BÀI THU HOẠCH/ TIỂU LUẬN
TÊN MÔN HỌC:
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
TÊN BÀI THU HOẠCH/ TIỂU LUẬN:
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA TRONG MƠ HÌNH DÂN CHỦ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG..................................................................................................2
1. Một số vấn đề lý luận về vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong mơ hình dân chủ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay.....................2
1.1. Khái niệm về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong mơ hình dân chủ xã hội chủ nghĩa...2
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong mơ hình dân chủ xã hội chủ nghĩa tại Việt
Nam hiện nay.........................................................................................................5
2.2. Khó khăn, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến khó khăn, hạn chế của vấn
đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.....11
3. Một số giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa trong mơ hình dân chủ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay.....13
PHẦN III: KẾT LUẬN..............................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................18
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT
CHỮ ĐƯỢC VIẾT TẮT
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Ở nước ta hiện nay, việc lựa chọn xây dựng nhà nước pháp quyền là hướng tới
xây dựng mơ hình nhà nước vừa đáp ứng những giá trị phổ quát, vừa bao gồm những
yếu tố giá trị đặc thù quốc gia. Sự ra đời, phát triển mô hình nhà nước kiểu mới ở Việt
Nam ln thể hiện và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dựa
trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời tiếp thu có
chọn lọc những yếu tố hợp lý, phù hợp của các tư tưởng tiến bộ trong lịch sử tư tưởng
nhân loại gọi là là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, việc xây dựng nhà nước này
được vận dụng vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam là mô hình dân chủ XHCN.
Ở nước ta, dân chủ XHCN là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu vừa là động
lực phát triển của đất nước. Xây dựng mô hình dân chủ XHCN Việt Nam dựa trên ba
trụ cột chính, đó chính là kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền
XHCN và các tổ chức xã hội tự nguyện, hợp pháp của nhân dân [5, tr.259]. Trong đó,
đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là vấn đề thuộc về nguyên tắc đảm
bảo cho nền dân chủ XHCN ở nước ta không ngừng phát triển và hồn thiện.
Trên cơ sở q trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong mơ hình dân
chủ XHCN tại Việt Nam, bài nghiên cứu của tác giả góp phần làm rõ một số vấn đề lý
luận, điểm lại những thành tựu đạt được cũng như một số hạn chế, khó khăn của q
trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, từ
đó luận giải nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn và kiến nghị một số giải pháp
hoàn thiện vấn đề nhà nước pháp quyền XHCN trong mơ hình dân chủ XHCN tại Việt
Nam trong tương lai.
2
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong mơ hình dân chủ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay
1.1. Khái niệm về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong mơ hình dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng vào tháng 1 năm
1994 đã chính thức đề cập việc xây dựng “Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do
dân và vì dân” [6, tr.246], đây là lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng, thuật ngữ “nhà
nước pháp quyền” được sử dụng. Đến khi Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày
25/12/2001 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 ra đời thì lần đầu tiên thuật ngữ này
được hiến định, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hiện thực hóa việc xây dựng nhà nước
pháp quyền. Hiện nay, Hiến pháp năm 2013, tại Điều 2, Chương I về Chế độ chính trị,
khái niệm về nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã được khẳng định: “Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân; Nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân
làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức; Quyền lực nhà nước là
thống nhất có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
3
Như vậy, từ quy định trên tại Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện phần nào khái
niệm, cũng như bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN và cũng từ quan điểm của
một số nhà nghiên cứu như Phan Trung Lý, Nguyễn Trung Thành [7, tr.3-8], có thể đúc
kết được khái niệm Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; Nhà
nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; tổ
chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp
luật; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và
nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
hồ bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
1.1.2. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong mơ hình dân chủ xã hội
chủ nghĩa
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là xây dựng một phương thức
tổ chức nền chính trị XHCN và Nhà nước XHCN mà mục đích là khơng ngừng duy trì
bản chất giai cấp cơng nhân và tính nhân dân của Nhà nước ta, phát huy cao độ dân chủ
XHCN, làm cho Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu lực và hiệu
quả quản lý và điều hành.
