Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

(TIỂU LUẬN) thảo luận nhóm TMU nội DUNG cơ bản của học THUYẾT HÌNH THÁI KINH tế xã hội và ý NGHĨA đối với CON ĐƯỜNG đi lên CNXH ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.29 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
----------

BÀI THẢO LUẬN
MÔN TRIẾT HỌC MÁC LÊ- NIN
ĐỀ TÀI:
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ
HỘI VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN: NGUYỄN THỊ LIÊN
MÃ LỚP HỌC PHẦN: 2184MLNP0221
NHÓM: 4
Thành viên:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

NGUYỄN THÙY LINH
VŨ THỊ THÙY LINH
BÙI ĐẠI LỘC
NGƠ NGỌC LY
NGUYỄN HỒNG SAO MAI
PHẠM TUYẾT MAI
NGUYỄN THỊ HIỀN MINH
NGUYỄN THỊ NGA

4



0


Mục lục

LỜI NÓI ĐẦU......................................................................................................... 3
1. Giới thiệu vấn đề thảo luận.................................................................................3
2. Mục đích và nhiệm vụ của bài thảo luận...........................................................4
Khái quát chung về học thuyết hình thái kinh tế- xã hội.....................................5
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT KINH TẾ - XÃ HỘI......6
1. Sản xuất vật chất - nền tảng của sự vận động, phát triển xã hội:...........6
2. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất........7
3. Kiến trúc thượng tầng, cơ sở hạ tầng và quan hệ biện chứng giữa cơ sở
hạ tầng với kiến trúc thượng tầng của xã hội..............................................12
4. Sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội.............................................15
Ý NGHĨA CỦA HỌC THUYẾT VỚI CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT
NAM....................................................................................................................... 17
I. Ý nghĩa của học thuyết với con đường đi lên CNXH ở Việt Nam xét về mặt
lịch sử...................................................................................................................... 17
1. Tổng quát................................................................................................... 17
2. Cụ thể, chi tiết............................................................................................ 19
3. Các thành tựu đạt được............................................................................24
4. Đánh giá, nhận xét.....................................................................................25
II. Ý nghĩa của học thuyết với con đường đi lên CNXH ở Việt Nam xét về mặt
khoa học................................................................................................................. 25
III. Ý nghĩa của học thuyết với con đường đi lên CNXH ở Việt Nam xét về mặt
thực tiễn.................................................................................................................. 27
1. Những vấn đề thực tại...............................................................................27
2. Những giải pháp dựa trên sự vận dụng sáng tạo học thuyết kinh tế- xã

hội Mác........................................................................................................... 28
3. Những định hướng của nước ta về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại hiện nay.................................................29
TỔNG KẾT............................................................................................................ 31
1. Đánh giá vấn đề thảo luận................................................................................ 31
2. Tài liệu tham khảo.............................................................................................32

4

0


LỜI NÓI ĐẦU
1. Giới thiệu vấn đề thảo luận
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã hội
của triết học Mác-Lênin, là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời
sống xã hội và lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong ba bộ
phận hợp thành triết học Marxist. Chủ nghĩa duy vật lịch sử lý giải sự tiến hóa
của xã hội lồi người bằng sự phát triển của trình độ sản xuất. Trình độ sản xuất
thay đổi khiến quan hệ sản xuất cũng thay đổi dẫn đến những mối quan hệ xã
hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó cùng với những tư tưởng nảy sinh
ra từ những quan hệ xã hội đó cũng thay đổi kéo theo sự thay đổi hệ thống pháp
lý và chính trị. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx trở thành phương pháp luận
của nhiều nhà nghiên cứu trong các bộ mơn như sử học, xã hội học...
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử do C. Mác xây dựng lên, giữ vị trí quan trọng trong triết học Mác. Lý
luận của học thuyết đã được thừa nhận là lý luận khoa học và là phương pháp
luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Nhờ có lý luận hình thái kinh
tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động

lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế
độ xã hội. Ngày nay, thế giới đang có những biến đổi to lớn, sâu sắc nhưng lý
luận hình thái kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và giá trị thời đại.
Đây là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học chỉ đạo cho các chính
đảng và nhà nươc xã hội chủ nghĩa vận dụng sáng tạo trong xác định cương lĩnh,
đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng chủ nghĩa xã hội; là cơ sở khoa học
của việc xác định con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Trong thực tiễn, Đảng và nhà nước ta cũng đang tiến hành công cuộc xây
dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở bám sát tư
tưởng Mác- Lênin và đặc biệt là vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội
vào cơng cuộc xây dựng đất nước, vạch ra những mối liên hệ hợp quy luật và đề
ra các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện thành công công cuộc xây dựng đất
nước Việt Nam thành một đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Đề tài: Nội dung cơ bản của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và ý
nghĩa đối với con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là một nội dung rộng và
phức tạp. Do trình độ hạn hẹp và có hạn trong một bài tiểu luận nên chúng em
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong cô thông cảm và bỏ qua.

4

0


2. Mục đích và nhiệm vụ của bài thảo luận
1. Mục đích: Hiểu rõ thêm về nội dung, những giá trị của học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội và việc vận dụng nó vào cơng cuộc xây dựng đất nước ta hiện
nay.
2. Nhiệm vụ: Thông qua việc phân tích rõ những nội dung cơ bản của học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội để thấy được ý nghĩa to lớn của nó đối với con

đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

4

0


Khái quát chung về học thuyết hình thái kinh tế- xã hội
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội do Mác – Ăngghen phát hiện ra vào những
năm 40 của thế kỷ 19, được V.I.Lênin kế thừa và phát triển, vận dụng lý luận
này vào cách mạng tháng 10 Nga. Lý luận hình thái kinh tế xã hội được xây
dựng nên nhằm mục đích tìm hiểu quy luật chung nhất về sự vận động và phát
triển của loài người. Nhờ đó mà lần đầu tiên trong lịch sử lồi người chỉ ra rõ
được nguồn gốc động lực bên trong của sự phát triển xã hội, và vạch ra được
những quy luật cơ bản cùng sự nghiên cứu đúng đắn khoa học về sự vận động và
phát triển xã hội.
Ta biết xã hội là tổng thể của nhiều lĩnh vực với những mối quan hệ xã hội
hết sức phức tạp, được nghiên cứu và tiếp cận từ nhiều khía cạnh khác nhau, với
những ý tưởng phân chia lịch sư lịch sử tiến hóa lồi người khác nhau. Chúng ta
cũng đã quen với những khái niệm thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng, thời đại cối
xay gió, thời đại máy hơi nước,.... và gần đây là các nền văn minh : văn minh
nông nghiệp, văn minh cônh nghiệp, văn minh hậu công nghiệp. Rồi từ sự vận
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng vào phân tích đời sống xã hội, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lê-nin đã đưa ra khái niệm hình thái kinh tế xã hội.
Theo Mác Lê-nin, hình thái kinh tế - xã hội là phạm trù cơ bản của chủ
nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định,
với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình
độ nhất định của lực lượng sane xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương
ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Hình thái kinh tế - xã hội
có cấu trúc phức tạp, trong đó kết cấu gồm 3 mặt : lực lượng sản xuất, quan hệ

sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của nó có vị trí riêng, tác động qua
lại với và thống nhất với nhau.
“ Khi phân tích những hình thái kinh tế, người ta không thể dùng kinh hiển vi
hay những chất phản ứng hóa học được. Sức trừu tượng hóa phải thay thế cho
cả hai cái đó”._Karl Marx.
Xã hội lồi người đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội tương ứng với 5 phương
thức sản xuất :






Hình thái kinh tế - xã hội cộng đồng nguyên thủy.
Hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nơ lệ.
Hình thái kinh tế - xã hội phong kiến.
Hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

4

0


NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Sản xuất vật chất - nền tảng của sự vận động, phát triển xã hội:
Để có thể tồn tại và phát triển, con người cần phải tiến hành sản xuất, đó là
đặc trưng riêng của con người và xã hội lồi người. Sản xuất là q trình không
ngừng sáng tạo để làm, tạo ra các giá trị vật chất, tinh thần nhằm mục đích thỏa
mãn nhu cầu của các nhân cũng như của xã hội. Quá trình sản xuất diễn ra trong

đời sống của con người chính là sự sản xuất xã hội-sản xuất và tái sản xuất ra
đời sống hiện thực. Sự sản xuất xã hội bao gồm 3 phương diện không thể tách
rời nhau:
a, Sản xuất vật chất : là q trình mà trong đó con người sử sụng công cụ
lao động tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật
chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và
phát triển của con người.
b, Sản xuất tinh thần : là hoạt động sáng tạo ra các giá trị tinh thần nhằm
thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội.
c, Sản xuất ra bản thân con người :
 Phạm vi cá nhân, gia đình : là việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái để duy
trì nịi giống.
 Phạm vi xã hội : là sự tăng trưởng dân số, phát triển con người với tư
cách là thực thể sinh học – xã hội.
Sản xuất vật chất có vai trị quan trọng bởi lẽ :
 Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội lồi người. Nó
là tiền đề trực tiếp tạo ra tư liệu sinh hoạt của con người nhằm duy rì sự
tồn tại và phát triển của con người nói chung cũng như từng cá thể người
nói riêng.
 Sản xuất vật chất là tiền đề của mọi hoạt động lịch sử con người. Sản xuất
vật chất đã tạo ra các điều kiện, phương tiện bảo đảm cho hoạt động tinh
thần của con người và duy trì , phát triển phương thức sản xuất tinh thần
của xã hội.
 Sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản, quyết định nhất đối với sự hình
thành, phát triển phẩm chất xã hội của con người.
Ph.Ăngghen khẳng định rằng, trên một ý nghĩa cao nhất,
“lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”.
Nhờ lao động sản xuất mà con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa hòa nhập
với tự nhiên, cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, đồng
thời sáng tạo ra chính bản thân con người.


4

0


2. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
2.1. Phương thức sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm chỉ hai mối quan hệ
“song trùng” của nền sản xuất vật chất xã hội, đó là quan hệ giữa con người với
tự nhiên và quan hệ giữa người với người trong q trình sản xuất, là sự thơng
nhất trong phương thức sản xuất. Vậy trước hết ta tìm hiểu phương thức sản
xuất. Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất
vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội lồi người. Nó giúp sáng
tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội ở từng thời kỳ lịch
sử nhất định.
2.1.1 Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra
sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới
tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội Đây là nền tảng vật
chất – kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác
nhau sẽ co lực lượng sản xuất khác nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất
quyết định đến sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội.
Về cấu trúc lực lượng sản xuất được xem xét trên cả hai mặt : mặt kinh tế - kĩ
thuật (tư liệu sản xuất) và mặt kinh tế - xã hội (người lao động).

Trong đó, yếu tố cơ bản nhất là Con người – người lao động với thể lực, học
vẫn, kinh nghiệm kỹ năng, trình độ lao động. Người lao đơng là chủ thể đóng
vai trị quyết định trong q trình sản xuất, họ tạo ra của cải vật chất cho xã hội

(bao gồm chất lượng lao động và số lượng lao động). Đây là nguồn lực cơ bản,
vô tận và đặc biệt của sản xuất.
V.I.Lê-nin đã nhấn mạnh : “Lực lượng sản xuất hàng đầu của
tồn thể nhân loại là người cơng nhân, là người lao động”.

4

0


Tư liệu sản xuất là những vật phẩm, yếu tố, điều kiện để con người tác động
vào đối tượng nhằm tạo ra sản phẩm. Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động
(gồm phương tiện lao động và công cụ lao động) và đối tượng lao động. Đối
tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dùng tư liệu
lao động tác động lên, biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của
con người. Thí dụ như đất canh tác, nguồn nước... Tư liệu lao động là vật hay
phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với đối tượng lao động, chúng dẫn
truyền con người với sản xuất.
Mà trong tư liệu lao động công cụ lao động giữ vai trò quyết định đến năng
xuất lao động; là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là
nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi kinh tế - xã hội, là thước đo trình độ tác
động, cải biến tự nhiên của con người và tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh
tế khác nhau.
Công cụ lao động được hiểu là những phương tiện vật chất mà con người trực
tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng, tại ra của
cải vật chất phục vụ nhu cầu con người. Đây chính là “khí quan” của bộ óc, là tri
thưc được vật thể hóa do con người sáng tạo ra và được sử dụng làm phương
tiện vật chất của quá trình sản xuất. Cùng với q trình tích lũy kinh nghiệm,
những phát minh và sáng chế kĩ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải
tiến, hoàn thiện và sự phát triển của cơng cụ đã làm biến đổi tồn bộ tư liệu sản

xuất, quá trình sản xuất. Đây là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi.
Từ đó cho thấy đặc trưng của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người
lao động và cơng cụ lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển
của người lao dộng và công cụ lao động. Trong ngày nay đang diễn ra các cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khoa học đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, nền kinh tế trở thành nền kinh tế tri thức. Sự phát triển của tri
thức khoa học gắn liền với sản xuất là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển. Vì vậy mà sản xuất ngày càng phát triển, chất lượng
cuộc sống con người được nâng cao.
2.1.2. Quan hệ sản xuất
Song hành cùng với lực lượng sản xuất chính là quan hệ sản xuất. Ta hiểu
quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế- vật chất giữa người với người
trong quá trình sản xuất vật chất.
Quan hệ sản xuất là một trong những biểu hiện của quan hệ xã hội, giữ vai trò
quan trọng xuyên suốt trong quan hệ xã hội vì quan hệ sản xuất là quan hệ đầu
tiên, quyết định những quan hệ khác.

