PHÂN TÍCH BÀI CA DAO KH ĂN THƯ ƠNG NH Ớ AI
Nếu văn học đượ c ví như m ột b ản hòa ca của cảm xúc, ngh ệ t huật và hình
tượng thì h ẳn ca dao là n ốt nhạc đ ẹp đẽ nhất. Dù ra đời sớm nhất nhưng khơng
vì vậy m à nó khơng đ ẹp và đ ậm chất ngh ẹ thu ật. Ca dao là n ốt nhạc đượ c t ạo ra
từ cung đàn c ủa cảm xúc, và đ ọng l ại bởi cái t âm của những người lao động.
Trong đó, ca dao v ề tình u đơi l ứa l à t hanh âm trong tr ẻo nhất trong b ản gi ao
hưởng ca dao. Nh ững câu ca dao v ề tình u đơi l ứa đẹp đến độ, chúng t a ph ải
thốt lên rằng tại sao tình yêu khi xưa l ại tinh t ế và chân thành đ ến như v ậy.
Trong đó, bài ca dao Khăn thương nh ớ ai là bài ca dao n ổi bật nh ất.
"Khăn t hương nh ớ ai ,
Khăn rơi xu ống đất.
Khăn t hương nh ớ ai,
Khăn vắt l ên vai.
Khăn t hương nh ớ ai,
Khăn chùi nướ c mắt.
Đèn thương nh ớ ai ,
Mà đèn không t ắt .
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.
Đêm qua em nh ững l o phi ền,
Lo vì một nỗi khơng n m ột bề..."
Bài ca n ằm trong h ệ thống ca dao v ề đề t ài thương nh ớ, m ột cung bậc t rong ca
dao tình yêu của ngư ời bình dân Vi ệt Nam. Bài ca di ễn t ả nỗi nhớ niềm thương
của m ột cô gái. Nh ớ thương da di ết, nhớ đến thao th ức, cồn cào gan ru ột mà
không dễ bộ c lộ. C ó thể nói, nỗi nhớ chính là xúc c ảm thường trự c nh ất khi
yêu:
Khăn t hương nh ớ ai,
Khăn rơi xu ống đất.
Khăn t hương nh ớ ai,
Khăn vắt l ên vai.
Khăn t hương nh ớ ai,
Khăn chùi nướ c mắt.
Bài ca dao th ể hiện nỗi nhớ người yêu c ủa một cô gái. Khơng ch ỉ nhớ mà cịn
có lo phiền, phấp ph ỏng. Chính s ự lo phi ền, ph ấp phỏng ấy đã làm cho n ỗi nhớ
còn thêm chi ều sâu, khi ến nỗi nhớ có th ể làm lay t ỉnh tồn bộ nhân cách con
người. Hì nh tượng chiếc khăn, ngày xưa tư ợng trưng cho s ự chia ly, đôi l ứa khi
chia t ay nhau, thư ờng tặng cho đối phương chi ếc khăn để làm tín v ật đị nh tình.
Cơ gái trong bài thơ, nhìn khăn m à nhớ đến người. N ỗi buồn u uất, khắc khoải
in đậm t rong t ừng câu thơ. Hình ảnh khăn được lặp lại nhi ều lần kh ẳng đị nh
tâm tr ạng đau buồn của cô gái, Chi ếc khăn v ắt hờ hững t rên vai vô ý rơi xu ống
đất. Nhân vật t rữ tình cúi nh ặt và bỗ ng nhiên nhìn th ấy khăn như nhìn th ấy
chính cõi lịng mình. Câu h ỏi t u từ “khăn thương nh ớ ai” t hực ch ất l à tự cơ
gái hỏi b ản t hân mình, vì sao l ại hỏi, câu hỏi tại sao l ại da di ết và đau đ ớn đến
thế? Có thể nói, nhân v ật t rữ tình như rơi vào cõi hư, nơi t ồn tại nh ững nhân
vật vô t ri nhưng l ại được cô th ổi vào tâm trạng của mình, vì v ậy cơ nhì n khăn
cũng th ấy khăn đang thương nh ớ người yêu như mình. Cái khăn, t ự nó khơng
biết “thương nh ớ” không bi ết “rơi xuống”, “vắt l ên”, “chùi nư ớc tn ắt”, nhưng
những hì nh ảnh vận động mang c ảm xúc người đă làm hi ện l ên hình ảnh con
người với t âm tr ạng ngổn ngang ni ềm thương nh ớ cùng nỗi l o âu. Nh ớ đến ngơ
ngẩn, nỗi nhớ t oả theo nhi ều hướng của không gi an “khăn rơi xu ống đ ất” rồi
lại “khăn vắt l ên. Vai”, cì cùng thu l ại trong cảnh khóc th ầm “khăn chùi
nước m ắt”.Một nỗi nhớ quá day dứt, ca dao cũng có câu t hơ:
Nhớ ai bổi hổi bồi h ồi
Như đ ứng đống lửa như ngồi đống t han
Nỗi nhớ ấy càng đượ c nâng lên khi hóa t hân vào nh ững s ự vật khác:
Đèn thương nh ớ ai ,
Mà đèn không t ắt .
