Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam và định hướng hoàn thiện theo tinh thần hội nghị trung ương 5 khóa XII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.28 KB, 23 trang )

1

BÀI THU HOẠCH/ TIỂU LUẬN
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TÊN MƠN HỌC:

KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN

TÊN BÀI THU HOẠCH/ TIỂU LUẬN:

THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM VÀ ĐỊNH
HƯỚNG HOÀN THIỆN THEO TINH THẦN HỘI
NGHỊ TRUNG ƯƠNG 5 KHOÁ XII


2

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022


MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

CHỮ ĐƯỢC VIẾT TẮT

KTTT



Kinh tế thị trường

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


5

PHẦN I: MỞ ĐẦU
KTTT định hướng XHCN là sự đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam; đây là vấn đề lý luận và thực tiễn mới
mẻ và hết sức phức tạp, gắn bó giữa việc nhận thức quy luật khách quan với phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, là kết quả một
q trình tìm tịi, thể nghiệm lâu dài, từ chưa đầy đủ đến ngày càng đầy đủ, từ chưa sâu
sắc đến ngày càng sâu sắc hơn. Hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN là nội
dung cốt lõi, được triển khai thực hiện xuyên suốt trong quá trình đổi mới kinh tế của
nước ta; được bắt đầu ngay từ khi tiến hành công cuộc đổi mới và trở thành vấn đề cốt
lõi trong nội dung đổi mới. Vì vậy, vấn đề hồn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN
ở nước ta hiện nay luôn được coi là một nội dung trọng tâm, cần phải được quán triệt
cả về nhận thức và hành động. Đồng thời, “KTTT định hướng XHCN là mơ hình kinh
tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” [4, tr. 28]; là một
trong những phương thức để đạt được mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng đó, dựa trên q trình hồn thiện nền
KTTT định hướng XHCN ở nước ta sau hơn 35 năm đổi mới, bài nghiên cứu của tác
giả góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về thể chế KTTT định hướng XHCN, nêu ra
thực trạng của vấn đề bao gồm điểm lại những thành tựu đạt được cũng như một số hạn
chế, khó khăn trong việc hồn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay; từ đó luận giải nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn và đề ra một số giải

pháp cụ thể nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.


6

PHẦN II: NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
KTTT định hướng XHCN là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra cho mơ
hình kinh tế hiện tại của nước ta; được mơ tả là một nền KTTT nhiều thành phần, trong
đó nhà nước giữ vai trị chủ đạo và có trách nhiệm định hướng nề kinh tế, với mục tiêu
dài hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thống nhất và nêu rõ: “KTTT định hướng XHCN là mơ hình
kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền
KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của
KTTT, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu” dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
cơng bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền KTTT
định hướng XHCN Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không
ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng; kinh tế có vốn
đầu tư nước ngồi ngày càng được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược,
quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” [4, tr. 128-129]. Trong đó, tính chất
hiện đại trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam thể hiện sự tiếp thu, tích hợp
có chọn lọc các thành tựu mới của các nền KTTT phát triển nhất của thế giới, do đó,
nền KTTT định hướng XHCN là nền KTTT mở cửa và hội nhập theo chuẩn mực quốc
tế [6, tr. 21].
Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng XHCN trong
KTTT ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với

chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội
ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt q trình phát triển. Tổng Bí thư


7

Nguyễn Phú Trọng khẳng định rằng “KTTT định hướng XHCN là nền KTTT hiện đại,
hội nhập KTQT, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, có sự quản lý
của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định
hướng XHCN, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” [16, tr. 1]. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã nhận định “Đưa ra quan
niệm phát triển KTTT định hướng XHCN là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo
của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới,
xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới” [16,
tr. 2]. Điều này không chỉ tạo tiền đề xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hiện thực ở
Việt Nam mà cịn góp phần bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin trong
thời đại mới.
1.2. Quan điểm của Đảng về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
hiện nay
Đường lối, quan điểm, chính sách phát triển KTTT định hướng XHCN trong
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là sự kế thừa và phát triển về tư duy, lý luận của Đảng
Cộng sản Việt Nam, thật sự khoa học, có nhiều nội dung mới, kết tinh trí tuệ và sức
sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Những đường lối, quan điểm, chính
sách này có tính khái qt cao; vừa có tính tổng kết lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn,
phản ánh ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta về phát triển đất nước
nhanh, bền vững. Tại Đại hội XIII, Đảng ta nhận định: “Nhận thức về nền KTTT định
hướng XHCN ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục
được hồn thiện phù hợp với u cầu xây dựng nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc
tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với
thị trường khu vực và thế giới” [4, tr. 59-60] và “Thể chế KTTT định hướng XHCN

đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập” [5, tr. 31]. Theo
Đại hội XIII thì thực tiễn phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta trong thời gian


8

qua đã đạt được nhiều thành tựu vượt bậc trong q trình từng bước xây dựng thể chế,
song vẫn cịn hạn chế: “thể chế KTTT định hướng XHCN còn nhiều vướng mắc, bất
cập” [4, tr. 80].
Xuất phát từ những hạn chế, bất cập nên việc tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT
định hướng XHCN ở nước ta là tất yếu trong bối cảnh hiện nay, trong định hướng phát
triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Hoàn thiện toàn
diện, đồng bộ thể chế phát triển nền KTTT định hướng XHCN, tạo môi trường thuận
lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản
xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mơ hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tập
trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với
xây dựng nông thôn mới; ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng nông thôn miền núi,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số
trên nền tảng khoa học và cơng nghệ, đổi mới, sáng tạo; gắn kết hài hịa, hiệu quả thị
trường trong nước và quốc tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế” [4, tr. 114-115]. Đảng đã nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ và có
hiệu quả mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất
lượng cao. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thế chế phát triển nền KTTT định hướng
XHCN đầy đủ, hiện đại, hội nhập” [4, tr. 37]. Ngoài ra, cần “Tập trung ưu tiên hồn
thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính
sách nhằm tạo lập mơi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc
đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho
phát triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả,

đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp
hữu hiệu” [4, tr. 43].


9

1.3. Mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa theo Hội nghị Trung ương 5 khoá XII
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã đặt ra 3 mục tiêu để hoàn thiện
thể chế KTTT định hướng XHCN, cụ thể như sau [2]: Thứ nhất, mục tiêu tổng quát là
tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN tạo tiền đề vững chắc cho việc
xây dựng thành công và vận hành đồng bộ, thông suốt nền KTTT định hướng XHCN
góp phần huy động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực để thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển nhanh và bền vững vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Thứ hai, mục tiêu cụ thể đến năm 2020 là phấn đấu hoàn
thiện một bước đồng bộ hơn hệ thống thể chế KTTT định hướng XHCN theo các
chuẩn mực phổ biến của nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế. Cơ bản bảo đảm tính
đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; sự hài
hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hố, phát triển con người, thực hiện tiến
bộ, cơng bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ mơi trường, phát triển xã hội bền
vững. Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ. Thứ ba, mục tiêu đến năm 2030 là hoàn thiện đồng bộ và vận hành có hiệu
quả thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Cùng với đó, 06 nhiệm vụ và giải pháp mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5
khóa XII cũng đã đặt ra nhằm hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, cụ thể như
sau [2]: Một là, thống nhất nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta; Hai
là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp; Ba là, hồn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường
và các loại thị trường; Bốn là, hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo
đảm phát triển bền vững, tiến bộ và cơng bằng xã hội, quốc phịng, an ninh, bảo vệ mơi

trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; Năm là, hồn thiện thể chế đẩy mạnh, nâng
cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế; Sáu là, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng,


10

vai trò xây dựng và thực hiện thể chế kinh tế của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN.
2. Thực trạng và nguyên nhân thực trạng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1. Thành tựu trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Có thể nói, trải qua 35 năm đổi mới, mơ hình KTTT định hướng XHCN ở Việt
Nam ngày càng hồn thiện, trở thành đóng góp lý luận cơ bản và sâu sắc của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Nhờ vậy, nước ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa quan trọng, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước có
thu nhập trung bình, đời sống nhân dân được nâng cao. Việt Nam từ một trong những
nước nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp, cụ thể trong
giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ
đạt 4,4%, thì giai đoạn 1991 - 1995, tăng trưởng GDP bình quân đã đạt 8,2%/năm [12,
tr. 141-143]. Các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao, riêng giai đoạn
2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8 [8]. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019,
Việt Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền
kinh tế mới nổi thành công nhất [11]. Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn các
nước có mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của đại dịch
COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng 2,91%, góp phần làm cho GDP trong 5
năm (2016 - 2020) tăng trung bình 5,9%/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng
cao nhất khu vực và thế giới. Quy mô nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989
mới đạt 6,3 tỷ USD thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 343 tỷ USD [15]. Đời sống nhân

dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần, năm 2020, thu nhập bình quân đầu
người đạt trên 3.500 USD. Tính theo chuẩn nghèo chung, tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ


11

hơn 70% năm 1990 xuống còn dưới 6% năm 2018 [9]; hơn 45 triệu người thoát nghèo
trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2018. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt
Nam năm 2020 được xếp thứ 42/131 nước, đứng đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức
thu nhập [3]. Xếp hạng về phát triển bền vững của Việt Nam đã tăng từ thứ 88 năm
2016 lên thứ 49 năm 2020 [7], cao hơn nhiều so với các nước có cùng trình độ phát
triển kinh tế.
Thứ hai, đã dần hình thành đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị
trường, vận hành cơ bản thông suốt, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Thị
trường hàng hóa, dịch vụ đã có bước phát triển và hồn thiện về quy mơ, cơ cấu hàng
hóa - thị trường trong và ngồi nước, kết cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ, cơ chế quản
lý, mức độ cạnh tranh; quy mô thị trường trong nước liên tục tăng. Thị trường tài
chính, tiền tệ phát triển khá mạnh và sôi động, bên cạnh kênh huy động vốn từ ngân
hàng, thị trường chứng khoán đã bước đầu hình thành, góp phần đa dạng hóa nguồn
vốn đầu tư; đồng thời, hoạt động của thị trường bảo hiểm đã đóng góp tích cực vào
việc ổn định sản xuất và đời sống dân cư, huy động vốn cho sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; tỷ giá đồng tiền, giá ngoại tệ, giá vàng cơ bản giữ được ổn
định. Thị trường bất động sản đã có bước phát triển nhất định, nhiều dự án khu nhà ở,
khu đô thị mới với hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội tương đối đồng bộ đã được
hình thành, góp phần đơ thị hóa và dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thị trường lao động
đã được hình thành trên phạm vi cả nước, nguồn cung lao động khá dồi dào và gia tăng
với tốc độ nhanh, quy mô lực lượng lao động trẻ tăng cao. Thị trường khoa học - cơng
nghệ đang hình thành và phát triển, số lượng và giá trị giao dịch cơng nghệ có bước
tiến đáng kể trong những năm gần đây; trong đó, thị trường dịch vụ công cơ bản, nhất

là về y tế, giáo dục có bước phát triển mới, huy động được các nguồn lực ngoài ngân
sách nhà nước tham gia.


12

Thứ ba, đẩy mạnh phát huy vai trị tích cực của các chủ thể kinh tế trong nền
kinh tế quốc dân, trong tự do kinh doanh và cạnh tranh theo quy định của pháp luật.
Kinh tế nhà nước, hệ thống doanh nghiệp nhà nước từng bước được cơ cấu lại, cổ phần
hóa theo Luật Doanh nghiệp và đang giảm mạnh về số lượng; đề án cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước giai đoạn 2021 - 2025 được phê duyệt và tích cực thực hiện, đặt mục
tiêu đến năm 2025 là cơ bản hoàn thành việc sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu khối doanh
nghiệp nhà nước; cổ phần hóa và thối vốn đầu tư ngồi ngành theo cơ chế thị trường
được đẩy mạnh, trong đó tập trung vào các tập đồn, tổng cơng ty nhà nước. Kinh tế
tập thể bước đầu được đổi mới, các hình thức hợp tác kiểu mới được hình thành phù
hợp hơn với cơ chế thị trường, theo nguyên tắc hợp tác cùng có lợi; nhiều loại hình, mơ
hình kinh tế tập thể hoạt động hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo việc
làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cho các thành viên, góp phần xây dựng nơng
thơn mới, bảo đảm an sinh, an ninh, trật tự, an toàn xã hội [1]. Kinh tế tư nhân tăng
nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, giải quyết việc làm, đóng
góp ngày càng lớn vào GDP, trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế [4,
tr. 240]; kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỉ trọng 39 - 40%
GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan trọng
trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng
trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm,
cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội [14]. Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi được khuyến khích phát triển; chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP, tác
động trực tiếp đến nền kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước [18].
Thứ tư, năng suất, chất lượng, hiệu quả cạnh tranh của nền kinh tế được nâng
cao. Theo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân

sách Nhà nước 6 tháng đầu năm và các giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tếxã hội, ngân sách Nhà nước 6 tháng cuối năm 2021 thì tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu
năm đạt 5,64%, là mức khá cao so với các nước trên thế giới. Nhiều địa phương có


