Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.67 KB, 31 trang )

BÀI THU HOẠCH/ TIỂU LUẬN

LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TÊN MƠN HỌC:

TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

TÊN BÀI THU HOẠCH/ TIỂU LUẬN:

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CƠNG CHỨC XÃ NGHĨA BÌNH, HUYỆN BÙ
ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về con người và xây dựng con người theo quan điểm Triết
học Mác - Lênin
1.1. Khái niệm con người và bản chất con người
1.2. Quan điểm Triết học Mác – Lênin về xây dựng con người
1.3. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng con người nói chung và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ nói riêng
2. Thực trạng và nguyên nhân thực trạng vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước
2.1. Những thành tựu trong vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức
xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước trong những năm qua
2.2. Khó khăn, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến khó khăn, hạn chế trong vấn đề


nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng,
tỉnh Bình Phước trong những năm qua
3. Một số giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã
Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước hiện nay
PHẦN III: KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

CHỮ ĐƯỢC VIẾT TẮT

CBCC

Cán bộ, công chức


1

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, con người đóng vai
trị động lực khơng chỉ vì mục tiêu kinh tế mà quan trọng hơn cịn vì các mục tiêu xã
hội, vì sự phát triển tồn diện các mặt của con người, vì cuộc sống hạnh phúc của con
người. Phát huy nhân tố con người là làm gia tăng giá trị cho con người, giá trị tinh
thần, giá trị thể chất, vật chất. Việc xây dựng một đội ngũ con người mới xã hội chủ
nghĩa, con người của thời đại vừa hồng, vừa chuyên là mục tiêu, cũng là động lực trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Đào tạo ra những người công dân và cán bộ tốt, kế tục
xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Trong chiến lược con người,
việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC được đặt hàng đầu và coi là “công việc gốc

của Đảng”. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi
mới, quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng ta là đặt con người vào vị trí trung tâm của
q trình phát triển, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
đất nước. Quan điểm này của Đảng và Nhà nước ta là sự vận dụng tổng hợp các quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi
ích trăm năm thì phải trồng người” [15, tr.528]. Người căn dặn: “Đầu tiên là công việc
đối với con người” [16, tr.528]; “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc
rất quan trọng và rất cần thiết” [16, tr.622], Người đã từng khẳng định: “Cán bộ là cái
gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc
kém” [14, tr.313]. Nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề xây dựng con người nói
chung và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC nói riêng ta hiện nay, bài nghiên cứu sẽ
góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về con người, quan điểm của triết học Mác –
Lênin và Đảng ta về xây dựng con người; làm rõ thực trạng vấn đề nâng cao chất lượng
đội ngũ CBCC trong đó bao gồm những thành tựu đạt được và khó khăn, hạn chế của
vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC xã Nghĩa Bình trong những năm vừa qua,
từ đó luận giải nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn và kiến nghị một số giải


2

pháp tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh
Bình Phước.


3

PHẦN II: NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về con người và xây dựng con người theo quan điểm Triết
học Mác - Lênin

1.1. Khái niệm con người và bản chất con người
Con người là một thực thể sinh học – xã hội. Tính sinh học trong con người quy
định sự hình thành những hiện tượng và quá trình tâm lý trong con người là điều kiện
quyết định sự tồn tại của con người. Con người là một sinh vật có tính xã hội, sản
phẩm cao nhất của q trình tiến hóa tự nhiên, thể hiện ở việc con người chỉ có thể tồn
tại được một khi con người tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn
nhu cầu sinh học của mình. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, sự kết hợp giữa mặt tự nhiên
và mặt xã hội và “cơ sở hiện thực” của con người là “tổng số những lực lượng sản
xuất, những tư bản và những hình thức xã hội của sự giao tiếp mà mỗi cá nhân và mỗi
thế hệ thấy hiện có” [5, tr.55].
Con người luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất
định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của
mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể
lực và tư duy trí tuệ [12, tr.273]. C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con
người: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã
hội” [5, tr.11].


4

Lý giải bản chất con người không chỉ đơn thuần từ phương diện bản tính tự
nhiên mà phải từ bản tính xã hội, cụ thể là từ những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hố,
… vốn có của nó, chi phối nó. Muốn thay đổi bản chất con người phải thay đổi môi
trường xã hội, các quan hệ xã hội hiện thực của nó. Muốn thay đổi mơi trường xã hội
mà con người sống thì bản thân con người phải là chủ thể của quá trình xây dựng xã
hội mới. Chính trong thực tiễn xây dựng xã hội mới, dần dần con người sẽ thay đổi,
con người sẽ dần từ bỏ những thói quen, những lối tư duy, lối suy nghĩ, lối sống cũ và
thay vào đó là thói quen, lối tư duy, lối sống mới phù hợp với yêu cầu của xã hội mới
[12, tr.277].