4
Kế thừa, tiếp thu, chọn lọc những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận
dụng vào điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra tư
tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân [8, tr.232].
Trong suốt quá trình tổ chức, xây dựng Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi
trọng hai vấn đề cơ bản: một là, xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của
nhân dân; hai là, bộ máy nhà nước phải được tổ chức hợp pháp và hoạt động trên cơ sở
hiến pháp. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân
và vì dân vẫn mãi có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc. Ngày nay, trước yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới và hội nhập, Đảng ta tiếp tục kế thừa tư tưởng của Người để xây
dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là điều vơ cùng
cần thiết và đúng đắn.
Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi
lên CNXH ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ về xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN là không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, trên cơ sở liên minh
giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước
đại diện cho quyền làm chủ của Nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường
lối của Đảng; có cơ chế để Nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và Dân chủ đại
diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội [10]. Bài viết có ý
nghĩa hết sức to lớn, sâu sắc, truyền cảm hứng, tạo sự thống nhất trong nhận thức, hành
động về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự của Nhân dân,
do Nhân dân và vì Nhân dân, phản ánh được cách nhìn, khát vọng, mục tiêu khơng
thay đổi của Đảng Cộng sản Việt Nam đó là phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân,
khơng có mục tiêu nào ngồi lợi ích chân chính của Nhân dân
5
Tại Phiên họp thứ nhất của Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến
năm 2045”, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh tinh thần cần xây dựng một
đề án có tính chiến lược, thiết thực đối với người dân và cơ quan nhà nước, thực sự xây
dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Thống nhất những quan điểm cơ
bản, đột phá cần thiết để xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
tầm nhìn đến năm 2045 bảo đảm thành cơng. Trong đó, cần quan tâm những vấn đề
như bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân, thực hiện dân chủ gắn liền
với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương, phòng, chống tham nhũng, xây dựng hệ
thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, cơng
bằng, khơng thiên vị, dễ tiếp cận với chi phí tuân thủ thấp, lấy quyền và lợi ích hợp
pháp của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát
triển bền vững kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế. Đặc biệt cần
bám sát nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam lấy chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở, nền tảng [1].
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chỉ rõ việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN có ba cấu phần quan trọng: Một là, xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp
thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của người dân và doanh nghiệp làm trọng tâm, thúc đẩy đổi mới
sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững và đáp ứng yêu cầu hội nhập;
Hai là, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền,
chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch; Ba là, xây
dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, cơng bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng
sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân [4].
6
Ngày nay vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đang được đặt ra
như một nhu cầu có tình tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan. Để đáp ứng được các
nhu cầu có tính tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan ấy, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước
pháp quyền trong mơ hình dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay được tiến hành trên các
quan điểm sau:
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo
đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước và công
dân, giữa Nhà nước và xã hội.
Thứ tư, Trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt
chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo.
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong mơ hình dân chủ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện
nay
7
Vấn đề “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” trong Văn kiện Đại
hội XIII rất phong phú và toàn diện, bổ sung nhiều điểm mới so với các kỳ đại hội
trước. Văn kiện xác định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm
vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị” [2. tr.174]. Đây là sự cụ thể hóa thành tố
đầu tiên của chủ đề Đại hội “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh”. Bởi Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một thành
phần cơ bản của hệ thống chính trị Việt Nam, lực lượng chính trị có vai trị quyết định
trong việc thể chế hóa chủ trương, quan điểm, nghị quyết của Đảng thành thực tiễn
sinh động. Do vậy, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN được Đảng ta dành
sự quan tâm đặc biệt, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
Điểm nổi bật trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được thể
hiện trong Văn kiện Đại hội XIII là sự nhất quán tư tưởng “thượng tôn pháp luật”. Đây
là tư tưởng chỉ đạo khắc phục những hạn chế, yếu kém mà Đại hội chỉ ra: “Chấp hành
pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương phép nước có nơi, có lúc cịn bị xem nhẹ,
xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe” [2, tr.89].