13

dịch nhưng vẫn tăng trưởng khá, kinh tế vĩ mô ổn định; lạm phát tiếp tục được kiểm
soát ở mức thấp; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; thị trường tiền tệ, tín
dụng, tỷ giá, lãi suất ổn định; thu ngân sách nhà nước đạt kết quả tích cực, lũy kế 6
tháng đạt 58,2% dự tốn, tăng 16,3% so với cùng kỳ. Chi ngân sách được quản lý chặt
chẽ, tiết kiệm, bảo đảm nhu cầu chi cho phòng chống dịch, an ninh, quốc phòng và các
nhiệm vụ cấp bách khác; cân đối ngân sách Trung ương được bảo đảm; tổng kim ngạch
xuất, nhập khẩu 6 tháng tăng 32,2% so với cùng kỳ; tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực
hiện tăng 7,2%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện đạt trên 9,2 tỷ USD, tăng
6,8%. Cơng tác quản lý thị trường, giá cả, phịng chống buôn lậu, gian lận thương mại
được tăng cường; thương mại điện tử phát triển mạnh, trở thành kênh phân phối quan
trọng trong bối cảnh dịch bệnh, hỗ trợ tích cực cho tiêu thụ nông sản [13].
Thứ năm, tư tưởng, đường lối phát triển KTTT định hướng XHCN đã được thể
chế hóa thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế vận hành có hiệu quả.
Trong gần 35 năm đổi mới, đã hai lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban
hành hơn 150 bộ luật và luật, trên 70 pháp lệnh. Gần đây nhất, Quốc hội đã thông qua
nhiều đạo luật quan trọng khác để từng bước hoàn thiện thể chế KTTT định hướng
XHCN và thúc đẩy chuyển đổi mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Trong từng
lĩnh vực pháp luật cụ thể, có thể thấy, các đạo luật điều chỉnh những quan hệ kinh tế,
dân sự cơ bản nhất của nền KTTT định hướng XHCN đã được ban hành, trong số đó,
phải kể tới các đạo luật quy định về bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản của người dân,
doanh nghiệp, các đạo luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng, bảo đảm quyền tự do hợp
đồng của người dân, doanh nghiệp như Bộ luật dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật
Sở hữu trí tuệ, Luật Thương mại,…; các đạo luật quy định điều chỉnh các hoạt động
đầu tư, kinh doanh trong nền kinh tế như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư,…; các đạo

luật về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như Luật Cạnh tranh, Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, Luật An tồn thực phẩm, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng
hóa…; các đạo luật về một số loại thị trường quan trọng như thị trường lao động, thị


14

trường đất đai, thị trường bất động sản, thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường vốn, thị
trường tín dụng như Bộ luật lao động, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất
động sản, Luật Thương mại, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Chứng khốn…; các đạo
luật về an sinh xã hội và bảo vệ môi trường như Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo vệ
môi trường…; các đạo luật về giải quyết tranh chấp và phá sản đã được ban hành, trong
đó phải kể tới Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Trọng tài thương mại, Luật Phá sản,…. Bên
cạnh đó, các đạo luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực kinh tế cũng được ban hành trong
đó phải kể tới Bộ luật Hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính,… Những văn bản quy
phạm pháp luật này về cơ bản đã tạo hành lang pháp lý hình thành và thúc đẩy việc xây
dựng thể chế KTTT định hướng XHCN.
Thứ sáu, giúp nước ta hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Độ mở của
nền kinh tế nước ta được đánh giá là cao trên thế giới với tỷ trọng xuất, nhập khẩu trên
tổng sản phẩm nội địa (GDP) là hơn 200%. Việt Nam cũng tham gia nhiều hiệp định đa
phương thế hệ mới, cụ thể Việt Nam đã tham gia Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến
bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và
Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và
mới đây là Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam, Anh và Bắc A-len (UKVFTA).
Đến năm 2020, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện; có
quan hệ ngoại giao với 189/193 nước, có quan hệ kinh tế với 160 nước và 70 vùng lãnh
thổ. Đặc biệt, có 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham gia là những
cánh cửa lớn, đa chiều để Việt Nam định hướng hoàn thiện khung khổ thể chế phát
triển KTTT và tự tin hội nhập toàn cầu ngày càng sâu, rộng, đầy đủ, hiệu quả hơn [10].
2.2. Khó khăn, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến khó khăn hạn chế trong việc hồn

thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, thực tiễn phát triển KTTT
định hướng XHCN ở Việt Nam thời gian qua cịn có nhiều khó khăn, hạn chế, một số