1.2. Quan điểm Triết học Mác – Lênin về xây dựng con người
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời đã nhìn nhận con người một cách
toàn diện và đúng đắn. Theo C.Mác: “Trong xã hội cộng sản, trong đó khơng ai bị hạn
chế trong phạm vi hoạt động độc chuyên, mà mỗi người đều có thể tự hồn thiện mình
trong bất kỳ lĩnh vực nào thích, thì xã hội điều tiết tồn bộ nền sản xuất, thành thử tơi
có khả năng hôm nay làm việc này, ngày mai làm việc khác, buổi sáng đi săn, quá trưa
đi đánh cá, buổi chiều chăn ni, sau bữa cơm thì làm việc phê phán, tùy theo sở thích
của tơi” [7, tr.47]. Theo đó, phát triển con người là phát triển tồn diện, hài hịa mọi
khả năng, năng lực, năng khiếu và phẩm giá con người, phát triển cá tính và sự phong
phú của con người, phát triển một cách tự do, đầy đủ trên cơ sở của sự phát triển tự do
và làm chủ của chính bản thân con người cụ thể đó.
Bên cạnh đó, C.Mác cho rằng cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa lao động sản xuất
với giáo dục về thể chất và trí tuệ “kết hợp lao động sản xuất với trí dục và thể dục đối
với tất cả những trẻ em trên một lứa tuổi nào đấy, coi đó không phải chỉ là một phương
pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là phương pháp duy nhất để sản
xuất ra con người phát triển toàn diện nữa” [8, tr.588]. Ngoài ra, xây dựng và phát triển
văn hóa cũng là một nội dung quan trọng để hướng tới phát triển con người toàn diện,
bởi “mỗi bước tiến lên trên con đường văn hóa lại là một bước tiến tới tự do” [4,
tr.164].


5

Với C. Mác, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là thước đo năng lực thực
tiễn của con người và xã hội; là sự vận động chuyển giao lực lượng sản xuất giữa các
thế hệ con người và nhờ sự chuyển giao ấy mà con người “hình thành nên mối liên hệ
trong lịch sử lồi người, hình thành lịch sử loài người” và “lịch sử xã hội của con
người luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân của những con người” [6, tr.68]. Bởi
thông qua hoạt động thực tiễn, con người đã để lại những dấu ấn sáng tạo của bản thân
mình vào giới tự nhiên, vào xã hội và qua đó, phát triển, hồn thiện bản thân mình. Với

khả năng và năng lực của mình, con người chính là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, tạo nên những nền văn minh trong lịch sử nhân
loại.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen: “trong đó sự phát triển tự do của mỗi con người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [3, tr.628]. Sự tự do đem lại cho
con người quyền được lao động, được phân phối công bằng của cải vật chất và tinh
thần, được tham gia vào các công việc xã hội, được phát triển và vận dụng các năng lực
của mình thực hiện những nhu cầu cơ bản. Trong chủ nghĩa xã hội, tự do cá nhân
không chỉ biểu hiện trong các quyền cá nhân được hưởng, mà còn được biểu hiện trong
nghĩa vụ và trách nhiệm - thể hiện sự phát triển xã hội và con người.


6

1.3. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng con người nói chung và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ nói riêng
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời tới nay luôn chăm lo phát triển nguồn
nhân lực, nhất là trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Trong quan điểm lãnh đạo của mình, Đảng
ta ln chú trọng vai trị của nhân tố con người trong sự phát triển, thực tế phát triển
của Việt Nam thời gian vừa qua thể hiện rất rõ vấn đề đó, cụ thể là phát huy nhân tố
con người trong phát triển hay con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những quan điểm cốt lõi,
xuyên suốt trong đường lối lãnh đạo chính trị của Đảng ta.
Đối với việc xây dựng con người nói chung, Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục
khẳng định quan điểm của Đại hội XII “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện” [9, tr.47] và xác định “phát triển con người toàn diện, đáp ứng yêu cầu mới của
phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và cơng nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng cơng
nghiệp lần thứ tư” [10, tr.136]. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh vấn đề phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới với chủ trương: “Đẩy mạnh phát triển

nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa
học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị
công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức
cuộc sống, chăm sóc con người” [10, tr.231].
Đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Nghị quyết Đại hội lần thứ
XIII của Đảng đã nêu ra quan điểm: “… nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ
CBCC, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược,
người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật
thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành cơng sự nghiệp xây
dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc” [11, tr.325].


7

Về nâng cao năng lực chun mơn, trong tình hình mới, Đảng ta luôn chú trọng
đến năng lực chuyên môn của cán bộ. Đảng xác định việc xây dựng đội ngũ cán bộ
phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn: “Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu
cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới” [1]; “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người
đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám
nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu
với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên
phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết” [10, tr.187].
Về nâng cao trình độ lý luận chính trị, trước bối cảnh hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, người cán bộ không những phải được học tập, trau dồi kiến thức để
nâng cao năng lực chun mơn mà cịn phải được “khơng ngừng nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho cán bộ, đảng viên” [10, tr.41]. Từ đó, cán bộ sẽ tích cực tham gia vào
cuộc đấu tranh chống lại những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, đấu
tranh phản bác lại những quan điểm sai trái, vu cáo nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Về nâng cao phẩm chất đạo đức, Đảng đặc biệt nhấn mạnh đến việc xây dựng,
nâng cao giáo dục phẩm chất đạo đức của cán bộ cách mạng trong tình hình mới tại
Đại hội XIII: “Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ tự điều chỉnh
hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng,
làm cho mỗi cán bộ thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, ln vững vàng trước
khó khăn, thách thức và khơng bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý
thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng” [10, tr.184].