Chính tinh thần “thượng tôn pháp luật” được đề cao cùng với một hệ thống pháp luật
hoàn thiện, thống nhất sẽ là động lực mạnh mẽ để xây dựng xã hội lành mạnh, kỷ
cương và mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh” mới được
hiện thực hóa. Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh cần nắm vững và xử lý tốt là “giữa
thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” [2, tr.119]. Bên
cạnh đó, tại mục XIII, Văn kiện nhấn mạnh đến “nguyên tắc pháp quyền” trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của các cơ quan nhà nước và trong
xây dựng nền hành chính nhà nước.
8
Đối với nội dung xây dựng các thiết chế của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam, Đại hội XIII nhấn mạnh việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội
theo hướng: tăng tính chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát
huy dân chủ, pháp quyền trong tổ chức và hoạt động, trong thực hiện chức năng lập
pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao; bảo đảm
Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất. Điểm mới trong tổ chức Quốc hội là: “tăng hợp lý số lượng đại biểu
hoạt động chuyên trách; giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư
pháp” [2, tr.179]. Điều đó sẽ góp phần quan trọng nâng cao chất lượng hoạt động của
Quốc hội theo hướng chuyên nghiệp hơn, nhất là trong thực hiện quy trình lập pháp và
giám sát việc thực hiện luật pháp. Đối với thực hiện chức năng lập pháp của Quốc hội,
Văn kiện xác định việc tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, “xây
dựng được hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, cơng khai, minh bạch, ổn
định, có sức cạnh tranh quốc tế” [2, tr.285]. Đề cập đến “sức cạnh tranh quốc tế” của hệ
thống pháp luật là một nét rất mới của Văn kiện lần này, phù hợp với bối cảnh đất nước
hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Theo đó, cần xây dựng các văn bản pháp luật và
các thiết chế bảo vệ nền kinh tế độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế; nội
luật hóa những điều ước quốc tế, nhất là các hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới
mà Việt Nam là thành viên.
9
Ngồi ra, Đại hội XIII cịn chủ trương tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của
Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, nhằm xây dựng nền hành chính nhà
nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch,
vững mạnh, công khai, minh bạch, tập trung xây dựng Chính phủ “kiến tạo phát triển,
liêm chính, hành động”; tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện
đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; tiếp
tục hồn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị,
hải đảo, đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt theo luật định, cải cách phân cấp ngân sách
nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, bảo
đảm vai trò chủ động, tự chủ của ngân sách địa phương; xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng
chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất
nước; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ
cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung,…
Như vậy, có thể thấy Đại hội XIII đề cập nội dung và biện pháp xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN trong mơ hình dân chủ XHCN ở nước ta rất tồn diện, phong
phú, khơng chỉ xây dựng Nhà nước có tính chun nghiệp, hiện đại, mà cịn coi trọng
việc xây dựng Nhà nước về bản chất chính trị; khơng chỉ quan tâm xây dựng và hồn
thiện hệ thống luật pháp mà cịn coi trọng khía cạnh chấp hành luật pháp; không chỉ
quan tâm đến yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, mà còn phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế;
không chỉ quan tâm đến việc xây dựng các thiết chế của bộ máy nhà nước: Quốc hội,
Chính phủ, chính quyền địa phương và cơ quan tư pháp, mà còn coi trọng xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức của bộ máy nhà nước.
2. Thực trạng và nguyên nhân thực trạng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa trong mô hình dân chủ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay
2.1. Những thành tựu về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt
Nam trong những năm qua
10
Trong q trình đổi mới đất nước, Đảng ta ln coi trọng đổi mới hệ thống
chính trị mà trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Thực tiễn
qua 35 năm đổi mới, tư duy lý luận của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN ngày càng đầy đủ và phát triển hơn, tạo cơ sở vững chắc cho việc
xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu phát triển đất
nước trên con đường đi lên CNXH. Đại hội XIII đánh giá: “Xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt
động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp” [2, tr.71], cụ thể là đạt được những thành tựu như sau:
Thứ nhất, về thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước đã có một bước điều chỉnh theo nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Các chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của bộ máy nhà nước đã dần được cơ cấu lại theo hướng mở rộng xã hội
hóa, tăng cường vai trị, trách nhiệm của cộng đồng, Nhà nước chỉ đảm nhiệm những
công việc thực sự cần thiết để đảm bảo lợi ích chung của tồn xã hội, vì sự phát triển
của tồn xã hội hoặc những gì mà mỗi cá nhân cơng dân khơng thể tự mình giải quyết
nếu thiếu sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước.