15

khó khăn, hạn chế có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về KTTT định hướng XHCN diễn ra
chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành của KTTT định hướng
XHCN, nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất qn và những bất cập trong q
trình hồn thiện thể chế KTTT; do vậy, chưa huy động được tối đa tiềm lực để phát
triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa được xử lý phù
hợp, rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí, chưa
cơng bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã
hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh thần của một bộ
phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chậm được cải thiện, ít
được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của nền kinh tế. Bên cạnh đó, sự suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai
nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, chay theo danh lợi, tiền tài. Do
vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi trọng đồng tiền,
xem thường truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.
Thứ ba, nguồn nhân lực còn hạn chế về chất lượng. Trong bối cảnh cạnh tranh
kinh tế toàn cầu, tất cả các nước đều coi nguồn nhân lực là công cụ quan trọng nhất để
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Việt Nam đang có lợi thế với lực lượng lao
động dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. Tuy nhiên, vẫn cịn thiếu hụt lao động có tay nghề
cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động và hội nhập; khoảng cách giữa
giáo dục nghề nghiệp và nhu cầu của thị trường lao động ngày càng lớn, lao động thiếu
năng động và sáng tạo, tác phong chuyên nghiệp,…

Thứ tư, hệ thống pháp luật kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập và vẫn
chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống pháp luật cịn thiếu tồn
diện, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật, nhiều


16

nội dung quan trọng liên quan tới vấn đề đổi mới kinh tế - xã hội chậm được thể chế
hoá như: vấn đề quản lý nhà nước đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước; về đăng ký
kinh doanh bất động sản; cạnh tranh trung thực; kiểm soát độc quyền,..; Một số văn
bản pháp luật quan trọng đã ban hành song hiệu lực thực thi chưa cao; tính cụ thể,
minh bạch, rõ ràng của nhiều luật còn thấp, những sai phạm về hình thức văn bản vẫn
xảy ra. Vẫn cịn tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, thiếu thống nhất trong hệ
thống pháp luật; một số văn bản cịn thiếu tính ổn định; quy định trong một số luật cịn
mang tính ngun tắc, chưa cụ thể để áp dụng được ngay; ngược lại, một số văn bản
điều chỉnh các vấn đề mới, chưa được kiểm nghiệm đầy đủ trong thực tiễn nhưng lại
quy định quá cụ thể dẫn đến nhanh bị lạc hậu hoặc tính khả thi thấp. Việc công bố,
đăng tải, hướng dẫn các văn bản quy phạm pháp luật chưa được các cơ quan nhà nước
chấp hành kịp thời và nghiêm chỉnh; quy trình xây dựng pháp luật cịn thiếu tính dân
chủ, tính đại chúng, cịn nhiều cứng nhắc và nhiều bất cập, cách phân công và thực
hiện quy trình soạn thảo dễ dẫn đến tình trạng bảo vệ lợi ích cục bộ của ngành, địa
phương; chưa thật sự vì lợi ích chung và vì sự thuận lợi của người dân,…
Thứ năm, đại dịch COVID-19 làm suy giảm hoạt động sản xuất và tăng trưởng
của nền kinh tế. Theo Tổng cục Thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2020, tổng mức bán
lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm 0,8% so với cùng kỳ năm 2019 và nếu
loại trừ yếu tố giá thì còn giảm mạnh hơn, ở mức 5,3% (cùng kỳ năm 2019 tăng 8,5%).
Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa 6 tháng đầu năm 2020 tăng 3,4% so với cùng kỳ
năm 2019. Cũng trong 6 tháng đầu năm 2020, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống giảm
tới 18,1% so với cùng kỳ năm 2019; doanh thu du lịch lữ hành giảm tới 53,2% - đây là
lĩnh vực chịu tác động nghiêm trọng nhất bởi dịch bệnh COVID-19 và từ việc thực

hiện các biện pháp giãn cách xã hội. Đại dịch COVID-19 làm đứt gãy chuỗi cung ứng
đầu vào và lao động, nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có chun gia
người nước ngồi và người lao động nước ngoài chịu tác động nặng nề từ COVID-19
khi nguồn cung lao động bị thiếu. Dưới góc độ xã hội, COVID-19 tác động làm tăng tỷ