8

Về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, trong những năm qua, Đảng luôn chú
trọng đến công tác cán bộ và nâng cao công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Đại
hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, cập
nhật kiến thức mới, nâng cao kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ các cấp,
gắn với tiêu chuẩn chức danh và quy hoạch cán bộ được quan tâm, chú trọng và đầu tư
tương xứng” [10, tr.194]. Nghị quyết 26-NQ/TW của Hội nghị lần thứ bảy BCH TW
khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp nhấn mạnh: “Cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công
tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp
chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được
tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng
đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững” [1]. Việc quán triệt và triển
khai Nghị quyết 26-NQ/TW khóa XII và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng có ý nghĩa
vơ cùng quan trọng trong cơng tác cán bộ; đặc biệt, với những yêu cầu đặt ra của thực
tiễn nên việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là yêu cầu tất
yếu.
Về chuẩn mực văn hoá trong trong lãnh đạo, Đảng nêu rõ: “Xây dựng và thực
hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo quản lý. Chú trọng xây dựng môi trường
văn hóa cơng sở lành mạnh, dân chủ, đồn kết, nhân văn; đẩy lùi bệnh quan liêu, bè

phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng [10, tr.143].


9

Do nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề con người đặc biệt là
vấn đề con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta hiện nay.
Đảng ta đã và đang xây dựng và phát triển đất nước toàn diện về nhiều mặt nên chiến
lược con người đóng vai trị đặc biệt quan trọng: cần đào tạo con người một cách có
chiều sâu lấy tư tương và chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, cũng như trên thế giới,
ở nước ta chiến lược con người có ý nghĩa hết sức quan trọng và để chiến lược đó phát
triển đúng hướng cần có một chính sách phát triển con người, khơng để con người đi
lệch tư tưởng. Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và xây dựng
con người luôn được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào trong quá trình xây dựng và phát
triển con người, đặc biệt là trong xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ suốt
thời kỳ đổi mới vừa qua.
2. Thực trạng và nguyên nhân thực trạng vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước
2.1. Những thành tựu trong vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức
xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước trong những năm qua
Trong những năm qua, với sự nỗ lực khơng ngừng của cấp ủy đảng và chính
quyền của xã Nghĩa Bình, của huyện Bù Đăng và của cả tỉnh Bình Phước nên vấn đề
nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã thông qua việc ban hành và thực hiện các
chính sách thu hút, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng,… để từng bước nâng cao chất
lượng cả về chun mơn nghiệp vụ và lý luận chính trị của đội ngũ này nhằm đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương ngày càng được quan tâm.
Công tác nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC tại xã Nghĩa Bình có những hướng đi
đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra và đạt được một số kết quả quan trọng,
như sau:



10

Thứ nhất, trình độ chun mơn nghiệp vụ của đội ngũ CBCC xã Nghĩa Bình đã
được nâng lên rõ rệt. Theo Báo cáo số lượng, chất lượng cán bộ công chức xã Nghĩa
Bình thì năm 2021 xã có tổng số 20 CBCC hoạt động chuyên trách, có 100% CBCC xã
có trình độ học vấn là trung học phổ thơng; có 100% CBCC xã có trình độ chun mơn
từ trung cấp trở lên, trong đó: trình độ đại học có 16/20 CBCC, chiếm tỷ lệ 80%; trình
độ trung cấp có 04/20 CBCC, chiếm tỷ lệ 20%. Trình độ ngoại ngữ, tin học cũng được
nâng lên nhằm đáp ứng yêu cầu hiện đại hố nền hành chính, theo đó thì 100% CBCC
tại xã có chứng chỉ ngoại ngữ là tiếng Anh, 100% CBCC có chứng chỉ tin học, trong đó
có 01 CBCC đạt trình độ trung cấp tin học trở lên; đội ngũ CBCC sử dụng thành thạo
tin học văn phòng và ngoại ngữ trong giải quyết công việc được giao [17]. CBCC xã
Nghĩa Bình đều đạt tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể đối với CBCC cấp xã theo
Quyết định số 04/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban
hành tiêu chuẩn cụ thể đối với CBCC xã, phường, thị trấn và Thông tư số 13/2019/TTBNV ngày 06/11/2019 của Bộ Nội vụ hướng dẫn một số quy định về CBCC cấp xã và
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố.
Thứ hai, trình độ lý luận chính trị của CBCC xã Nghĩa Bình từng bước được
nâng lên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Theo Báo cáo số lượng, chất lượng
CBCC xã Nghĩa Bình, năm 2021, trình độ lý luận chính trị của CBCC từ trung cấp trở
lên chiếm tỷ lệ 60%, trong đó: 02 CBCC có trình độ cao cấp lý luận chính trị, 10
CBCC có trình độ trung cấp lý luận chính trị; trình độ lý luận chính trị của CBCC từ
trung cấp trở xuống chiếm tỷ lệ 40%, trong đó: 08 CBCC có trình độ sơ cấp lý luận
chính trị và khơng có CBCC chưa qua đào tạo [17].


