở về từ Hội nghị Bình Than, Hồi Văn hầu vẫn quyết tâm tìm cách
đánh giặc cứu nước. Chàng thiếu niên có vóc dáng vạm vỡ hơn người do sớm
thao luyện võ nghệ bèn quy tập gia nhân, trai tráng trong vùng được hơn 1000
người, rèn luyện binh khí, tích trữ lương thảo, ngày đêm luyện võ, tập trận. Trần


Quốc Toản còn cho thêu trên một lá cờ lớn 6 chữ vàng: “Phá cường địch, báo
hoàng ân”.
Cuối tháng 2 năm 1285, quân Nguyên Mông ồ ạt tấn công Đại Việt.
Trong các trận chiến chống giặc ngoại xâm, Trần Quốc Toản thường dẫn qn
xơng lên trước lính triều đình, tả xung hữu đột đương đầu trực tiếp với thế giặc
đang mạnh. Lá cờ thêu 6 chữ vàng của Trần Quốc Toản xuất hiện trên nhiều
mặt trận, góp phần quan trọng làm chậm bước tiến của quân Nguyên. Về chuyện

này, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “khi đối trận với giặc, (Hồi Văn hầu)
tự mình xơng lên trước qn sĩ, giặc trông thấy phải lui tránh, không dám đối
địch”.
Cảm kích trước tấm lịng trung chinh và tinh thần dũng cảm của chàng
thiếu niên Hoài Văn hầu, khi Trần Nhân Tông chuẩn y mưu kế lập vườn không
nhà trống, rút toàn bộ khỏi thành Thăng Long, nhà vua đã cho Hồi Văn hầu đi
theo hộ giá vào Thanh Hóa.
Do khơng chiếm được lương thảo, chỉ sau đó vài tháng, quân Ngun
Mơng bắt đầu rơi vào tình cảnh khốn cùng. Kế vườn không nhà trống của nhà
Trần đã mang lại cơ hội không thể tốt hơn cho việc tổng phản công giặc. Trong
khoảng từ đầu tháng 5 tới đầu tháng 6 năm 1285, Hoài Văn hầu cùng các tướng
lĩnh theo Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo, Thượng tướng Thái sư Trần
Quang Khải và Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đốc qn ngược ra Bắc để
phản cơng giặc.
Dọc theo phịng tuyến sơng Hồng, qn triều đình chia làm 3 mũi tấn
cơng, Hồi Văn hầu theo mũi tấn cơng do Chiêu Thành vương và tướng quân
Nguyễn Khoái chỉ huy đánh thẳng vào bến Tây Kết (gần bãi Đà Mạc-Thiên
Mạc, nay thuộc địa phận huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam), khiến quân giặc thua
chạy táo tác. Những chiến thắng liên tiếp có cơng sức không nhỏ của Trần Quốc


Toản khiến quân giặc liên tục vỡ trận phải tháo chạy, trong đó có chiến thắng
lịch sử ở Chương Dương Độ. Trần Quốc Toản cùng đội quân thiện chiến và lá
cờ theo 6 chữ vàng hòa cùng đại quân triều đình vây khốn qn Ngun ở thành
Thăng Long, khiến Thốt Hoan phải mở đường máu qua sông Hồng để tháo
chạy. Trần Quốc Toản lại dẫn quân truy đuổi, tới bờ sơng Như Nguyệt thì đón
đầu được qn Ngun. Khơng địch nổi với Trần Quốc Toản, không vượt sông
Như Nguyệt được, quân Nguyên phải tháo chạy lên Vạn Kiếp. Chàng thiếu niên
dũng mãnh Trần Quốc Toản quyết truy đuổi tới cùng. Tuy nhiên, trong lúc truy
đuổi, Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản không may hy sinh. Tuy tử trận, nhưng

Trần Quốc Toản đã góp cơng khơng nhỏ trong sự thành cơng của cuộc tổng
phản cơng của qn đội triều đình, qt sạch bóng xâm lăng chỉ trong vịng
khoảng 2 chục ngày đêm.
Nhận được tin Hoài Văn hầu tử trận, Trần Nhân Tơng rất đỗi thương tiếc.
Khi đất nước sạch bóng giặc, nhà vua cử hành tang lễ rất trọng thể, đích thân
làm văn tế và truy tặng Trần Quốc Toản tước Hoài Văn vương.
(Theo Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long Hà Nội, hoangthanhthanglong.vn)
Đề 2:
* Dàn ý:
- Lập dàn ý cho bài viết bằng cách lựa chọn, sắp xếp các ý theo bố cục ba phần:
Nêu lí do kể chuyện. Ví dụ: Ngày nay, bài hát Tiến quân ca đã quá
Mở bài

quen thuộc và gần gũi với tất cả mọi người dân Việt Nam vì đó là
Quốc ca. Những bài hát đó đã ra đời như thế nào thì khơng phải ai
cũng rõ. Tôi xin kể lại câu chuyện về sự kiện lịch sử ấy.