17

lệ nghèo và cận nghèo về thu nhập và làm sụt giảm thu nhập tạm thời của hộ gia đình
và người lao động, theo kết quả khảo sát của UNDP và UN WOMEN (2020), “trong
tháng 12-2019, trung bình tỷ lệ hộ nghèo là 11,3%; tỷ lệ này tăng lên tới 50,7% trong
tháng 4-2020; tỷ lệ hộ cận nghèo tăng từ 3,8% vào tháng 12-2019 lên 6,5% vào tháng
4-2020” [17].
Những hạn chế, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên
nhân quan trọng là do nhận thức của một số cán bộ, đảng viên về nền KTTT định
hướng XHCN chưa đầy đủ. Năng lực xây dựng và thực thi thể chế còn nhiều bất cập,
chưa theo kịp với sự phát triển của nền KTTT. Vai trò, chức năng, phương thức hoạt
động của các cơ quan trong hệ thống chính trị chậm đổi mới phù hợp với yêu cầu phát
triển KTTT trong điều kiện hội nhập quốc tế.
3. Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa theo tinh thần Hội nghị Trung ương 5 khoá XII ở Việt Nam hiện
nay
Dựa trên tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá XII, theo tác giả
cần đề ra một số giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng
XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay như sau:
Một là, nâng cao năng lực, hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước. Để có một nền
KTTT định hướng XHCN phát triển, địi hỏi phải có mơi trường cơng khai, minh bạch,
có bộ máy nhà nước tinh gọn, đủ năng lực điều hành và quản lý nền kinh tế, đưa nền
kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, chất lượng và hiệu quả. Theo đó, đổi mới
phương thức quản lý nhà nước về kinh tế; thực hiện đúng đắn và đầy đủ chức năng của

Nhà nước trong nền KTTT. Tiếp tục rà soát, cơ cấu lại bộ máy nhà nước theo hướng
tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của các thiết chế
giải quyết tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, trọng tâm là các hoạt động hòa
giải, trọng tài thương mại và tòa án nhân dân các cấp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp


18

của người dân và doanh nghiệp,…
Hai là, đẩy mạnh cải cách hành chính. Cần tiếp tục hồn thiện thể chế về cải
thiện mơi trường đầu tư, kinh doanh; có chính sách đột phá tháo gỡ những vướng mắc,
tạo thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp phát triển trên cơ sở đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành
chính và cải cách tư pháp làm cho nền KTTT khơng có sự phân biệt đối xử đối với các
đối tượng và chủ thể trên thị trường. Tập trung đẩy mạnh cải cách công vụ, cơng chức,
trong đó cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức theo vị trí việc làm và xây
dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Triển khai mạnh mẽ việc xây dựng, phát triển
Chính phủ điện tử, Chính phủ số, trong đó Cổng dịch vụ cơng Quốc gia; tiếp tục đẩy
mạnh cải cách thủ tục hành chính, tập trung áp dụng cơng nghệ số để cải tiến mọi quy
trình, thủ tục của các cơ quan hành chính – cơng vụ giúp công việc được tiến hành bài
bản, chuẩn mực, sự liên thông, sự minh bạch luôn được bảo đảm.
Ba là, đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc
cho nền kinh tế. Tập trung rà soát, sửa đổi những quy định chồng chéo, mâu thuẫn,
chưa hợp lý trong hệ thống luật pháp, các thủ tục hành chính gây phiền hà cho doanh
nghiệp và người dân, gây phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế, tạo nên những rào cản cản trở sự phát triển đất nước. Đồng thời, bổ sung luật
pháp, cơ chế, chính sách thể chế hóa đầy đủ quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do
kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, hấp dẫn, cơng khai, minh
bạch, thơng thống để thu hút đầu tư, thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, nhất là việc tạo môi trường thuận lợi cho hình thành, phát triển hệ sinh

thái khởi nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo doanh nghiệp; hỗ trợ, khuyến
khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực, những mơ hình sản xuất kinh doanh
mới, công nghệ mới, sản phẩm mới trên cơ sở những thành tựu của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư; hỗ trợ, thúc đẩy chuyển đổi mơ hình tăng trưởng; cơ cấu lại nền


