Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.31 KB, 124 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

BI TH HNG

TOà áN TRONG NHà NƯớC PHáP QUYềN
XÃ HộI CHủ NGHĩA VIệT NAM

LUN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

BI TH HNG

TOà áN TRONG NHà NƯớC PHáP QUYềN
XÃ HộI CHủ NGHĩA VIệT NAM

Chuyờn ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN HOÀNG ANH

HÀ NỘI – 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứa
khoa học của riêng tơi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Thị Hằng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÒA ÁN TRONG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ........ 9
1.1.

Nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam ................................................................. 9

1.1.1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền ......................................................... 9
1.1.2. Nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam ............................................................................................ 12
1.2.


Tòa án trong Nhà nước pháp quyền............................................... 17

1.3.

Nhu cầu nâng cao vai trò của Tòa án trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ............................ 33

1.4.

Các yếu tố tác động đến vai trò của Tòa án trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam ................................................. 37

1.4.1. Nhận thức chính trị về vai trị, sứ mệnh của Tịa án .......................... 37
1.4.2. Tổ chức Tịa án và tính độc lập của Tịa án ....................................... 38
1.4.3. Tính hồn thiện của hệ thống pháp luật ............................................. 40
1.4.4. Nguồn lực cho hoạt động của Tòa án ................................................. 41
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG
VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ........................................................... 43
2.1.

Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ................ 43

2.1.1. Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người theo pháp
luật Việt Nam ..................................................................................... 43


2.1.2. Thực trạng thực hiện vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền con người .... 60
2.2.


Vai trò của Tịa án trong đảm bảo tính thống nhất của pháp luật ........ 66

2.2.1. Thực trạng pháp luật và nhu cầu thực tiễn của việc giải thích
pháp luật của Tịa án........................................................................... 66
2.2.2. Thực trạng vai trò của Tòa án trong đảm bảo tính thống nhất của
pháp luật ............................................................................................. 69
2.3.

Vai trị của Tịa án trong kiểm sốt hoạt động của cơ quan Nhà nước ... 78

2.3.1. Thực trạng quy định pháp luật về Tịa án kiểm sốt hoạt động
của cơ quan Nhà nước ........................................................................ 78
2.3.2. Thực trạng hoạt động Tòa án kiểm soát hoạt động của cơ quan
Nhà nước ............................................................................................ 83
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
TÒA ÁN TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ....... 95
3.1.

Quan điểm nâng cao vai trò của Tòa án trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ............................ 95

3.1.1. Đổi mới nhận thức về vai trò của tòa án ............................................ 95
3.1.2. Bảo đảm độc lập xét xử của Tòa án ................................................... 96
3.1.3. Đổi mới tổ chức Tòa án gắn liền với quá trình hội nhập pháp luật
quốc gia với pháp luật quốc tế về quyền con người......................... 100
3.2.

Giải pháp nâng cao vai trò của Tòa án trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .......................... 103


3.2.1.

Giải pháp nâng cao vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền con người ..... 103

3.2.2. Giải pháp nâng cao vai trò của Tòa án trong bảo đảm tính thống
nhất của pháp luật ............................................................................. 106
3.2.3. Giải pháp nâng cao vai trị của Tịa án trong kiểm sốt hoạt động
của cơ quan Nhà nước ...................................................................... 108
KẾT LUẬN .................................................................................................. 113
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 115


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS:

Bộ luật dân sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CNH- HĐH:

Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa

HĐXX:

Hội đồng xét xử


NNPQ:

Nhà nước pháp quyền

QPPL:

Quy phạm pháp luật

TAND TC:

Tòa án nhân dân tối cao

UBNN:

Ủy ban nhân dân

UBTVQH:

Ủy ban thường vụ Quốc Hội

VKS:

Viện kiểm sát

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước tình hình quan hệ quốc tế ngày càng trở nên sôi động, đa dạng
hóa, đa phương hóa như hiện nay, việc hợp tác, ký kết với các nước cũng đang
diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên tất cả các lĩnh vực, phương diện và các mối
quan hệ; Vì u cầu đó, Đảng và Nhà nước ta đã và đang từng bước tiến hành
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chủ trương này đã dần dần đi
vào cuộc sống và phát huy nhiều mặt tích cực của nó ngay cả khi mới chỉ ở giai
đoạn lý luận. Quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền được thể hiện ngay
trong Hiến pháp năm 2013, đây là một văn bản pháp lý có giá trị cao nhất, chi
phối các q trình xã hội và có ý nghĩa như một điều kiện tiên quyết cho việc tổ
chức thực hiện quyền lực Nhà nước cũng như việc xây dựng và thực hiện pháp
luật trong đời sống xã hội. Tư tưởng pháp quyền phải được thể hiện và thực thi
trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, văn hố, quốc phịng, an ninh,
đối ngoại, Hiến pháp đã thể hiện nhận thức đó trong từng chương, từng điều,
quy định với tư cách là đạo luật cơ bản của Nhà nước.
Song song với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đang chủ
trương cải cách tư pháp, để cơng tác tư pháp ngang tầm với những địi hỏi của
Nhà nước pháp quyền, đáp ứng kịp thời yêu cầu của quá trình đổi mới đất
nước, xu thế hội nhập, hợp tác, bang giao quốc tế bởi vì cải cách tư pháp có
đóng góp trực tiếp đến nhà nước pháp quyền. Trước nhiệm vụ phát triển, bảo
vệ đất nước và yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong giai
đoạn mới, cùng với cải cách nền hành chính, Đảng ta chủ trương ban hành và
thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, lấy Tòa án là trung tâm,
xét xử là trọng tâm và lấy tranh tụng làm khâu đột phá.

1


Với vị trí là cơ quan duy nhất nhân danh nước CHXHCN Việt Nam

thực hiện chức năng xét xử, Tòa án nhân dân đã góp phần to lớn vào việc giữ
gìn, bảo đảm cơng lý và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đem lại niềm tin cho nhân
dân đối với nhà nước và chế độ xã hội. Kế thừa các bản Hiến pháp trước đây,
Hiến pháp 2013 khẳng định: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thực hiện quyền tư pháp. Tịa án
nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ quyền công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. (Khoản 3, Điều 102).
Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc đòi hỏi phải nhận thức rõ hơn về Nhà nước pháp quyền. Hiến pháp sửa đổi
2013 khẳng định tính bức thiết, tất yếu phải xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta.
Nhận thức rõ tư tưởng pháp quyền phải được thể hiện và thực thi trong
mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phịng, an ninh, đối
ngoại, theo tư tưởng Hồ Chí Minh “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”,
Hiến pháp đã thể hiện nhận thức đó trong từng chương, từng điều quy định
với tư cách là luật cơ bản của Nhà nước. Chính nội dung Hiến pháp đã giúp
cho mỗi cơ quan Nhà nước, đội ngũ công chức và mọi công dân nhận thức
đầy đủ hơn về Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Xây dựng, hồn thiện Nhà nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa hiện nay
là dựa trên những quan điểm và đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền.
Trong đó, nội dung đầu tiên là xây dựng, hồn thiện hệ thống pháp luật bắt
đầu từ Hiến pháp và khẳng định tính tối thượng của pháp luật. Pháp luật là
công cụ quản lý chủ yếu của Nhà nước. Mọi cơ quan tổ chức, cá nhân đều
phải tuân thủ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật, nếu vi phạm pháp luật đều
bị xử lý theo pháp luật.

2



Hiến pháp 2013 đã được thông qua là căn cứ để xây dựng hệ thống
pháp luật, ban hành luật mới và sửa đổi các luật đã có cho phù hợp với Hiến
pháp, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện thơng suốt và nghiêm minh.
Song hành với hồn thiện pháp luật là việc xây dựng và cơ cấu tổ chức, cơ
chế vận hành của bộ máy Nhà nước. Theo đó, bản Hiến pháp mới đã quy định
rõ vai trò chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước,
Chính phủ, Tịa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và chính quyền địa
phương. Đồng thời, Hiến pháp cũng quy định cơ chế vận hành: Quyền lực
Nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ
quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Xây dựng, hoàn thiện bộ máy Nhà nước gắn liền với xây dựng đội ngũ cơng
chức có trình độ, năng lực đạo đức, trách nhiệm và thượng tôn pháp luật. Hiến
pháp là cơ sở để đổi mới hoạt động của Quốc hội, đẩy mạnh cải cách hành
chính và cải cách tư pháp, bảo đảm cho quản lý của Nhà nước có hiệu quả và
hiệu lực trên cơ sở quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và khẳng định vai
trò lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, trong tồn bộ tiến trình đổi mới của đất nước, so với đổi
mới hoạt động lập pháp và cải cách hành chính, đổi mới trong lĩnh vực tư
pháp cịn chậm và chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình hiện nay. Mặc
dù đã có đổi mới nhưng tổ chức và hoạt động của Tòa án hiện nay về cơ bản
vẫn không thay đổi, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư
pháp theo các mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bất cập hiện nay trong hệ thống Tòa án đã và đang tồn tại và khó có
hướng giải quyết đó là cơ cấu về các tịa án chưa hợp lý về cả thẩm quyền lẫn
tổ chức bộ máy đó là:
Đối với Tòa án địa phương, ngay trong nội tại tên gọi đã thể hiện sự
chịu ảnh hưởng của chính quyền, do vậy, sự độc lập là tương đối. Về thẩm