4

0


Kết cấu của quan hệ sản xuất: gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản
xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và hoạt động buôn bán và quan hệ về phân
phối sản phẩm lao động.
 Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong
việc chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất. Đây là quan hệ quy định địa vị
kinh tế - xã hội của các tập đồn người trong sản xuất, từ đó quy đinh quan
hê quản lý và phân phối.
 Quan hệ trong tổ chức quản lý và hoạt động buôn bán là quan hệ giưaax các

tập đoàn người trong việc tổ chức sản xuất và phân cơng lao động. Quan hệ
này có vai trị quyết định trực tiếp đến quy mơ, tốc độ, hiệu quả của nền sản
xuất.
 Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn trong
việc phân phối sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức quy mơ của cải
vật chất mà các tập đồn người được hưởng. Quan hệ này có vai tị đặc biệt
quan trọng, kích thích trực tiếp lợi ích của con người.
Như Karl Marx có khẳng định:
“ Tổng hợp lại những quan hệ sản xuất cấu thành cái mà người ta gọi là quan
hệ xã hội, cái gọi là xã hội mà lại là một xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch
sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo, riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội
phong kiến, xã hội tư bản đều là những tập hợp các quan hệ sản xuất theo loại
đó mà mỗi tổng thể ấy đồng thời lại tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển đặc
thù trong lịch sử nhân loại”.
Đúng thế quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định mọi
quan hệ xã hội khác. Đó là quan hệ có tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các
chế độ xã hội.
2.2. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất
có tác động biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản
xuất, còn quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi, phát triển. Sự biến
đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản
xuất mà trước hết là cơng cụ. Điều đó sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương
đối của quan hệ sản xuất.

4


0


Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất nhưng do
mâu thuẫn giữa cái “động” là lực lượng sản xuất với cái “ổn định tương đối” là
quan hệ sản xuất đã nói trên thì quan hệ đó lại trở thành “xiêng xích” kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi tất yếu của nền xã hội là phải xóa
bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định đến sự hình thành, phát triển và biến đổi của
quan hệ sản xuất. Để nâng cao hiệu quả sản xuất và giảm sức lao động nặng
nhọc nên con người không ngừng sáng tạo, cải tiến những cơng cụ và tri thức
khoa học, trình độ chuyên môn kĩ thuật và mọi kĩ năng khác của người lao động
VD: Lúc đầu con người sử dụng chủ yếu là cơng cụ bằng đá rất thơ sơ, trình
độ hiểu biết cũng hạn hẹp đã tạo ra quan hệ sản xuất cộng sản nguyên thủy,
nhưng để duy trì cuộc sống và chống lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên thì con
người đã sáng tạo cơng cụ kim loại, năng xuất lao động nâng cao sản phẩm
thặng dư nên từ đó xuất hiện chế độ chiếm hữu nơ lệ dựa trên quan hệ sản xuất
tư hữu. Hay quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời thay thế cho quan hệ sản
xuất phong kiến, rồi lại phát triển nên quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Sự
biến đổi càng được rõ ràng hơn qua những câu chữ sau:
“Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, các cối xay chạy
bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản nơng nghiệp” (“Sự khốn cùng của
triết học’ – Karl Marx ).
Mặc dù bị chi phối bởi lực lượng sản xuất nhưng quan hệ sản xuất cũng có
những tác động nhất định trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Do quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của q trình sản xuất có tính độc lập
tương đối nên tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất. Vai trò của
quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua sự phù
hợp biện chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản

xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là địi hỏi khách quan của nền sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với lực lượng sản xuất là một trạng thái trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức
phát triển” của lực lượng sản xuất và “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản
xuất phát triển. Sự phù hợp bao gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu
thành lực lượng sản xuất; giữa các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất; giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Sự phù hợp bao gồm cả việc tạo điều kiện
tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất; tạo

4

0


điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản xuất và hưởng thụ thành
quả vật chất, chất tinh thần lao động.
Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai
chiều hướng, đó là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nền sản xuất phát triển
đúng hướng, quy mô sản xuất được mở rộng ảnh những thành tựu khoa học và
công nghệ được áp dụng nhanh chóng; người lao động nhiệt tình hăng hái sản
xuất, lợi ích của người lao động được đảm bảo và thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển. Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp sẽ kìm hãm thậm chí
là phá hoại lực lượng sản xuất. Dẫn đến địi hỏi khách quan khi đó là phải thay
quan hệ sản xuất cũ, đã lỗi thời bằng một quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn. Chỉ
có như vậy thì lực lượng sản xuất mới được “cởi trói” để phát triển lên những
trình độ cao hơn. Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ
sản xuất mới có nghĩa là ở đó diễn ra sự diệt vong của phương thức sản
xuất lỗi thời, kéo theo sự ra đời của một phương thức sản xuất mới. Đó là thời

đại của cách mạng xã hội.
VD: Cách mạng tư sản ở Anh (1642 – 1651), ở Pháp (1789 – 1799) đã xóa
bỏ phương thức sản xuất phong kiến và thay bằng phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
Hay Cách mạng vô sản năm 1917 ở Nga đã đưa phương thức sản xuất xã hội
chủ nghĩa lần đầu tiên xuất hiện trên thực tế…
Vậy quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triẻn của
lực lượng sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Do tác động của
quy luật này, xã hội phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao của các phương thức
sản xuất hay chính là của các hình thái kinh tế - xã hội. Quy luật cốt lõi này như
sợi chỉ đỏ xun suốt dịng chảy tiến hóa của lịch sử trên nhiều lĩnh vực cuộc
sống
2.3. Sơ đồ Tổng kết