Thứ hai, về tổ chức bộ máy nhà nước.
11
Vấn đề xây dựng bộ máy và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước
được xác định rõ hơn và có những bước tiến trong hoạt động. Điểm nổi bật trong thời
gian vừa qua là việc đổi mới hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của hệ thống chính trị được làm rất mạnh mẽ, có thể nói như một “cuộc đổi mới” về tổ
chức”, “… bảo đảm hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương hoạt
động thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả” [11]. Một số điểm nối bật như là: bộ
máy hành chính từ Trung ương đến địa phương đã từng bước phân định rõ nhiệm vụ,
quyền hạn, cơ bản khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, phạm
vi, đối tượng quản lý, cơ cấu bên trong đã có sự phân định rõ hơn giữa cơ quan quản lý
nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; về tinh giản biên chế gắn với sắp xếp tổ chức
bộ máy đã giảm trên 27.500 biên chế công chức, giảm gần 243.000 biên chế viên chức
và vượt so với mục tiêu giảm 10% mà Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị đề ra
đến năm 2021; về hiệu quả kinh tế, chi ngân sách nhà nước đã giảm trên 15.000 tỷ
đồng từ tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế và đổi mới lĩnh vực sự nghiệp công lũy kế
từ năm 2017 đến năm 2019; tính từ đầu nhiệm kỳ đến giữa năm 2020, Chính phủ đã cắt
giảm, đơn giản hóa 3.893/6.191 điều kiện kinh doanh, 6.776/9.926 danh mục hàng hóa
phải kiểm tra chuyên ngành và 30/120 thủ tục hành chính liên quan đến kiểm tra
chuyên ngành [9].
Thứ ba, về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Cơ chế kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền
lực nhà nước đã có và ngày càng được củng cố. Nội dung “kiểm soát quyền lực” được
đưa vào Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự phát triển về nhận thức trong việc thừa nhận
nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền, cũng là sự bổ sung và hoàn thiện nguyên
tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta, là cơ sở cho việc tiếp tục tăng cường cơ chế
kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp trong giai đoạn tới.
Thứ tư, bảo đảm vai trò của Hiến pháp và hệ thống pháp luật.
12
Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã
hội bằng Hiến pháp, pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Điều đó cịn
phản ánh q trình hồn thiện bộ máy nhà nước trong suốt thời kỳ đổi mới; đồng thời
phản ánh thành quả của hoạt động lập pháp và trình độ phát triển của đất nước trong
thời kỳ phát triển và hội nhập quốc tế sâu, rộng. Trong mỗi nhiệm kỳ, nước ta đều tiến
hành sửa đổi Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Bầu cử và Luật Tổ
chức Chính quyền địa phương, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân, Luật Cán bộ công chức… Đây là sự điều chỉnh kịp thời bộ máy nhà nước
qua tổng kết nhiệm kỳ và trước yêu cầu mới của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử
phát triển đặt ra. Cụ thể hơn, theo thống kê của Chính Phủ trong giai đoạn 2016 – 2020
[3], kết quả trong công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật giai đoạn 2016 2020 cho thấy, số lượng văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chuyển dần theo hướng tinh giản hơn trong
hoàn thiện và nâng cao chất lượng các luật, pháp lệnh, nghị định đáp ứng nhu cầu của
đời sống kinh tế - xã hội. Hơn nữa, trong việc thực hiện Đề án “Xây dựng trường Đại
học Luật Hà Nội và trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường
trọng điểm về đào tạo cán bộ pháp luật” sau hơn 7 năm thực hiện, trường Đại học Luật
Hà Nội và trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã có sự chuyển biến tích cực
về mọi mặt, từng bước mở rộng quy mô đào tạo, chú trọng hồn thiện giáo trình, đổi
mới phương pháp đào tạo; hoạt động nghiên cứu khoa học có chuyển biến tích cực; đội
ngũ giảng viên ngày càng được tăng cường, trở thành trường trọng điểm đào tạo nguồn
nhân lực về pháp luật, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và nhu cầu của xã hội.