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ khơng n.
Đèn cũng là m ột hình ảnh m ang tí nh bi ểu tượng, t ượng t rưng cho s ự cô đơn
tĩnh mịch. Trong đêm khuya hình ảnh ng ọn đèn như càng kh ắc sâu vào trong
nỗi cô đơn c ủa m ỗi người, đ ặc biệt l à người con gái khi yêu, vì v ậy cho nên,
đèn nhớ người mà ch ẳng buồn tắt , mắt nh ớ người m ắt ch ẳng muốn yên. Cùng
bắt g ắp ý thơ này, Xuân Qu ỳnh t ừng có những câu thơ:
Lịng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn th ứ c
Khăn xuất hiện trướ c rồi đến đèn và sau cùng l à m ắt . Có một sự dịch chuyển từ
xa đ ến g ần của các hình ảnh, từ s ự vật bên ngồi đ ến chính con ngư ời t ác giả.
Nỗi nhớ càng đượ c t hổ lộ lại càng nồng nàn - nồng nàn đến mức l àm rung lên
toàn bộ thế giới tâm hồn củ a nhân vật t rữ tình và xét v ề hi ệu quả th ẩm mĩ, nó
cũng l àm bi ến chuy ển cả nhịp thơ, ngày càng g ấp gáp và mãnh li ệt. t rong bài
ca dao, ta có th ể vừa nhìn th ấy đượ c s ự bối rối của cảm xúc, khi nhân v ật như
chìm vào cõi m ộng ảo, trò chuy ện với các sự vật xung quanh mình. Nhưng
đồng thời cũng t hấy được s ự lô gi ch của cảm xúc, khi t ừ da diết trở nên m ãnh
liệt cực h ạn. Từ t ưở ng tượng s ự có mặt của các s ự vật vô t ri như th ể con người
thực s ự, đ ến tỉnh táo, ý th ức đư ợc n ỗi đau của mình:
Đêm qua em nh ững l o phi ền
Lo vì một nỗi khơng n m ột bề
Hai câu thơ cu ối, nhân v ật đối di ện với cảm xúc của chính mì nh, khơng ch ỉ là
nỗi nhớ, m à cịn là n ỗi lo tận cùng, nh ững phấp phỏm, những lo toan v ề m ối
tình củ a mình, Nhân v ật trữ tình hiểu rằng mình đã lo p hi ền và cũng bi ết
nguyên nhân c ủa n ỗi lo phi ền ấy. Yêu nhau nhi ều nhưng d ễ gì đến được với
nhau, l ấy được nhau. Bao nhi êu chuy ện phải b ận lòng, bao nhiêu th ứ có t hể cản
trở hạnh phúc. Cơ gái nói "Lo vì m ột nỗi khơng n m ột bề" - chỉ một b ề
nhưng l ại b ề bề nỗi l o. Tồn t ại trong tình yêu, đơi khi khơng ch ỉ có hạnh phúc,
một chút khổ, một chút thương, m ột chút nhớ mới thành đượ c tình yêu. Đi ệp từ
“lo” để nhân mạnh t âm tr ạng của cô gái, yêu đ ấy, nhưng không bao gi ờ thôi
suy nghĩ v ề tương l ai của mỗi người.
“Kh ăn thương nh ớ ai ” là bài thơ tiêu bi ểu cho đ ề t ài tình u đơi l ứa củ a ca
dao, n ỗi nhớ l à cảm xúc chủ đạo, bài thơ di ễn t ả trọn v ẹn cảm xúc này đ ể người
đọc hi ểu hơn về tình yêu, v ề những cảm xúc khi yêu.