4

0


Sơ đồ tổng kết về Phương thức sản xuất
3. Kiến trúc thượng tầng, cơ sở hạ tầng và quan hệ biện chứng giữa cơ sở
hạ tầng với kiến trúc thượng tầng của xã hội.
3.1 Kiến trúc thượng tầng, cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với
những thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng,
đó là những qua điểm tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật, triết học và các thể chế tương ứng như Nhà nước, Đảng phái, giáo hội và
các đoàn thể quần chúng.
Kiến trúc thượng tầng được hình thành trên tổng hợp tồn bộ những quan hệ
sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một chế độ xã hội nhất định và gọi đó là

cơ sở hạ tầng. Cấu trúc cơ sở hạ tầng của một xã hội (trừ xã hội nguyên thủy) có
thể bao gồm: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư, quan hệ sản
xuất mầm mống; mỗi quan hệ sản xuất có một vị trí vai trị khác nhau và trong
đó quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trị quyết định
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp này nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, từ
mâu thuẫn và xung đột kinh tế. Đó chính là cơ sơ nảy sinh giai cấp đối kháng
trong kiến trúc thượng tầng, giai cấp thống trị về mặt kinh tế sẽ thống trị và thiết

4

0


lập cả sự thống trị về mặt tư tưởng đối với xã hội, trong đó tư tưởng chính trị và
bộ máy quản lý Nhà nước có vị trí quan trọng nhất.
3.2 Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một
quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển lịch sử xã hội.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng , bởi vì, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần; tính tất yếu
kinh tế xét đến cùng quyết định tính tất yếu chính trị- xã hội.
Vậy nên, vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
thể hiện ở những mặt sau:
- Cơ sở hạ tầng với tư cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội sẽ quyết
định kiểu kiến trúc thượng tầng của xã hội ấy (giai cấp nào giữu vị trí thống trị
về mặt kinh tế thì đồng thời cũng là giai cấp thống trị xã hội về tất cả các lĩnh
vực khác).
- Cơ sở hạ tầng còn quyết định đến cơ cấu, tính chất và sự vận động, phát
triển của kiến trúc thượng tầng. Nếu cơ sở hạ tầng có đối kháng hay khơng đối

kháng thì kiến trúc thượng tầng của nó cũng như vậy.
- Những biến đổi căn bản của cơ sở hạ tầng sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến
sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Quá trình đó diễn ra trong từng
hình thái kinh tế - xã hội, cũng như chuyển tiếp từ hình thái này sang một hình
thái khác. Nguyên nhân của những biến đổi đó xét cho cùng là do sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực
tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và đến lượt nó, sự biến đổi của cơ sở
hạ tầng làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi một cách căn bản. Sự biến đổi
của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp trong quá trình
chuyển từ một hình thái kinh tế xã hội lỗi thời gian một hình thái kinh tế xã hội
mới tiến bộ hơn. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi đó tất yếu phải
thơng qua đấu tranh giai cấp (giai cấp thống trị với giai cấp bị trị) và cách mạng
xã hội.
- Khi hạ tầng cũ bị xóa bỏ thì kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi và thay thế
vào đó là kiến trúc thượng tầng mới được hình thành từng bước thích ứng với cơ
sở hạ tầng mới. Sự thống trị của giai cấp cũ đối với xã hội cũ bị xóa bỏ, thay vào
đó là hệ thống tư tưởng thống trị khác cũng như các thể chế tương ứng với giai
cấp. Ví dụ: từ nhà nước phong kiến chuyển sang tư bản chủ nghĩa  thể chế

4

0


nhà nước chính trị thay đổi pháp quyền thay đổi  các yếu tố tôn giáo, quan
điểm đạo đức, nghệ thuật thay đổi theo…
Vì tính độc lập tương đối của kiến trúc thượng tầng nên có sự tác động trở
lại của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng.
- Vai trị của kiến trúc thượng tầng chính là chính là vai trị tích cực, tự giác
của ý thức, tư tưởng, và còn do sức mạnh vật chất của bộ máy tổ chức – thể chế

ln có tác động mạnh mẽ trỏ lại cơ sở hạ tầng.
- Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra
nó, ngăn chặn cơ sở hạ tầng mới, đấu tranh xóa bỏ tàn dư của cơ sở hạ tầng cũ,
định hướng và xây dựng chế độ kinh tế của kiến trúc thượng tầng mới. Trong xã
hội có giai cấp nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng,
các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng
và bị nhà nước pháp luật chi phối. Ví dụ: Các hoạt động tơn giáo diễn ra dựa
trên quy định của nhà nước…
- Tác động của kiến trúc thượng tầng đên cơ sở hạ tầng được thể hiện trong
hai trường hợp trái ngược nhau: nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với quan hệ
kinh tế tiến bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội, ngược lại nếu kiến trúc
thượng tầng là cơ sở những quan hệ kinh tế lỗi thời thì sẽ làm kìm hãm sự phát
triển kinh tế xã hội. Những sự tác động kìm hãm này chỉ là tạm thời sớm muộn
cũng bị cách mạng khắc phục về cơ bản, bản chất giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng chính là bản chất giữa kinh tế và chính trị trong đó kinh tế đóng vai
trị quyết định cịn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế và có tác động
mạnh mẽ trở lại.
Sự vận động của quy luật này dưới chủ nghĩa xã hội có những đặc điểm riêng.
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa có mầm mống nảy sinh ngay từ cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản và quần chúng lao động động nhằm chống lại giai cấp
chính trị bóc lột, một lật đổ trật tự xã hội cũ. Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ
nghĩa chỉ có thể được củng cố phát triển dựa trên cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa
ra và trong chính sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy xây dựng và
hoàn thiện kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ những đòi
hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế xã hội
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa khi đã phát triển
một cách đầy đủ và hồn thiện có bản chất ưu việt tốt đẹp nhất trong lịch
sử. Bởi cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa khơng cịn cịn mâu thuẫn đối kháng,
trong kết cấu kinh tế không bao hàm sự đối lập về lợi ích căn bản. Đặc trưng của
kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa là sự nhất trí về chính trị và tinh thần

trong tồn xã hội. Tính ưu việt của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa được