Thứ năm, về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
13
Trong những năm qua sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền
XHCN đã có nhiều chuyển biến tích cực, phát huy được cả vai trị của Đảng, của Nhà
nước và của nhân dân. Các nghị quyết của Đảng đã từng bước làm rõ những phương
hướng cơ bản mối quan hệ lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trên các lĩnh vực. Chất
lượng lãnh đạo của Đảng được nâng cao hơn, tình trạng tổ chức Đảng bao biện làm
thay Nhà nước đã có bước giảm đáng kể, việc dân chủ hố phương thức lãnh đạo của
Đảng có bước tiến quan trọng, trong khi vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững và
tăng cường thì vai trị của Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể ngày càng được phát huy. Nhờ
vậy, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện ngày càng tốt hơn.
Thứ sáu, về đội ngũ cán bộ, công chức.
Hơn 90 năm qua, kể từ khi có Đảng lãnh đạo, nhất là sau 35 năm đổi mới, đội
ngũ cán bộ các cấp có bước trưởng thành và phát triển tồn diện, góp phần quan trọng
vào thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử để đất nước có được vị thế như ngày nay. Trong
q trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm sâu sắc đến việc xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức; trải qua quá trình phát triển đội ngũ cán bộ, công
chức đã từng bước trưởng thành, công tác quản lý đã dần đi vào nền nếp, góp phần tích
cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ cán bộ, công chức từng bước
được chuẩn hóa, nâng cao về chất lượng, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và đã
mang lại những kết quả nhất định, nền hành chính phục vụ đã từng bước khắc phục
tình trạng quan liêu, bao cấp.
2.2. Khó khăn, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến khó khăn, hạn chế của vấn đề xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Ngoài những thành tựu đạt được, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt Nam hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế, Đại hội XIII nhận
định “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới” [2, tr.89], một số khó
khăn, hạn chế có thể kể đến như sau:
14
Một là, thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN vẫn cịn chưa đồng bộ, hiệu quả cơ
chế phân cơng, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp; tổ chức bộ máy
và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy pháp quyền XHCN như
Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thật hợp
lý, hiệu lực, hiệu quả… Nguyên nhân của tình trạng này được Đảng nêu rõ là do xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là vấn đề mới đối với nước ta; sự phân định giữa
vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước còn những nội
dung chưa rõ; phương thức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở các cấp
còn chưa được chế định rõ và phù hợp với nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền.
Hai là, mặc dù quá trình đổi mới về hệ thống pháp luật đạt được nhiều thành
tựu, tuy nhiên hệ thống pháp luật của nước ta vẫn chưa đáp ứng kịp với yêu cầu của
việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước cũng như việc quản lý nhà nước,
quản lý xã hội bằng pháp luật. Dẫn đến hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội
dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, cịn chồng chéo; tính cơng
khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế. Hơn nữa, vẫn cịn tình trạng văn bản
pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn; một số luật được thông qua và ban hành nhưng chất
lượng hạn chế, chưa sát thực tiễn cuộc sống, tính khả thi hạn chế, phải điều chỉnh, sửa
đổi, bổ sung nhiều lần.
Ba là, Quốc hội mặc dù hoạt động ngày càng dân chủ và hiệu quả hơn nhưng kết
quả trong hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định vấn đề quan trọng của đất nước
chưa đáp ứng sự kỳ vọng của nhân dân. Hoạt động của Quốc hội chưa thực sự chuyên
nghiệp, tỷ lệ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tuy đã được tăng lên theo từng
nhiệm kỳ nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, điều kiện bảo đảm hoạt
động của đại biểu Quốc hội còn nhiều hạn chế nên chưa đáp ứng được khối lượng công
việc ngày càng nhiều, với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng. Hội đồng nhân dân các
cấp hoạt động vẫn cịn mang tính hình thức.