11

Thứ ba, lập trường chính trị và phẩm chất đạo đức cách mạng của CBCC xã
Nghĩa Bình được đảm bảo và ngày càng nâng cao. Tất cả CBCC của xã đều là đảng

viên Đảng Cộng sản Việt Nam [17], tham gia hoạt động cách mạng và trưởng thành từ
phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân; là những người có uy tín, được nhân
dân tín nhiệm, ln hết lịng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; đội ngũ CBCC xã
phần lớn vững vàng về chính trị, nỗ lực phấn đấu học tập, rèn luyện và trưởng thành từ
cơ sở.
Thứ tư, công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC được nâng cao về mọi mặt. Công tác
đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng CBCC có bước chuyển biến trong nhận thức
của các cấp uỷ đảng. Bước đầu khắc phục được tình trạng chủ quan, bị động, chắp vá
trong cơng tác cán bộ đối với đội ngũ cán bộ này. Công tác tạo nguồn quy hoạch
CBCC được tập trung chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả, đa dạng hố các loại hình đào
tạo theo từng loại đối tượng CBCC, chú trọng cả đào tạo lý luận chính trị và chuyên
môn nghiệp vụ; quan tâm đào tạo CBCC chủ chốt các cấp trong diện quy hoạch, từng
bước đáp ứng được yêu cầu trước khi đề bạt, bổ nhiệm và chuẩn hố CBCC. Nội dung,
chương trình, phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng có bước đổi mới; đã chú
trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới theo tiêu chuẩn chức danh và vị trí việc làm
gần hơn, sát hơn với yêu cầu, nhiệm vụ thực tế.


12

Thứ năm, năng lực lãnh đạo, quản lý và công tác khơng ngừng được nâng lên,
góp phần thực hiện hồn thành các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ sở.
CBCC xã có năng lực nhận thức, tư duy cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ tham mưu, giúp
UBND xã Nghĩa Bình tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, đảm bảo tính hiệu lực,
hiệu quả. Có năng lực lập kế hoạch trong quản lý hành chính nhà nước ở đơn vị, giúp
UBND xã Nghĩa Bình cũng như CBCC xã xác định chính xác mục tiêu cần đạt được và
cách thức thực hiện để đạt tới mục tiêu. Hầu hết CBCC xã đều có năng lực soạn thảo
văn bản nói chung và văn bản quản lý hành chính nhà nước nói riêng trong q trình
thực thi cơng vụ như thơng báo, tờ trình, báo cáo, cơng văn, quyết định,…; đồng thời,
nắm vững và tuân thủ các yêu cầu chung về kỹ thuật soạn thảo văn bản, đảm bảo yêu

cầu về nội dung, bố cục và thể thức. Trong thực thi cơng vụ, CBCC xã ln có sự phối
hợp, hỗ trợ với các bộ phận và các CBCC khác để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ được
giao. Ngoài ra, đội ngũ CBCC xã Nghĩa Bình đã và đang được nâng cao về năng lực và
rèn luyện các kỹ năng cần thiết trong xử lý đối với công việc được giao, có thái độ
đúng đắn trong q trình thực thi cơng vụ; thể hiện rõ tính tích cực, tự giác, thực hiện
nghiêm kỷ cương hành chính; ít để xảy ra hiện tượng sách nhiễu, phiền hà trong thực
thi công vụ. Phần lớn đội ngũ CBCC xã vận dụng thành thạo kiến thức chuyên môn
được đào tạo vào việc triển khai các văn bản, quy định của Nhà nước trong xử lý công
việc và ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện nhiệm vụ.
Thứ sáu, đội ngũ CBCC xã Nghĩa Bình đã được bố trí cơ bản phù hợp với
chuyên ngành đào tạo; độ tuổi trung bình 41,8 tuổi, số CBCC trẻ tuổi chiếm tỷ lệ cao,
cụ thể là 10 CBCC, chiếm tỷ lệ 50%. Đa số có ý thức tổ chức kỷ luật, gương mẫu chấp
hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có thái độ
giao tiếp, ứng xử đúng mực và trách nhiệm với công việc được giao; tác phong làm
việc chăm chỉ, cẩn thận, chắc chắn, niềm nở và tôn trọng đồng nghiệp.