4

0


thể được biểu hiện ở hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là hệ tư tưởng tiến bộ
và cách mạng nhất trong lịch sử.
*Trong điều kiện ngày nay vai trị của kiến trúc thượng tầng khơng giảm đi
mà ngược lại tăng lên và tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử. Kiến trúc
thượng tầng xã hội chủ nghĩa bảo vệ cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa nhằm xây
dựng xã hội mới, chính mục đích đó đã quyết định và khẳng định tính tích cực
của kiến trúc thượng tầng của chủ nghĩa xã hội.
4. Sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó các mặt của hình thái kinh
tế- xã hội bao gồm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tác động qua lại với nhau tạo nên quy luật vận động, phát triển khách quan
của xã hội. Chính sự tác động của các quy luật này mà hình thái kinh tế - xã hội
tuy là phạm trù xã hội nhưng lại có khuynh hướng phát triển như một quy luật tự
nhiên, vận động phát tiển từ thấp đến cao.
Từ đó Karl Marx đưa ra kết luận rằng:
“ Tơi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử
- tự nhiên”. Hay V.I.Lênin cũng từng khẳng định: “Chỉ có đem quy những quan
hệ xã hội vào quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình
độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vũng chắc
để quan niệm sự phát triển của những hình thía kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên.
Sự vận động của của xã hội tuân theo quy luật khách quan, không phụ thuộc
vào ý muốn của con người và nguồn gốc của những sự thay thế nhau, phát triển

giữa các hình thái hình thái kinh tế - xã hội là:
 Mỗi sự phát triển của lực lượng sản xuất đều tạo ra khả năng, điều kiện và
đặt ra yêu cầu khách quan đối với sự biến đổi quan hệ sản xuất.
 Sự phát triển về chất của quan hệ sản xuất tất yếu sẽ làm thay đổi về chất
của cơ sở hạ tầng xã hội.
 Khi cơ sở hạ tầng biến đổi về chất dẫn đến sự biến đổi, phát triển căn bản
của kiến trúc thượng tầng xã hội.
 Do vậy, từ những yếu tố cấu trúc mỗi hình thái kinh tế - xã hội thay đổi
dẫn đến hình thái kinh tế - xã hội biến đổi bằng một hình thái khác cao
hơn, tiến bộ hơn.
Sự thống nhất giữa logic và lịch sử trong cách tiến hành lịch sử - tự nhiên của
xã hội loài người bao hàm cả sự phát tiển tuần tự đối với lịch sử phát triển toàn
thế giới và sự phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế- xã hội đối với một
vài quốc gia, dân tộc cụ thể.

4

0


Thực tiễn lịch sử đã chứng minh toàn bộ lịch sử xã hội loài người phát triển
tuần tự qua tất cả các giai đoạn của các hình thái kinh tế - xã hội đã có. Nhưng
do đặc điểm về lịch sử, về không gian , thời gian, về sự tác động của nhân tố
khách quan và chủ quan, có những quốc gia phát triển tuần tự, nhưng có những
quốc gia phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Quy
luật kế thừa sự phát triển lịch sử ln ln cho phép điều đó để vươn tới trình độ
tiến tiến của nhân loại.
VD: Dân tộc Việt Nam ta đã thực hiện bước nhảy vọt từ hình thái kinh tế - xã
hội phong kiến sang hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa (là giai đoạn đầu
của xã hội cộng sản chủ nghĩa).

Hay nước Mĩ bỏ qua hình thái phong kiến, Nga và Đức bỏ qua chế độ chiếm
hữu nô lệ...
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở khoa học cho việc xác định
con đường phát triển của Việt Nam là quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lý luận
hình thái kinh tế - xã hội đã trở thành hòn đá tảng của khoa học xã hội, cơ sở
phương pháp luận khoa học và cách mạng cho sự phân tích xã hội.

4

0


Ý NGHĨA CỦA HỌC THUYẾT VỚI CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở
VIỆT NAM.
I. Ý nghĩa của học thuyết với con đường đi lên CNXH ở Việt Nam xét về
mặt lịch sử
1. Tổng quát
Tính lịch sử trong sự vận động của các hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra
rằng: Sự vận động của các hình thái kinh tế - xã hội luôn diễn ra một cách khách
quan nhưng gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể, với tính chất kinh tế - xã
hội của từng quốc gia, dân tộc. Do các điều kiện lịch sử, văn hóa truyền thống,
chính trị nên ở mỗi quốc gia sự vận động của các hình thái kinh tế - xã hội có thể
diễn ra tuần tự từ thấp lên cao hoặc “bỏ qua” một hoặc vài hình thái kinh tế - xã
hội trong trật tự phát triển của mình. Điển hình như Australia, các quốc gia Mỹ
La tinh đều bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội phong kiến trong quá trình phát
triển của mình và việc bỏ qua này cũng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của họ, mà do điều kiện lịch sử khách quan quy định. Nếu như cùng một hình
thái kinh tế - xã hội phong kiến nhưng đặc trưng của Châu Âu là phân quyền thì
phong kiến phương Đơng là tập quyền. Rõ ràng việc “bỏ qua” một hình thái
kinh tế - xã hội nào đó trong trật tự phát triển của một quốc gia là không thể tùy

tiện, mà phải tuân theo quy luật khách quan.
Xét từ lý luận hay từ lịch sử thì học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.
Mác không hề sai lầm, lỗi thời. Dù các quan điểm phủ định xun tạc hoặc cố
tình bơi đen triết học Mác - Lênin thì sự thật ấy vĩnh viễn khơng thể thay đổi.
Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác vào Việt Nam, phát
triển theo hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, phù
hợp quy luật phát triển, Việt Nam hồn tồn có thể đi tắt đón đầu trong
phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, lựa chọn con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
 Theo như những tư liệu lịch sử ghi chép lại, đất nước Việt Nam ta vốn là
một quốc gia lạc hậu, nghèo nàn lại bị đế quốc thực dân thống trị trong một
khoảng thời gian rất dài, cơ sở vật chất kĩ thuật lúc bấy giờ cịn vơ cùng thơ sơ
và thiếu thốn... Chính vì vậy, Việt Nam phải đánh đổ triệt để những lực cản từ
tàn dư của xã hội phong kiến, chủ nghĩa thực dân trong kiến trúc thượng tầng.
Đó là những thói quen, truyền thống lạc hậu, tư tưởng đặc quyền, đặc lợi, gia
trưởng, cục bộ địa phương, trọng nam, khinh nữ, … ngăn cản sự tiến bộ. Chúng
ta khơng thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó,
rất lâu dài. Mà như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ thì đây chính là loại giặc thứ
hai cùng thực dân, đế quốc và chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tư sản.