19

kinh tế để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế,
từng bước thực hiện chuyển đổi số cho các ngành, lĩnh vực, phát triển kinh tế số, kinh
thế tuần hoàn, kinh tế chia xẻ, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới.
Bốn là, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước đối với nền KTTT định hướng XHCN. Tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao
năng lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức đảng; tăng cường, sử dụng hợp lý các tổ
chức, cán bộ nghiên cứu để tham mưu cho Đảng trong việc xây dựng, lãnh đạo và kiểm
tra việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội. Đổi
mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yếu cầu
phát triển KTTT định hướng XHCN, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong giai
đoạn mới trên cơ sở tôn trọng và vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật và cơ chế vận
hành của KTTT. Phân định rõ hơn chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước và chức
năng của các tổ chức kinh doanh vốn và tài sản nhà nước. Nâng cao vai trò của các cơ
quan dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và của nhân
dân trong phát triển KTTT định hướng XHCN.
Năm là, đẩy mạnh hội nhập và liên kết sâu rộng về kinh tế quốc tế. Để tận dụng
và phát huy hơn nữa những thành tựu hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua, cần tập
trung: Ưu tiên hàng đầu cho việc thực thi hiệu quả các cam kết trong các FTA và tại
các cơ chế hợp tác kinh tế mà chúng ta là thành viên; tiếp tục hoàn thiện, mở rộng
mạng lưới liên kết, hội nhập kinh tế song phương và đa phương với các đối tác và tổ
chức trên thế giới, đưa Việt Nam trở thành tâm điểm của liên kết kinh tế tầm toàn cầu,
phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát

triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta; nỗ lực
và chủ động tham gia quá trình định hình cấu trúc khu vực, xây dựng các khuôn khổ,
quy định quản trị kinh tế ở tầm khu vực, liên khu vực và tồn cầu; đóng góp hiệu quả,
trách nhiệm vào giải quyết những vấn đề chung, nhất là bảo đảm hệ thống thương mại


20

đa phương tự do, mở và dựa trên luật lệ, cải cách WTO, thúc đẩy phát triển bền vững,
bao trùm... Đồng thời, cần chủ động, tích cực trong tham gia hiệu quả các liên kết kinh
tế quốc tế tạo cơ hội lớn để chúng ta tiếp tục đa dạng hóa thị trường, đối tác, thu hút
nguồn lực cho phát triển, tranh thủ các xu hướng lớn hiện nay, nhất là tại châu Á - Thái
Bình Dương, phục vụ tốt nhất cho mục tiêu phục hồi và tăng trưởng nhanh, bền vững.
Năm là, tập trung xây dựng và phát huy nhân tố con người trong phá triển kinh
tế. Trong nền KTTT định hướng XHCN do con người đóng vai trị động lực khơng chỉ
vì mục tiêu kinh tế mà quan trọng hơn cịn vì các mục tiêu xã hội, vì sự phát triển tồn
diện các mặt của con người, vì cuộc sống hạnh phúc của con người. Do đó, cần có
chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định được những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp
với yêu cầu, khả năng nhằm phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người
làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động. Cần có chính sách xã hội nhằm chăm lo, bồi
dưỡng xây dựng và phát triển con người mới, có tri thức, sức khỏe và lao động giỏi,
sống có văn hóa, tình nghĩa, giàu lịng u nước và tinh thần quốc tế; bảo đảm không
ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân về ăn, mặc, ở, đi
lại, nghỉ ngơi, dịch vụ y tế, việc làm và điều kiện lao động; xây dựng mơi trường xã hội
trong sạch, an tồn, vì sự phát triển toàn diện của con người; tăng cường chính sách
phân phối theo lao động, khuyến khích làm giàu, tăng thu nhập chính đáng, dựa trên
kết quả lao động, đồng thời có chính sách bảo trợ, điều tiết hợp lý thu nhập giữa các
vùng, các bộ phận dân cư, thiết lập một hệ thống đồng bộ về bảo hiểm và trợ cấp xã
hội; chăm lo cho gia đình, thực hiện bình đẳng nam nữ, cải thiện điều kiện sống, làm
việc của bà mẹ, chăm sóc giáo dục và bảo vệ trẻ em, chăm lo đời sống người già, tàn

tật, yếu thể trong xã hội; chăm lo văn hoá, phát triển thể dục thể thao nâng cao thể chất
của người dân,…
Sáu là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tăng cường sự tham gia của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp; theo đó,