13

Thứ bảy, thể chế quản lý CBCC được hoàn thiện; quy định về tuyển dụng, nâng
ngạch công chức; cơ chế đánh giá khen thưởng, kỷ luật CBCC cùng với các chính sách
đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài; nâng cao trách nhiệm người đứng đầu và trách
nhiệm của CBCC trong thực thi công vụ… công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC đã được
đổi mới theo hướng phù hợp với các đối tượng đào tạo, bồi dưỡng và yêu cầu nhiệm
vụ.
Như vậy, đội ngũ CBCC xã Nghĩa Bình từng bước phát triển cả về số lượng và
chất lượng, cơ bản đảm bảo tiêu chuẩn và trình độ chun mơn. Đa số CBCC chủ chốt
tại xã có phẩm chất đạo đức tốt, đều đã trải qua các chức danh công chức hoặc cán bộ
đồn thể xã, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức
kỷ luật, có phương pháp, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, nêu cao tính tiền phong gương

mẫu, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ chính
trị ở cơ sở. Đây là nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo tổ chức thực hiện thành cơng
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lãnh đạo thực hiện thắng lợi
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu Nghị quyết đại hội đảng các cấp đề
ra.
2.2. Khó khăn, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến khó khăn, hạn chế trong vấn đề
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng,
tỉnh Bình Phước trong những năm qua
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong thời gian qua, vấn đề nâng cao chất
lượng đội ngũ CBCC xã Nghĩa Bình cịn có một số khó khăn, hạn chế cần phải được
nghiên cứu, khắc phục, có thể kể đến như sau:


14

Thứ nhất, trình độ chun mơn, nghiệp vụ của đội ngũ CBCC xã Nghĩa Bình có
mặt cịn thấp so với yêu cầu thực tiễn. Bức tranh chung về trình độ học vấn của đội ngũ
CBCC xã là học vấn trung học phổ thông đạt tỷ lệ 100%; tuy nhiên, thực tế cho thấy,
trình độ chun mơn của đội ngũ CBCC cịn có điểm hạn chế, mặt khác, số được đào
tạo qua các chuyên nghành chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn ở cơ sở, không theo
đúng với quy hoạch, còn chắp vá. Cụ thể: số CBCC chủ chốt của xã chỉ mới được đào
tạo về chuyên môn, nghiệp vụ ở mức trung cấp còn chiếm tỷ lệ cao, cụ thể là 04/20
CBCC, chiếm tỷ lệ 20%; khơng có CBCC có trình độ chun mơn, nghiệp vụ từ thạc sĩ
trở lên; chỉ có 1 CBCC, chiếm tỷ lệ 5% trong tổng số CBCC được bồi dưỡng kiến thức
quản lý Nhà nước, do đó, nhận thấy được rằng có đến 19 CBCC, chiếm tỷ lệ 95% chưa
được bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước [17].
Thứ hai, trình độ lý luận chính trị của đội ngũ CBCC xã Nghĩa Bình vẫn cịn
chưa cao. Trình độ lý luận chính trị ở mức sơ cấp còn chiếm tỷ lệ cao, cụ thể là 08/20
CBCC, chiếm tỷ lệ 40%; chỉ có 02 CBCC, chiếm tỷ lệ 10% đạt trình độ lý luận chính
trị cao cấp [17]. Đánh giá chung cho thấy trình độ lý luận chính trị của CBCC xã theo

vị trí cơng tác không đồng đều và mới chỉ tập trung ưu tiên đào tạo lý luận chính trị từ
trung cấp trở lên cho các chức danh đứng đầu; các chức danh còn lại cũng được quan
tâm đào tạo, nhưng số lượng có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên cịn hạn
chế, đa phần là trình độ lý luận chính trị sơ cấp. Đối với CBCC chủ chốt mà số chưa
qua đào tạo từ trung cấp trở lên cao như vậy là điều rất đáng lưu ý bởi họ phải là những
người có lập trường chính trị vững vàng, có khả năng lĩnh hội chủ trương, chính sách,
nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đội ngũ CBCC này tham gia cơng tác
chủ yếu là ở lịng nhiệt tình cách mạng, một lịng một dạ đi theo Đảng chứ chưa hồn
tồn dựa vào niềm tin có cơ sở khoa học vào chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của
Đảng
Thứ ba, năng lực công tác của một số CBCC xã Nghĩa Bình chưa đáp ứng được
yêu cầu, nhiệm vụ. Năng lực cụ thể hoá các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên vào thực
tiễn ở địa phương của một số CBCC còn yếu; phương pháp, lề lối làm việc chưa khoa


15

học, còn biểu hiện hữu khuynh, né tránh trong xử lý các vấn đề nổi cộm, phức tạp.
Chất lượng, hiệu quả cơng việc của một số CBCC tại xã cịn thấp, chưa tương xứng với
trình độ đào tạo; cịn có CBCC chủ chốt cấp xã chưa nắm chắc chính sách, quy định
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, giải quyết cơng việc cịn theo kinh nghiệm, dẫn đến
chưa thực hiện đúng quy định trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, giải quyết
công việc, nhất là trong lĩnh vực quản lý tài chính ngân sách, quản lý tài nguyên môi
trường. Nhận thức của một bộ phận CBCC cấp xã về Luật Tổ chức chính quyền địa
phương, Luật Phịng chống tham nhũng, Luật bảo vệ môi trường cũng như một số luật
chuyên ngành khác còn hạn chế; việc nắm và vận dụng pháp luật trong thi hành công
vụ hiệu quả chưa cao.