4

0


Dựa trên điều kiện hoàn cảnh lịch sử ấy, Đảng ta đã khẳng định rằng: Sau khi
Việt Nam tiến hành thành cơng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thì đất nước ta
sẽ trực tiếp tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội và bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa – sự lựa chọn này cũng có thể được coi như là một tất yếu lịch sử dựa vào
2 căn cứ sau:

 Thứ nhất là: Chỉ có Chủ Nghĩa Xã Hội mới có thể giải phóng được nhân
dân lao động thốt khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng và đem lại một cuộc sống ấm
no, hạnh phúc cho toàn dân.
 Thứ hai là: Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng 10 Nga năm 1971 đã
mở ra một thời đại mới, tạo khả năng thực hiện, phát triển cho các dân tộc lạc
hậu tiến lên con đường CNXH.
 Sự lựa chọn này khơng hề mâu thuẫn với q trình phát triển lịch sử tự
nhiên của XHCN cũng không gây mâu thuẫn với hình thái kinh tế xã hội của
chủ nghĩa Mác Lênin. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước ta, con đường
rút ngắn bỏ qua chế độ TBCN và tiến lên CNXH đã cho phép chúng ta có thể
phát triển nhanh lực lượng sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, giải quyết
hiệu quả các vấn đề nhức nhối trong xã hội đương thời mà nổi bật nhất trong đó
là quan hệ bất bình đẳng giữa người với người.
 Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng: Quá độ
lên CNXH là một sự nghiệp lâu dài, vơ cùng khó khăn và phức tạp vì nó tạo ra
sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam
đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ TBCN, lực lượng
sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các
thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn,
phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ
và cái mới. Nói bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua chế độ áp bức, bất cơng, bóc lột
TBCN; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không
phù hợp với chế độ XHCN chứ không phải bỏ qua những thành tựu, giá trị văn
minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương
nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa
học phát triển.

 Đảng Cộng sản Việt Nam ta cũng đã chỉ rõ ý nghĩa thực chất của việc bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: “Con

đường đi lên CNXH ở Việt Nam là sự phát triển quá độ lên CNXH, bỏ qua
chế độ (hình thái kinh tế - xã hội) tư bản chủ nghĩa, bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa
nhưng vẫn tiếp thu, kế thừa những thành tựu của tiến bộ kinh tế-xã hội mà

4

0


nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là những thành tựu về
kinh tế và khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại.”
2. Cụ thể, chi tiết
Hơn 60 năm qua kể từ khi miền Bắc Việt Nam hồn tồn được giải phóng,
từng bước q độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH); gần 40 năm đất nước thống
nhất, cả nước cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN, qua những thăng trầm của cách mạng XHCN với khơng ít sai
lầm, khuyết điểm trong nhận thức, lý luận về CNXH, con đường đi lên
CNXH, cùng những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta giành
được từ năm 1986 đến nay đã cho nhiều cứ liệu để xem xét, đánh giá một
cách khách quan về việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, lý luận
mácxít về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa nói riêng nhằm hiện
thực hóa xã hội XHCN ở Việt Nam.

 Giai đoạn 1954- 1975
Đi lên CNXH đã được xác định trong Cương lĩnh năm 1930: Cách mạng Việt
Nam sẽ trải qua 2 giai đoạn - Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (giành độc
lập cho dân tộc, ruộng đất cho nơng dân), sau đó sẽ tiến lên chủ nghĩa cộng sản
mà giai đoạn đầu là CNXH. Nói cách khác: mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền

với CNXH đã được xác định nhất quán từ ngày thành lập Đảng đến nay.
Kiên định với mục tiêu đó, sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) miền Bắc
hoàn toàn được giải phóng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo miền Bắc đi
lên CNXH, đồng thời tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam. Miền Bắc quá độ lên CNXH làm hậu phương vững chắc cho miền Nam
tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ở thời kỳ này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cố gắng vận dụng những quan
điểm khái quát nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin về mơ hình XHCN với các đặc
trưng (tiêu chí) trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, chính
sách đối nội, đối ngoại của Đảng Cộng sản và Nhà nước XHCN.
 Về phương diện kinh tế: Vận dụng các quan điểm Mác - Lênin về xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho CNXH - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương xây dựng một nền kinh tế quốc dân
“có cơng nghiệp hiện đại, nơng nghiệp hiện đại; khoa học, kỹ thuật tiên tiến”.
 Về phương diện chính trị: Quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam là
luôn luôn gắn độc lập dân tộc với CNXH, coi đó là hai nhiệm vụ chiến lược trong
điều kiện Việt Nam còn chia làm 2 miền với các nhiệm vụ chính trị khác nhau. Đây
là điểm rất sáng tạo trong thực hiện cách mạng XHCN ở Việt Nam. Hậu phương lớn
được xác lập, tạo niềm tin vững chắc vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

4

0


 Về phương diện văn hóa: Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng các quan điểm
mácxít về cách mạng tư tưởng và văn hóa để xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới:
văn hóa XHCN.
 Về phương diện xã hội: Đảng Cộng sản Việt Nam đã cố gắng thực hiện, giải quyết
các vấn đề cơng bằng, bình đẳng xã hội; chủ trương lấy phân phối theo lao động làm

nguyên tắc chủ yếu. Trong quan hệ tộc người luôn giữ những nguyên tắc bình đẳng,
cùng tiến bộ trong quốc gia đa dân tộc.
 Về con người: Xây dựng con người mới XHCN với những yêu cầu mới đặt ra ở Việt
Nam. Giáo dục tấm gương đạo đức con người mới XHCN được quan tâm.
 Về chính sách đối ngoại: Việt Nam chủ trương tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các
nước trong phe XHCN và các lực lượng yêu chuộng hịa bình, dân chủ trên thế giới.
Giữ vững các nguyên tắc đối ngoại theo quan điểm chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân.

 Giai đoạn 1975- 1986, thời kỳ trước Đổi mới
Thời bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà
hầu hết sinh hoạt kinh tế đều được Nhà nước bao cấp, diễn ra dưới nền kinh tế
kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền kinh tế các nước thuộc Khối xã hội chủ
nghĩa thời kỳ đó. Theo đó thì kinh tế tư nhân bị xóa bỏ, nhường chỗ cho khối
kinh tế tập thể và kinh tế do nhà nước chỉ huy. Mặc dù kinh tế chỉ huy đã tồn tại
ở miền Bắc thời kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ trước năm 1975, song thời
kỳ bao cấp thường được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế cả nước Việt Nam ở giai
đoạn từ đầu năm 1976 đến cuối năm 1986 trên toàn quốc, là trước Đổi Mới.
Trong nền kinh tế kế hoạch, phần lớn thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ, hàng
hóa được phân phối theo tem phiếu do nhà nước nắm toàn quyền điều hành, hạn
chế việc người dân tự do mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển hàng hoá từ
địa phương này sang địa phương khác. Nhà nước độc quyền phân phối hầu hết
các loại hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được thiết lập
trong thời kỳ này để phân phối lương thực,thực phẩm theo đầu người,tiêu biểu
nhất là sổ gạo ấn định bắt buộc và mặt hàng mà một gia đình nào đó được phép
mua.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, nước Việt Nam thống nhất. Ngày 16 tháng 5 năm
1975, Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam là Lê Duẩn đã trực tiếp vào
miền Nam nắm tình hình, gồm cả tình hình kinh tế. Ơng cơng nhận những yếu tố
tích cực của kinh tế tư nhân và của kinh tế thị trường ở miền Nam. Tại cuộc họp

trù bị của Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam khóa III, ông đã phát biểu:
“Ở miền Bắc trước đây phải hợp tác hóa ngay lập tức. Nhưng miền Nam bây
giờ khơng thể làm như vậy... Phải có tư sản, phải cho nó phát triển phần nào