3



quyền xét xử thì tịa án địa phương là cơ quan xét xử chủ yếu của hệ thống tòa
án; Tòa án nhân dân cấp huyện là nơi giải quyết xét xử theo thủ tục sơ thẩm
trên 80% các loại vụ án thuộc thẩm quyền của hệ thống Tòa án nhân dân.
Nhưng cơ sở vật chất, cơ cấu cán bộ lẫn hệ thống pháp luật của hệ thống tòa
án địa phương còn hạn chế và chưa xứng tầm và chưa đáp ứng được yêu cầu
của công cuộc cải cách tư pháp. Mặt khác, Tòa án nhân dân cấp huyện được
tổ chức theo đơn vị hành chính cấp huyện. Vì vậy, hình thành tâm lý coi Tòa
án cấp huyện như đơn vị chức năng thuộc đơn vị hành chính cấp huyện, mặc
nhiên hạ thấp địa vị pháp lý của Tòa án nhân dân cấp huyện và ảnh hưởng đến
tính độc lập tương đối của Tòa án nhân dân cấp huyện. Xuất phát từ phát triển
kinh tế xã hội của các đơn vị hành chính cấp huyện khơng đồng đều, tình hình
dân số, tình hình phát sinh diễn biến tội phạm, tình hình các tranh chấp không
đồng đều giữa các đơn vị hành chính cấp huyện, do đó phát sinh sự khơng
đồng đều số lượng vụ án mà các Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết
xét xử. Có đơn vị Tịa án cấp huyện hàng năm phải giải quyết, xét xử trên
dưới 3000 vụ án các loại (tình trạng quá tải), trong khi đó có Tịa án cấp
huyện hành năm giải quyết xét xử trên dưới 1000 vụ án các loại (huyện miền
núi). Tồn tại, bất cập nêu trên đã và đang diễn ra, ảnh hưởng đến chất lượng
xét xử, nhất là các Tịa án cấp huyện rơi vào tình trạng quá tải.
Ở Toà án nhân dân cấp tỉnh, tồn tại bất cập nổi bật hiện nay là tổ chức
và hoạt động của các Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Số
lượng vụ án cần giải quyết của các tịa chun trách ln khơng đồng đều và
biến động ngay trong Tịa án nhân dân cấp tỉnh, và khơng đồng đều giữa các
Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Do vậy, việc bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ chun
trách nhiều khi rất khó và khơng thể hợp lý.
Đối với Tòa án nhân dân tối cao: Bất cập lớn nhất của Tòa án nhân dân
tối cao hiện nay là tình trạng quá tải về xem xét giải quyết đơn đề nghị theo


4


thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tình trạng này ảnh hưởng đến các hoạt động
khác của Tòa án nhân dân tối cao. Một trong những nguyên nhân của tình
trạng nêu trên là do pháp luật hiện hành quy định về thẩm quyền, và cơ cấu tổ
chức của Tòa án nhân dân tối cao. Điều này thể hiện ở chỗ Tịa án nhân dân
tối cao vừa có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vừa có thẩm quyền
xét xử phúc thẩm, nên phải dàn trải nguồn lực để thực hiện 2 nhiệm vụ này,
trong khi đó khơng thể phân cấp cho Tòa án cấp dưới thực hiện. Về cơ cấu tổ
chức, trong đó có quy định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi
mở phiên họp để xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm phải có ít nhất 2/3 tổng số
thành viên tham gia, quyết định của Hội đồng phải được quá nửa tổng số
thành viên tán thành nghĩa là thành viên Hội đồng Thẩm phán phải tham gia
đầy đủ các phiên họp, mà các thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao đều giữ các chức vụ chủ chốt của Tòa án nhân dân tối cao.
Trong cơ cấu tổ chức các đơn vị giúp việc của Tòa án nhân dân tối cao
hiện nay chủ yếu là giúp việc để lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao điều hành
các hoạt động của ngành Tòa án nhân dân, chưa được tổ chức theo hướng
thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, cần
phải có sự thay đổi để các đơn vị chuyên trách, giúp việc của TAND tối cao
phải được tổ chức để đủ khả năng, điều kiện để thực hiện các nhiệm vụ đó,
đồng thời cũng là đảm bảo cho Lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao điều hành
các hoạt động của ngành Tòa án nhân dân.
Hàng loạt các vấn đề lý luận, thực tiễn về vị trí, vai trị của Tịa án đang
đặt ra cấp thiết cần phải làm rõ và giải quyết như việc bảo vệ các quyền con
người, quyền công dân gắn liền với quyền nhân thân và tài sản; các quyền tự
do, dân chủ của công dân trong một xã hội pháp luật, dựa trên sự công bằng,
bảo vệ cơng lý, tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật gắn với nhu cầu
Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.