16


Thứ tư, việc quy họach, bố trí, sử dụng, đánh giá, ln chuyển CBCC tại xã
Nghĩa Bình vẫn cịn một số bất cập. Cơng tác bố trí, sử dụng CBCC vẫn cịn chưa phù
hợp giữa chun mơn đào tạo với lĩnh vực phụ trách, một số làm việc chủ yếu theo
kinh nghiệm, lối mòn nên chất lượng và hiệu quả cơng tác khơng cao. Cơng tác đánh
giá CBCC cịn hình thức, kết quả đánh giá cơ sở cịn chưa hồn toàn tương xứng với
thực chất hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị cơ sở. Cơng tác quy hoạch
CBCC cịn dàn trải, tính khả thi chưa cao; chất lượng và cơ cấu của qui hoạch còn một
số điểm mặt hạn chế; về trình độ trong qui hoạch chưa đảm bảo yêu cầu; tỷ lệ cán bộ
người dân tộc thiểu số cịn thấp. Cơng tác ln chuyển CBCC cịn chậm so với mục
tiêu chuẩn hố đội ngũ cán bộ cơ sở; đồng thời, các cấp ủy đảng chưa chú ý đúng mức
đến việc luân chuyển và thực hiện chính sách sát hợp với đối tượng này.
Thứ năm, việc xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ chưa
thực sự gắn kết với yêu cầu cần thiết của cơng việc. Nội dung chương trình và việc
quản lý đào tạo, bồi dưỡng chưa đồng bộ; công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC cịn thiếu
tính chiến lược, dài hạn, chưa gắn với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy hoạch, sử dụng
CBCC. Chất lượng và hiệu quả đào tạo cịn thấp; nội dung chương trình đào tạo, bồi
dưỡng cho CBCC còn chậm đổi mới, chưa kịp thời bổ sung nội dung mới, phù hợp với
sự đòi hỏi của thực tiễn; việc thực hiện quy định về chế độ học tập, bồi dưỡng hằng
năm đối với cán bộ chưa thành nề nếp, tình trạng ngại học lý luận chính trị, ngại học
tập trung khá phổ biến,…; quy mô đào tạo được mở rộng nhưng chưa gắn với nâng cao
chất lượng đào tạo, hệ thống đào tạo, bồi dưỡng CBCC chưa đồng đều, thiếu liên
thông, gắn kết với hệ thống giáo dục, đào tạo chung; việc sử dụng kinh phí đào tạo, bồi
dưỡng nhìn chung chưa hợp lý, hiệu quả cịn thấp.


17

Thứ sáu, một số CBCC thiếu kinh nghiệm thực tiễn, tinh thần học hỏi chưa cao
nên trong thực thi công vụ cịn nhiều thiếu sót, xử lý cơng việc thiếu chính xác, làm

mất nhiều thời gian, cơng sức của người dân, chậm tiến độ triển khai cơng việc, gây ra
tình trạng trì trệ ở nhiều khâu; triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao còn chậm, chưa
chủ động, vẫn còn tình trạng chờ văn bản giao việc hoặc đơn đốc mới triển khai thực
hiện; cơng tác tham mưu có lúc chưa nhanh nhạy, hiệu quả chưa cao; việc phối hợp
giữa các cấp, các bộ phận trong thực thi công vụ có lúc, có nơi chưa chặt chẽ; một bộ
phận CBCC cịn có biểu hiện gây khó khăn, phiền hà cho tổ chức, người dân trong giải
quyết cơng việc. Ngồi ra, một số CBCC trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện phai nhạt lý
tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ.
Thứ bảy, một số CBCC lãnh đạo, quản lý thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng
lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Ý thức tổ chức kỷ luật của một số CBCC của
xã chưa cao; cịn có trường hợp chưa thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc và nội
quy, quy định của cơ quan hoặc thờ ơ, buông lỏng quản lý đối với lĩnh vực được phân
công phụ trách. Một số CBCC chưa tích cực rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống, quan liêu hoặc có biểu hiện gây khó khăn, sách nhiễu, phiền hà trong thi hành
công vụ.


18

Nguyên nhân dẫn đến khó khăn, hạn chế nêu trên tại xã Nghĩa Bình trong những
năm qua là do nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan, cụ thể: Công tác nâng cao chất
lượng CBCC ở cơ sở thực hiện chưa tốt, thiếu quy hoạch chậm được đổi mới; một số
cấp ủy và người đứng đầu chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vị trí, vai trị của CBCC
và công tác CBCC và tầm quan trọng của công tác CBCC, chưa thực sự quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ các khâu trong công tác CBCC. Năng lực nhận thức và
tổ chức triển khai các quy chế, quy định, quy trình về cơng tác CBCC của các cấp uỷ
còn nhiều hạn chế; sự phối hợp của các cấp, các ngành và các tổ chức trong hệ thống
chính trị chưa chặt chẽ, thường xuyên. Việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC theo chức vụ,
chức danh chưa được chú trọng đúng mức; chế độ, chính sách đối với CBCC cơ sở có