4

0


đã... Bộ Chính trị sau khi nghiên cứu thấy rằng cần phải để mấy thành phần
kinh tế là quy luật cần thiết trong giai đoạn bước đầu này...”
Tuy nhiên, đa số Ban Chấp hành Trung ương Đảng lúc ấy muốn tiếp tục
áp dụng mơ hình kinh tế kế hoạch hóa. Vì thế, Hội nghị cuối cùng quyết
nghị: xóa bỏ tư sản mại bản, hạn chế giao lưu tư bản, cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với tư sản dân tộc, xây dựng hợp tác xã, cải tạo xã hội chủ nghĩa
đối với thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ.
Như vậy, Trước Đổi mới, chúng ta chỉ căn cứ vào mô hình CNXH kiểu
Xơviết (mang tính dập khn, máy móc, giáo điều và áp đặt bằng mệnh lệnh,
hành chính) mà chưa xác định được đâu là mơ hình, diện mạo, các tiêu chí cần
đạt tới của xã hội XHCN ở Việt Nam.
Ngay cả mục tiêu của CNXH ở Việt Nam cũng khơng được xác định rõ ràng,
cụ thể, thậm chí coi mục tiêu lâu dài như mục tiêu trước mắt, nôn nóng muốn
hiện thực hóa lý tưởng CNXH mà khơng tính đến đặc điểm tình hình đất nước
với những khó khăn của quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa... Ở
nhiều lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội) đã xa rời các quan điểm Mác Lênin về sự tồn tại xen kẽ của cái cũ và cái mới, tính chất quá độ phải được
nhận thức và vận dụng trong các quy luật kinh tế hàng hóa, nhiều tổ chức kinh
tế- xã hội mang tính quá độ. Các nhiệm vụ cần thực hiện trong các chặng đường
quá độ, các bước trung gian cần thiết của thời kỳ quá độ đã không được xác định
rõ...

Chủ trương xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế “phi XHCN” cùng với quan
niệm duy ý chí, siêu hình: “lấy quan hệ sản xuất tiên tiến mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển” đã kìm hãm, triệt tiêu nhiều động lực để phát triển đất
nước với thái độ phủ nhận tuyệt đối những thành quả của nhân loại trong giai
đoạn phát triển của CNTB, với tư tưởng đối lập một cách máy móc giữa CNXH
và CNTB, đối lập cả khoa học, kỹ thuật của CNTB với khoa học, kỹ thuật của
CNXH...
Hạn chế, khuyết điểm lớn nhất trong nhận thức, vận dụng lý luận về CNXH
và xây dựng CNXH ở Việt Nam là không gắn lý luận với thực tiễn, không xuất
phát từ thực tiễn của đất nước để xác định rõ mục tiêu, mơ hình, bản chất, các
nội dung, đặc điểm của CNXH ở Việt Nam và các phương hướng, cách thức, lộ
trình đi lên CNXH một cách phù hợp. Nhiều quan điểm Mác - Lênin, nhất là
quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển... đã không được tuân thủ mà bị
xa rời, thậm chí chệch hướng chỗ này hay chỗ khác.
Những nhận thức, vận dụng lý luận mácxít về hình thái kinh tế - xã hội CSCN
vào xây dựng CNXH ở Việt Nam thời kỳ này còn nhiều hạn chế, khuyết điểm,

4

0


thậm chí đã vấp phải những sai lầm trong nắm bắt, kết hợp “cái phổ biến” và
“cái đặc thù” của CNXH và con đường đi lên CNXH để hiện thực hóa xã hội
XHCN ở Việt Nam. Những khuyết điểm, sai lầm trong nhận thức và vận
dụng đó chính là ngun nhân trực tiếp đưa đất nước đến khủng hoảng
kinh tế - xã hội trầm trọng những năm 80 thế kỷ XX.
 Đại hội VI của Đảng (1986) với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật,
nói rõ sự thật” đã nghiêm túc chỉ ra những khuyết điểm sai lầm đó.
Văn kiện Đại hội chỉ rõ: những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ

chức và cán bộ là nguyên nhân của các nguyên nhân, “trước những biến động
và thử thách của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoạt động tư tưởng và tổ
chức của Đảng đã không theo kịp yêu cầu của cách mạng”. Trong lĩnh vực tư
tưởng “đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang
hoạt động trong thời kỳ quá độ: đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hóa, muốn
thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới ở
chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã có những thành kiến khơng đúng, trên thực
tế chưa thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách
quan. Do đó khơng chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trương,
chính sách kinh tế. Chưa chú ý đến việc tổng kết kinh nghiệm thực hiện của
mình và nghiên cứu kinh nghiệm của các nước anh em”.
Đảng Cộng sản Việt Nam còn chỉ ra rất cụ thể những yếu kém, lạc hậu trong
nhận thức về CNXH, về cơng nghiệp hóa, về cải tạo XHCN, về các cơ chế quản
lý, phân phối, lưu thông: “Nhiều năm nay, trong nhận thức của chúng ta về chủ
nghĩa xã hội có nhiều quan niệm lạc hậu, nhất là những quan niệm về cơng
nghiệp hóa, về cải tạo xã hội chủ nghĩa, về cơ chế quản lý kinh tế, về phân phối,
lưu thơng, v.v.”.
Từ đó, đổi mới, nhận thức về CNXH đã trở thành vấn đề cốt tử của công cuộc
xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Chính những đánh giá đúng những khuyết điểm, sai lầm trong nhận thức, vận
dụng lý luận Mác - Lênin về CNXH và xây dựng CNXH của Đại Hội là tiền đề
để đổi mới tư duy, lý luận, đưa Việt Nam đi đúng hướng và ngày càng phát triển
hơn.