21

phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị – xã hội. Mở rộng thu thập ý kiến đánh giá từ doanh nghiệp và người
dân đối với quá trình triển khai thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức xã hội – nghề nghiệp
tham gia vào các chương trình, dự án hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ, thúc đẩy các
hình thức liên kết doanh nghiệp, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập,
phát triển thị trường,…
PHẦN III: KẾT LUẬN
Xây dựng mơ hình KTTT định hướng XHCN là lựa chọn đúng đắn của Đảng ta, phù
hợp với xu hướng và yêu cầu thực tiễn phát triển KTTT trên thế giới. Bởi lẽ, thực tế đã,
đang và sẽ ngày càng cho thấy, dù ở đâu và thời đại nào, dù chế độ và thể chế chính trị
nào, song mọi mơ hình KTTT muốn thành cơng đều phải ngày càng hội tụ vào mục
tiêu cao nhất và xuyên suốt là vì phát triển đất nước bền vững và đáp ứng ngày càng tốt
hơn khát vọng hạnh phúc cho người dân của quốc gia mình. Thực tế hơn 35 năm đổi
mới cho thấy, nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN ngày càng đầy đủ hơn; hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây
dựng nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; phương thức lãnh đạo của Ðảng, hoạt
động của Nhà nước cũng từng bước được đổi mới phù hợp hơn với yêu cầu phát triển
nền KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế,… Cùng với sự vận động của quá
trình đổi mới tư duy kinh tế, Đảng đã nhìn nhận ngày càng sáng rõ hơn những mặt tích
cực và sự tồn tại khách quan của cơ chế thị trường trong nền kinh tế nước ta thời kỳ
quá độ. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng tiếp tục khẳng định phát triển KTTT

định hướng XHCN là một nội dung trọng tâm, cần phải được quán triệt cả về nhận thức
và hành động; đồng thời, chỉ rõ những nội dung trọng tâm cần tiếp tục thực hiện để bảo
đảm có nền KTTT hiện đại, đồng bộ, hội nhập quốc tế theo định hướng XHCN, phù
hợp bối cảnh mới của nước ta hiện nay.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mỹ Anh (2022), Xây dựng mô hình quản trị kinh tế tập thể và hợp tác xã tiên tiến, Báo

điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguồn: truy cập ngày
21/3/2022.
2. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết hội nghị lần
thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Hà Nội.
3. BT (2020), Việt Nam giữ thứ hạng cao về Chỉ số Đổi mới sáng tạo tồn cầu, Báo Điện

tử Chính phủ, Nguồn: truy cập ngày 21/3/2022.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII,

Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Tập 1.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Tập 2.
6. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác Lênin (Dùng cho hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
7. Đình Nam (2020), Phát triển bền vững là việc phải làm, Báo Điện tử Chính phủ,

Nguồn: />truy cập ngày 21/3/2022.
8. Nguyễn Hồng Nga (2020), Kinh tế Việt Nam 2016 – 2019 và định hướng 2020, Báo

Điện tử Chính phủ, Nguồn: truy cập ngày 21/3/2022.
9. Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (2021), Tổng quan về Việt Nam, Trang thông tin điện


tử

của

Ngân

hàng

Thế

giới

tại

Việt

Nam,

Nguồn:

truy cập ngày 21/3/2022.
10. Nguyễn Minh Phong (2022), Dấu ấn tích cực trên hành trình đổi mới và hội nhập
quốc tế của Việt Nam, Báo Điện tử Chính phủ, Nguồn: truy cập ngày 21/3/2022.


11. Nguyễn Minh Phong, Nguyễn Trần Minh Trí (2021), Vị trí và cơ đồ kinh tế Việt Nam,

Báo Điện tử Nhân dân, Nguồn: truy cập ngày 21/3/2022.
12. Võ Hồng Phúc (2006), Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới (1986


- 2005), Sách “Việt Nam 20 năm đổi mới”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
13. PV (2021), Nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh nền kinh tế, Báo
điện

tử

Vietnamplus,

Thông

tấn



Việt

Nam,

Nguồn:

truy cập ngày 21/3/2022.
14. Nguyễn Quang Tạo, Nguyễn Thị Ly (2021), Kinh tế tư nhân - động lực quan trọng của
nền kinh tế, Tạp chí điện tử Tuyên Giáo, Nguồn: truy cập ngày 21/3/2022.
15. Tổng cục Thống kê (2021), Kinh tế Việt Nam 2020: Một năm tăng trưởng đầy bản lĩnh,
Nguồn: truy cập ngày 21/3/2022.
16. Nguyễn Phú Trọng (2021), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Báo Nhân dân số 23945 ra thứ hai ngày
17/5/2021.
17. Nguyễn Quang Tuấn (2020), Tác động của đại dịch COVID-19 và một số giải pháp

chính sách cho Việt Nam trong giai đoạn tới, Tạp chí Cộng sản, Nguồn:
truy cập ngày 21/3/2022.
18. Nguyễn Đình Tương (2021), Đổi mới chính sách thu hút đầu tư nước ngồi gắn với
bảo đảm quốc phịng, an ninh, Tạp chí điện tử Tuyên Giáo, Nguồn:
/>ngày 21/3/2022.

truy

cập



×