15
Bốn là, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước pháp quyền ở địa phương còn
nhiều hạn chế, vẫn cịn tình trạng nhũng nhiễu, oan sai trong hoạt động tư pháp. Việc
thực hành dân chủ có lúc, có nơi cịn mang tính hình thức. Cơ chế bảo đảm thực hiện
quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân vẫn chưa được tạo lập đầy đủ; khả năng kiểm
soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân cịn hạn chế.
Năm là, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân cịn chậm.
Phương thức lãnh đạo của một số cấp uỷ đảng còn chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu
cầu của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, vừa có tình trạng
bng lỏng và vừa có tình trạng bao biện, chồng chéo nên chưa phát huy tốt vai trò
lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước. Một số cấp uỷ và tổ
chức Đảng vừa lúng túng, vừa thiếu quan tâm lãnh đạo việc quản lý nhà nước trên các
lĩnh vực trong cơ chế thị trường định hướng XHCN theo yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Sáu là, chất lượng cán bộ, cơng chức trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa
đáp ứng được yêu cầu thực thi chức năng, nhiệm vụ theo vị trí việc làm; năng lực và
trình độ đội ngũ cán bộ, cơng chức vẫn chưa ngang tầm với địi hỏi của sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Mức độ chuyên nghiệp,
tính chuyên sâu, kỹ năng hành chính của cán bộ, công chức thấp. Công tác quản lý,
tuyển dụng, sử dụng, thi tuyển, thi nâng ngạch, đánh giá, luân chuyển, đề bạt cán bộ,
công chức chậm thay đổi.
3. Một số giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa trong mơ hình dân chủ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay
16
Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN cũng đồng thời là nhiệm vụ
khó khăn, phức tạp, lâu dài, đòi hỏi sự nhạy bén cả về tư duy lẫn cách thức tổ chức
thực hiện linh hoạt, sáng tạo với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, do có cần cần
có phương hướng lâu dài và kế hoạch cụ thể để thực hiện, để thực hiện mục đích nâng
cao hiệu quả xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong mơ hình dân chủ XHCN tại
Việt Nam hiện nay, tác giả đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng xây
dựng như sau:
Thứ nhất, tăng cường dân chủ XHCN. Cụ thể là đổi mới cả về nhận thức và
hành động về mối quan hệ giữa Nhà nước và cơng dân, trong đó phải đặt người dân
vào vị trí trung tâm trong mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, toàn bộ hoạt động của
bộ máy nhà nước phải được tổ chức trên nền tảng “phục vụ nhân dân”. Đồng thời, tăng
cường dân chủ ở cơ sỏ thơng qua việc mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để
người dân tham gia vào công việc của Nhà nước một cách thiết thực, phù hợp, trọng
tâm là ở địa phương, trước hết bắt đầu từ những công việc liên quan thiết thực, trực
tiếp đến đời sống nhân dân. Hoàn thiện thể chế bầu cử theo nguyên tắc dân chủ, bầu
cử có liên hệ mật thiết với dân chủ, bầu cử tự do và công bằng nhằm bảo đảm cho việc
tôn trọng các quyền tự do, dân chủ.
Thứ hai, đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước. Để phát huy tốt
nhất quyền làm chủ của nhân dân, Nhà nước phải làm tốt chức năng kiến tạo phát triển.