 Giai đoạn 1986 – ngày nay, thời kỳ sau Đổi mới
Đến nay, việc vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin về
CNXH đã được phản ánh trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội XI của
Đảng thông qua. Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng được xác định 8 đặc
trưng cơ bản: Là xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;


4

0


Do nhân dân làm chủ; Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển tồn diện; Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết,
tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Tám đặc trưng cơ bản nêu trên là thành quả của sự bổ sung, phát triển, điều
chỉnh từ 6 đặc trưng đã xác định từ Cương lĩnh năm 1991, trên cơ sở tổng kết
thực tiễn, kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù trong các đặc trưng của xã hội
XHCN mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định; tiếp thu, phát triển sáng tạo
các quan điểm rất độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam.
Cùng với 8 đặc trưng về xã hội XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định 8
phương hướng quá độ lên CNXH: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường; Phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phịng và an ninh quốc gia, trật
tự, an tồn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển; Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng
nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất; Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Tám phương hướng này cũng là thành quả của nhiều năm đổi mới trên cơ sở

thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam có kế thừa, điều chỉnh, bổ sung, phát
triển các nội dung có từ 7 phương hướng đã được xác định từ Cương lĩnh năm
1991. Đó cũng chính là đường hướng cơ bản để đi lên CNXH ở Việt Nam trong
điều kiện hiện nay.
Một nội dung rất mới, bước tiến của Đảng trong nhận thức về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam là tại Đại hội XI đã xác định các mối quan hệ
lớn cần quán triệt và giải quyết trong khi thực hiện các phương hướng quá độ
lên CNXH ở Việt Nam.
Tám mối quan hệ lớn đó là: Giữa đổi mới, ổn định và phát triển; Giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị; Giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN;
Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ
sản xuất XHCN; Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội; Giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; Giữa

4

0


độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và
nhân dân làm chủ.
 Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã và đang đi vào chiều sâu, vừa thể hiện
những cống hiến, đóng góp của Đảng Cộng sản Việt Nam về lý luận nhận thức
CNXH và về con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đồng thời, thực tiễn sinh động
đang đặt ra hàng loạt vấn đề cần tiếp tục có các câu trả lời thỏa đáng, thuyết
phục về mơ hình xã hội XHCN ở Việt Nam, về cụ thể hóa phương hướng, bước
đi, lộ trình quá độ lên CNXH trong những năm trước mắt và những thập kỷ tới...
Hơn lúc nào hết phải nghiêm túc tổng kết thực tiễn, tiếp tục quán triệt các bài
học lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đúc kết trên con đường đổi mới, trong
đó có các bài học được đúc kết qua gần 30 năm đổi mới. Một bài học ln có giá

trị lý luận và phương pháp luận cho đổi mới tư duy, nhận thức, phát triển lý luận
Mác - Lênin về CNXH được Đại hội XI đúc kết là: “Trong quá trình đổi mới
phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Đổi mới khơng phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư
tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động của chúng ta.
3. Các thành tựu đạt được
 Sự phát triển của Viê †t Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhân.† Đổi
mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng
đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành
quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7
lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỉ lệ
nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua
ngang giá). Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu số,
chiếm 86%.
 Danh sách do Forbes Asia 2019 cơng bố, trong 200 cơng ty có doanh thu
trên 1 tỷ USD tốt nhất tại khu vực châu Á - Thái Bình Dươngđã có tới 7 doanh
nghiệp của Việt Nam. Ngồi ra, Việt Nam cịn xếp thứ 8 trong số các nền kinh tế
tốt nhất thế giới để đầu tư năm 2019, tăng 15 bậc so với năm 2018.
 Thống kê từ Bộ Công Thương cho thấy, tính đến năm 2019, Việt Nam đã
có quan hệ chính thức với 189/193 quốc gia của Liên hợp quốc; có quan hệ kinh
tế - thương mại và đầu tư với trên 224 nước và vùng lãnh thổ; có 16 đối tác
chiến lược, 11 đối tác chiến lược toàn diện; 71nước đã công nhận Việt Nam là
một nền kinh tế thị trường.

4

0



Việt Nam đã và đang tham gia thiết lập một nền kinh tế thị trường đầy đủ,
minh bạch và hiện đại, đáp ứng yêu cầu của hội nhập; xây dựng cơ chế, chính
sách tạo điều kiện thuận lợi, phát huy hơn nữa vai trò của địa phương, doanh
nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Đây chính là những thành tựu tất yếu quá trình vận dụng sáng tạo và
đúng đắn học thuyết hình thái kinh tế- xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa mà Đảng và nhà nước ta đạt được.
4. Đánh giá, nhận xét
Có thể nói, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác chính là cơ sở lí
luận, là phương pháp luận khoa học trong quán triệt quan điểm đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Mơ hình, mục tiêu CNXH ở Việt Nam được xác định với các tiêu
chí về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng, đồng thời xác định
các phương hướng xây dựng CNXH trong thời kì quá độ ở Việt Nam.
Việc nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế - xã hội có ý nghĩa rất quan trọng đối
với nâng cao nhận thức về bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mac Lenin,
quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng CNXH, củng
cố niềm tin, lí tưởng cách mạng, kiên định với con đường CNXH
 Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội cũng là cơ sở khoa học và cách mạng trong
cuộc đấu tranh tư tưởng chống lại các quan điểm phiến diện, sai lầm, phản động hòng
phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
 Với tinh thần khoa học và khách quan, chúng ta cần nghiên cứu, làm rõ những
giá trị mang tính khoa học – thực tiễn bền vững làm cơ sở cho phương pháp luận và
nhận thức đúng đắn, phù hợp về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam là hết sức cần thiết. Sứ mệnh của chúng ta là tiếp tục lan tỏa học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác trên tinh thần một học thuyết khoa học,
cách mạng và phát triển – hòn đá tảng cho xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử xã
hội loài người.
II. Ý nghĩa của học thuyết với con đường đi lên CNXH ở Việt Nam xét về
mặt khoa học

Trước C. Mác, chủ nghĩa duy tâm đóng vai trị thống trị trong khoa học xã
hội. Với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó hạt nhân của nó là lý
luận hình thái kinh tế- xã hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa
học trong nghiên cứu lĩnh vực về xã hội.
Thứ nhất, theo học thuyết hình thái kinh tế xã hội, sản xuất vật chất
chính là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình
độ phát triển của nền sản xuất và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ

4

0


×