điểm cịn bất cập; điều kiện làm việc ở cơ sở cịn khó khăn, ảnh hưởng đến tư tưởng
CBCC và chưa tạo được sức thu hút những người có trình độ, năng lực về cơng tác lâu
dài ở cơ sở. Cơng tác đánh giá, kiểm điểm, tự phê bình và phê bình đối với CBCC cơng
tác thi đua, khen thưởng thực hiện chưa thật sự nề nếp và nghiêm túc. Chính sách đối
với CBCC cơ sở chưa thật sự phát huy hết tài năng, sự sáng tạo của đội ngũ CBCC.
Một bộ phận CBCC ở cơ sở thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối
sống nên ý thức học tập tại các cơ sở đào tạo kém, uy tín đối với quần chúng khơng cao
thậm chí gây mất lịng tin của nhân dân. Điều kiện kinh tế - xã hội ở xã cịn khó khăn
nên trình độ dân trí chưa cao; nguồn CBCC cho cơng tác quy hoạch, đào tạo q ít do
đó, chất lượng CBCC còn hạn chế.
3. Một số giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã
Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước hiện nay


19

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC ở xã
Nghĩa Bình hiện nay vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Thực tiễn đó đặt ra yêu
cầu phải xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC chuyên nghiệp, có phẩm chất
chính trị, đạo đức trong sáng, có năng lực, trình độ đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
trong thời kỳ mới tại xã Nghĩa Bình. Quán triệt chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng
con người và tinh thần Đại hội XIII của Đảng về nâng cao công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ có phẩm chất tốt, chuyên nghiệp, tận tụy, có kinh nghiệm và hết lịng phục vụ
nhân dân đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong tình hình mới, trong thời gian tới, cần tập
trung nghiên cứu, triển khai thực hiện hiệu quả một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trong của việc nâng cao chất
lượng đội ngũ CBCC; quán triệt và thực hiện đúng các quan điểm của Đảng về xây
dựng đội ngũ CBCC thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ chức trong hệ thống chính trị
về vị trí, vai trị, nhiệm vụ của CBCC cấp xã trong giai đoạn hiện nay; tiếp tục quán

triệt và nhận thức sâu sắc quan điểm, ngun tắc, quy trình, quy định về cơng tác quản
lý và thực hiện chế độ chính sách đối với CBCC cấp xã để tạo bước chuyển biến rõ rệt
về công tác cán bộ. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng,
nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên và nâng cao khả năng vận dụng, cụ thể hoá và
tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước;
phát huy tinh thần ý thức tự giác nghiên cứu học tập khơng ngừng nâng cao trình độ
năng lực, rèn luyện tu dưỡng cả về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của CBCC
cấp xã đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ được giao.


20

Quán triệt, học tập và triển khai thực hiện các nội dung Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, trong đó nghiên cứu và thực hiện nội dung:
“Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên
nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch… Tập trung xây dựng
đội ngũ CBCC có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển
của đất nước” [10, tr.176]. Để thực hiện chủ trương này, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn
thiện thể chế pháp luật về CBCC cùng với việc xây dựng chuẩn mực và đề cao yếu tố
đạo đức, các giải pháp nâng cao đạo đức công vụ cũng rất quan trọng. Đội ngũ CBCC
cần phải có các chuẩn mực đạo đức để thơng qua đó rèn luyện và nâng cao ý thức trách
nhiệm, thực thi công vụ trong khuôn khổ quy định của pháp luật, điều này cũng được
phản ánh và thể hiện ở hiệu quả quản lý nhà nước.
Hai là, đổi mới và nâng cao chất lượng các khâu trong công tác tuyển dụng, bố
trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC cấp xã.
Việc tuyển dụng, bố trí CBCC cấp xã cần căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí
cơng tác, tiêu chuẩn và số lượng của chức danh thực tế cần tuyển dụng; phải căn cứ
vào ngành nghề đang thiếu và đòi hỏi cao về chất lượng đầu vào. Thực hiện thông tin
công khai, rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài phát thanh truyền hình, trang thơng tin điện tử về nội dung, yêu cầu, số lượng chức danh cần
tuyển, lịch thi, tiêu chuẩn ưu tiên cho người dự tuyển biết để thu hút nhiều người tham

gia dự tuyển, vừa bảo đảm tính cơng khai, cơng bằng, dân chủ, minh bạch vừa lựa chọn
được người tài, có tâm huyết vào làm việc trong hệ thống chính quyền cấp xã.