Nhà nước không làm thay dân mà phải tập trung xây dựng khuôn khổ thể chế phù hợp
và tạo điều kiện cần thiết để mọi người phát huy năng lực và sức sáng tạo vì lợi ích của
chính mình và đóng góp cho xã hội. Trong thời gian tới, tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước tiếp tục thực hiện theo quy định của Hiến pháp và các đạo luật về tổ
chức bộ máy nhà nước cần tiếp tục cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp mới cho phù
hợp với từng thiết chế cụ thể
17
Thứ ba, đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp
luật Việt Nam phải từng bước được đổi mới, hoàn thiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn các
yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và
chủ động hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật theo yêu cầu
mới của Hiến pháp 2013 là một công việc hệ trọng, phức tạp cần được triển khai một
cách khoa học, có lộ trình thích hợp, huy động được trí tuệ, kinh nghiệm của cả xã hội
cùng tham gia đóng góp cho việc hồn thiện từng dự thảo văn bản trước khi Quốc hội,
các cơ quan có thẩm quyền xem xét, thơng qua. Tiếp tục nghiên cứu luật hố các quyền
hiến định của cơng dân theo hướng: nghiên cứu xây dựng các luật để thể chế hoá các
quy định của Hiến pháp về quyền tự do lập hội, quyền tự do hội họp, quyền biểu tình,
quyền được trưng cầu dân ý... theo lộ trình phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất
nước; bảo đảm để vừa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện các quyền của
mình, vừa tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực đời sống
xã hội. Mặt khác, hệ thống pháp luật được hình thành ngày càng đầy đủ, tồn diện và
cụ thể thì sự vận hành nó ở bộc lộ những vướng mắc, bất cập làm suy giảm hiệu lực,
hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước nên việc rà soát các quy định pháp luật chồng
chéo, mâu thuẫn, triệt tiêu lẫn nhau hay tạo ra những “lỗ hổng” trong hoạt động quản lý
theo pháp luật trở thành vấn đề quan trọng trong nâng cao hiệu lực hoạt động của bộ
máy Nhà nước cũng như giá trị, hiệu lực thực sự của luật do Quốc hội ban hành.
18
Hơn nữa, cần đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng xây dựng một
hệ thống pháp luật hội nhập và kiến tạo phát triển. Theo đó, cần tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ tư duy pháp luật theo quan điểm pháp luật khơng chỉ thiết lập sự an tồn cho quản
lý mà điều quan trọng hơn là kiến tạo một môi trường, một hành lang thuận lợi, dẫn dắt
và thúc đẩy phát triển. Để chuyển đổi được từ tư duy quản lý sang tư duy phục vụ và
kiến tạo phát triển thì cũng cần phải thay đổi nhiều nhận thức và cách làm trong quy
trình xây dựng pháp luật hiện hành. Trường Đại học Luật Hà Nội và trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh với sứ mệnh là một trong những trung tâm đào tạo và
nghiên cứu khoa học pháp lý có uy tín trong cả nước và trong khu vực, trong thời gian
tới chú trọng nâng cao vai trò trong việc giải quyết các vấn đề quan trọng trong khoa
học pháp lý của cả nước nói chung và của các tình phía Nam nói riêng; chủ động và
tích cực tham gia góp ý, kiến nghị, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật
góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật; đồng thời, cung cấp nguồn lực có trình độ cao
trong lĩnh vực pháp lý cho các địa phương và các bộ ngành,… đảm bảo các nguồn lực
cho hoạt động đào tạo pháp luật, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới.
Thứ tư, tăng cường pháp luật đi đơi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Để xây
dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả phải kết hợp chặt chẽ giữa “đức trị”
và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không được coi nhẹ mặt nào. Xây là ra
sức giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho nhân dân, trước hết là cán
bộ, công chức, đảng viên, những người có chức, có quyền, đi đơi với việc chống chủ
nghĩa cá nhân, dùng pháp luật nghiêm trị những kẻ vi phạm pháp luật và thối hóa đạo
đức, làm hại dân, hại nước. Cán bộ các cấp trong bộ máy công quyền nhà nước từ
Trung ương đến cơ sở phải thực sự gần dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của
nhân dân, làm việc gì cũng phải bàn bạc kỹ và học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực
sự yêu dân, kính dân, tin cậy và trọng dân.
19
Thứ năm, xây dựng nhà nước luôn đi đôi khắc phục được những căn bệnh cố
hữu của các nhà nước kiểu cũ. Tuyệt đối không mơ hồ trước những luận điệu xuyên tạc
của các thế lực thù địch đối với các giá trị văn hóa dân chủ XHCN. Đồng thời, kiên
quyết chống luận điệu xuyên tạc, mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân
quyền” tư sản để xuyên tạc những giá trị dân chủ XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã
xây dựng, vun đắp trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
trong các cơ quan quyền lực của Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong
cách, năng lực lãnh đạo, quản lý để họ thực sự là “người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân”, toàn tâm, tồn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Cùng với nâng cao bản lĩnh
chính trị, giáo dục đạo đức cách mạng, phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cơng chức nhà
nước có đủ tri thức về chính trị học, xã hội học, về hệ thống chính trị, pháp luật, quản
lý hành chính nhà nước, về tổ chức lao động khoa học và tâm lý quản lý,...