Dựa vào câu chuyện Nhạc sĩ Văn Cao sáng tác Tiến quân ca, lần lượt
kể lại quá trình sáng tác bài hát đó theo một trình tự nhất định. Ví dụ:
+ Tôi trước khi sáng tác bài hát Tiến quân ca ...
+ Tôi khi viết bài hát Tiến quân ca ...
+ Tôi sau khi bài hát Tiến quân ca ra đời, được cơng bố, chào đón, ...
Thân bài

• Bài hát được hát lần đầu trong ngày 17-8-1945, khi diễn ra cuộc mít
tinh của cơng chức Hà Nội. Bài hát Tiến quân ca được hàng ngàn
người hoà nhịp cất cao tiếng hát trước Quảng trường Nhà hát Lớn.
Những kỉ niệm của buổi hơm đó …
• Lần thứ hai, trong cuộc mít tinh vào ngày 19-8, hàng ngàn người và

các em thiếu nhi cùng hát Tiến quân ca. Những kỉ niệm của lần thứ
hai ...
Phát biểu suy nghĩ của người kể lại câu chuyện. Ví dụ:

Kết bài

+ Bài hát Tiến quân ca đã ra đời như thế. Sau đó, bài hát được chọn
làm Quốc ca Việt Nam cho đến ngày nay.
+ Bài hát là niềm tự hào không phải của riêng tôi mà là của cả dân tộc.

* Bài mẫu tham khảo:
Ngày nay, bài hát Tiến quân ca đã quá quen thuộc và gần gũi với tất cả
người dân Việt Nam vì đó là Quốc ca. Nhưng bài hát đó đã ra đời như thế nào
thì khơng phải ai cũng rõ. Tơi xin kể lại câu chuyện về sự kiện lịch sử ấy.
Trước khi sáng tác bài hát Tiến quân ca, đã có lúc tơi tưởng mình khơng
cịn những ước mơ và khát vọng của tuổi thanh niên. Tôi thực sự đã rất buồn
chán và thất vọng. Bạn bè tôi đều cho rằng tôi là người tài hoa, hiểu biết cả hội


họa, thơ ca và âm nhạc. Nhưng sự thất vọng khiến tơi muốn từ bỏ tất cả. Thật
may lúc đó tôi đã gặp lại người anh Ph. D. Nhờ Ph. D mà tôi được gặp lại anh
Vũ Qúy, một người anh từ lâu đã luôn dõi theo con đường nghệ thuật của tơi.
Sau buổi nói chuyện với anh Vũ Qúy, tơi đã tìm thấy một con đường đi mới,
tìm được lí tưởng sống, đó là con đường cách mạng.
Tơi đã rất háo hức muốn được nhận một khẩu súng và được tham gia vào
đội vũ trang. Nhưng nhiệm vụ mà tơi nhận được là sáng tác nghệ thuật. Khi ấy
khóa quân chính kháng Nhật sắp mở, cần một bài hát cổ vũ tinh thần cho quân
đội cách mạng. Trước đây, tơi đã sáng tác nhiều bài hát thể hiện lịng yêu nước
như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng, ... nhưng tôi chưa từng
viết một bài ca cách mạng.

Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội vũ trang nào,
tôi chỉ biết đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ biết những
con đường ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tơi đi. Tơi chưa
gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta trong khóa qn chính đầu tiên ấy để
biết họ hát như thế nào. Vậy là, bằng tất cả lòng nhiệt huyết yêu nước, trên căn
gác nhỏ ở phố Nguyễn Thượng Hiền, tôi đã cảm tưởng như mình sống ở một
khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Ở căn gác nhỏ của sự tưởng tượng ấy,
tôi đã viết nên giai điệu và ca từ của Tiến quân ca.
Anh Ph. D - người chứng kiến sự ra đời của Tiến quân ca, anh Vũ Qúy người đầu tiên được biết đến bài hát và Nguyễn Đình Thi - người đầu tiên xướng
âm ca khúc, đã vô cùng xúc động. Họ như được tiếp thêm lòng tin và ý chí.
Tơi cũng khơng ngờ rằng chỉ một thời gian ngắn sau, lần đầu tiên, vào
ngày 17-8-1945, khi diễn ra cuộc mít tinh của cơng chức Hà Nội, bài hát của
tơi đã được hàng ngàn người hịa nhịp cất cao tiếng hát trước Quang trường Nhà
hát Lớn. Bài Tiến quân ca đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Xung


quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất vang lên theo những đoạn sôi nổi. Ở cánh
tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng đã thay băng vàng của chính phủ
Trần Trọng Kim. Trong một lúc, những tờ truyền đơn in Tiến quân ca được
phát cho từng người trong hàng ngũ các cơng chức dự mít tinh. Tơi đã đứng lẫn
vào đám đông quần chúng trước cửa Nhà hát Lớn. Tôi đã nghe giọng hát quen
thuộc của bạn tôi, anh Ph. D, qua loa phóng thanh. Anh là người đã buông lá cờ
đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh hát. Con người trầm lặng
ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng ngày hơm đó, cũng là người hát
trước quần chúng lần đầu tiên, và cũng là một lần duy nhất.
Lần thứ hai bài hát của tôi được vang lên là trong cuộc mít tinh vào ngày
19-8, hàng ngàn người và các em thiếu nhi cùng hát Tiến quân ca. Hàng chục
ngàn giọng hát cất lên, thét lên tiếng căm thù vào mặt bọn đế quốc với sự hào
hùng chiến thắng của cách mạng.
Bài hát Tiến quân ca đã ra đời như thế. Sau đó, bài hát được chọn làm

Quốc ca Việt Nam cho đến ngày nay. Bài hát là niềm tự hào không phải của
riêng tôi mà là của cả dân tộc.



×