21

Tiếp tục nghiên cứu đổi mới hình thức tuyển dụng CBCC, việc tuyển dụng bằng
hình thức thi tuyển hiện nay đã được áp dụng nhưng cịn ít tính cạnh tranh và điều quan
trọng vẫn chưa tuyển dụng được những người tài, người giỏi vào đúng vị trí việc làm,
cần phải đổi mới bằng việc xây dựng và mô tả công việc của từng vị trí việc làm cụ thể
làm cơ sở cho công tác tuyển chọn CBCC. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc quy định
về tiêu chuẩn của từng chức danh CBCC cấp xã; kiên quyết khơng bố trí những người
không đủ điều kiện, tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ vào các chức danh theo quy
định. Trong bố trí, sử dụng cần tạo điều kiện và cơ hội phát triển bình đẳng cho mọi
CBCC để họ phát huy được sở trường và năng lực cơng tác của mình.
Cơng tác đào tạo, bồi dưỡng phải căn cứ vào nhu cầu thực tế của đơn vị và vị trí
cơng tác của mỗi CBCC; chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
CBCC cấp xã cho từng năm và cả nhiệm kỳ; tổ chức rà sốt để có phương án đào tạo,
bồi dưỡng đối với những người còn thiếu tiêu chuẩn quy định. Phải đổi mới tư duy
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng theo hướng gắn đào tạo, bồi dưỡng với sử dụng, đáp
ứng yêu cầu của vị trí việc làm chứ khơng chạy theo bằng cấp. Đồng thời, xây dựng
phương án bố trí, sắp xếp sang vị trí cơng tác khác đối với những người được cử đi đào
tạo, bồi dưỡng nhưng khơng hồn thành đúng thời gian quy định. Đối với CBCC lớn
tuổi ở xã hiện nay, nếu khơng đáp ứng đủ trình độ chun mơn, khơng có nhu cầu đào
tạo, bồi dưỡng thì có thể giải quyết theo chế độ thôi việc để kiện tồn và chuẩn hóa đội
ngũ CBCC cho phù hợp với quy định. Đặc biệt, đối với xã Nghĩa Bình có đông đồng
bào dân tộc thiểu số sinh sống phải quan tâm cử CBCC đủ điều kiện đi bồi dưỡng tiếng
dân tộc; có chính sách khuyến khích đối với CBCC đi học tiếng dân tộc để khích lệ
tinh thần học hỏi và phát huy năng lực cơng tác của họ.
Ngồi ra, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả chương trình đào

tạo, bồi dưỡng CBCC đi đơi với việc chú trọng đến việc đào tạo lý luận chính trị, bảo
đảm sự liên thông nội dung từ thấp đến cao, từ sơ cấp đến trung cấp, đến cao cấp lý
luận chính trị; song song đó là chú trọng cơng tác đào tạo, bồi dưỡng tin học và ngoại
ngữ cho CBCC cấp xã. Hằng năm, chính quyền cấp cơ sở căn cứ vào những tiêu chí


22

quy hoạch CBCC, căn cứ vào nguồn lực cũng như đặc thù phát triển của địa phương cử
CBCC cấp cơ sở tham gia học các khóa học đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị ở
trường Chính trị tỉnh, trung tâm chính trị huyện, thành phố nhằm củng cố bản lĩnh
chính trị, góp phần củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
khơi gợi sự cống hiến vì sự phát triển của đất nước, của địa phương. Từ đó, đặt ra yêu
cầu các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBCC cơ sở phải không ngừng đổi mới chương trình,
nội dung, phương pháp giảng dạy lý luận chính trị để đáp ứng nhu cầu mới chung của
đất nước và riêng đối với từng địa phương.
Ba là, tăng cường và nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát, đánh giá đối với đội
ngũ CBCC cấp xã. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá để kịp thời chấn chỉnh
những sai sót, khắc phục những hạn chế trong cơng tác cán bộ, thực hiện tốt các chính
sách về CBCC cấp xã; đồng thời thực hiện kết hợp với kiểm tra đột xuất, có trọng tâm,
trọng điểm của cấp ủy đảng, chính quyền và các đồn thể ở cấp xã cũng như thực hiện
chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc cấp xã. Đặc biệt, cần nêu
cao tinh thần tự phê bình và phê bình, tinh thần tương thân tương ái, tuyệt đối không
lợi dụng công tác kiểm tra, giám sát để moi móc, cố ý trù dập lẫn nhau. Đối với những
CBCC cấp xã yếu kém về năng lực và phẩm chất, khơng đáp ứng được u cầu cơng
tác thì cần có kế hoạch luân chuyển sang làm công việc khác phù hợp, hoặc động viên
họ xin thơi việc để bố trí, tuyển dụng người có đủ năng lực đáp ứng được vị trí cơng
tác.
Bốn là, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất và nâng cao chất lượng thực hiện chính
sách cán bộ. Hoàn thiện thể chế quản lý CBCC; quy định về tuyển dụng, nâng ngạch

công chức; cơ chế đánh giá khen thưởng, kỷ luật CBCC cùng với các chính sách đãi
ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài; nâng cao trách nhiệm người đứng đầu và trách nhiệm
của CBCC trong thực thi công vụ,... Đồng thời, tạo dựng phong trào thi đua xây dựng
môi trường làm việc tốt để phát huy tốt nhất khả năng cống hiến của CBCC. Sớm triển
khai thực hiện cải cách chế độ tiền lương, bảo đảm cuộc sống của CBCC và không cần,
không dám tham nhũng vẫn đủ sống, chuyên tâm với thực thi công vụ của mình. Như


×