Thứ bảy, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng đòi hỏi
của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN thời kỳ mới. Bởi, thực tiễn đã
chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là nhân tố quyết định để bảo
đảm Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, bảo
đảm cho hệ thống chính trị có đủ khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt qua nguy
cơ, thách thức, vững vàng đi theo con đường cách mạng XHCN.
20
PHẦN III: KẾT LUẬN
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là quá trình nhận thức, phát triển tư duy
của Đảng ta ngày càng hoàn thiện hơn; đồng thời, là một nhiệm vụ quan trọng, lâu dài,
đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục tổng kết thực tiễn, không ngừng bổ sung, phát triển lý
luận. Vì vậy, tồn Đảng, tồn dân, tồn quân ta cần quán triệt, thực hiện hiệu quả quan
điểm của Đại hội XIII là thiết thực góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã khẳng định nhất quán đường lối xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu phải tạo sự chuyển biến tích cực,
hiệu quả cao hơn trong thực hiện dân chủ, tuân thủ nguyên tắc pháp quyền trong tổ
chức và hoạt động của Nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp và tư pháp, gắn với đổi mới hệ thống
chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội; tiếp
tục hồn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.
Đối với nước ta xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong mơ hình dân chủ
XHCN là yêu cầu tất yếu khách quan của sự nghiệp đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh. Do đó, việc việc đánh giá những thành tựu đã đạt được, chỉ ra những hạn chế
còn tồn động, đưa ra những phương hướng xây dựng, hồn thiện tích cực, hiệu quả và
qn triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam hiện nay là vô cùng tất yếu và cần thiết.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Vũ Duy (2021 - tổng hợp), Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, Tạp chí
Cộng
sản,
Nguồn:
/>
luan/-/2018/823623/chien-luoc-xay-dung-va-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoichu-nghia-viet-nam-den-nam-2030%2C-dinh-huong-den-nam-2045.aspx
(truy
cập
ngày 28/10/2021).
2.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, Năm 2021, Tập I, tr. 174.
3.
Nguyễn Hoàng (2020), Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện cả về số
lượng và chất lượng, Báo điện tử Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, Nguồn:
(truy cập
ngày 28/10/2018).
4.
Nguyễn Hoàng (2021), Chủ tịch Quốc hội chủ trì phiên họp về chiến lược xây
dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền, Báo điện tử Chính phủ nước CHXNCN Việt
Nam,
Nguồn:
/>
hop-ve-chien-luoc-xay-dung-va-hoan-thien-Nha-nuoc-phap-quyen/444142.vgp
(truy
cập ngày 28/10/2021).
5.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội
khoa học Mác – Lênin (Dùng cho hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị), Nxb. Lý luận
chính trị, Hà Nội, tr.259.
6.
Hội đồng Lý luận Trung ương, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2020, tr. 246.
22
7.
Phan Trung Lý, Nguyễn Trung Thành, Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội, Số 15/2020, tr.3-8.
8.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Tập 6, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Năm 2011, tr.
232.
9.
Phạm Thị Thanh Trà (2021), Tiếp tục xây dựng bộ máy hành chính nhà nước
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng, Cổng thông tin điện tử Bộ Nội vụ, Nguồn: />
(truy
cập
ngày
28/10/2018).
10.
Nguyễn Phú Trọng (2021), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Báo Nhân dân số 23945 ra thứ
hai ngày 17/5/2021.
11.
Chu Thanh Vân (2021), Nhiệm kỳ Chính phủ 2016-2021: Nêu cao tinh thần
đồn kết, thống nhất, Trung tâm Báo chí Thành phố Hồ Chí Minh, Nguồn: (truy cập ngày 28/10/2021).