5


Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Tịa án trong nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam” là đề tài vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn
cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến vị trí,
vai trò của Tòa án nhân dân chẳng hạn như:
Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, các luận án tiến
sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư pháp Việt Nam liên quan đến
tòa án: Luận án tiến sĩ luật học, Viện nghiên cứu nhà nước pháp luật “Đổi
mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay” của tác giả Lê Thành Dương năm 2002; Luận án tiến sĩ luật học,
Đại học quốc gia Hà Nội “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ
thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền”
của tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết năm 2005; “Một số vấn đề về bộ máy Nhà
nước” của GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao thông vận tải năm 2002;
“Hệ thống các cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”
của tập thể tác giả do GS. TSKH Đào Trí Úc làm chủ biên, Nxb Khoa học xã
hội năm 2002...
Các bài viết cơng bố trên các tạp chí chun ngành luật như: “Những
vấn đề chủ yếu của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam ” của GS. TSKH Lê Cảm - Tạp chí Tịa án nhân
dân số 3 năm 2006; “u cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền đối với
tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp” của tác giả Nguyễn Mạnh
Cường, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 10 năm 2002...
Các nghiên cứu trên đã phân tích, đánh giá ở những mức độ khác nhau
nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Tuy

nhiên, còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trị của Tòa án vẫn

6


chưa được giải quyết một cách có hệ thống trong bối cảnh xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
Một là: Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về vai trị của Tòa án trong nhà
nước pháp quyền.
Hai là: Đánh giá, phân tích thực trạng về vai trị của Tịa án trong việc
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Ba là: Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường vai trò của
Tòa án trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Trong những năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến vị trí,
vai trị của Tịa án nhằm phân tích, đánh giá ở những mức độ khác nhau nhiều
vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án. Tuy nhiên, việc nghiên
cứu phát triển tổng thể liên quan đến lĩnh vực Tồ án vẫn cịn nhiều vấn đề
chưa được giải quyết một cách có hệ thống trong việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Đề tài xem xét, phân tích những điểm mới của vị trí, vai trị của Tịa án
trong xây dựng nhà nước pháp quyền, và điểm chưa phù hợp với thực tiền
nhằm đưa ra nhìn nhận và đánh giá đúng vị trí, vai trị của Tịa án trong việc
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
5. Đối tuợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tòa án trong việc xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Đánh giá khái quát thực trạng những quy định

pháp luật hiện hành và thực trạng thực hiện pháp luật về vai trò của Tòa án
nhân dân trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.

7


6. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
6.1. Nội dung nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về tòa án trong nhà
nước pháp quyền XHCN.
- Phân tích thực trạng vị trí, vai trị của Tòa án trong việc xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vị trí, vai
trị của Tịa án trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
hiện nay.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin
- Các phương pháp khác: Phương pháp phân tích, phương pháp logic,
phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp đối chiếu,
phương pháp so sánh, phương pháp chứng minh…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về Toà án trong Nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng về Toà án trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao vai trị của Tồ án trong
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.


8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÒA ÁN TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1. Nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp
được hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, song chúng ta có thể hiểu
Nhà nước pháp quyền một cách đơn giản đó là một nhà nước quản lý kinh tế xã hội bằng pháp luật và mọi hoạt động của nhà nước đều tuân thủ pháp luật,
coi pháp luật là tiêu chí cho mọi hoạt động của Nhà nước mà ở đó mọi chủ thể
trong xã hội đều phải tuân thủ và thượng tơn pháp luật.
Tư tưởng pháp quyền được hình thành và phát triển dọc theo chiều dài
lịch sử của văn minh nhân loại. Các nội dung, nguyên tắc cơ bản của pháp
quyền đã khơng ngừng được giải thích, bổ sung và hoàn thiện theo từng giai
đoạn và từng thời kỳ lịch sử. Từ thời Hy Lạp cổ đại, tư tưởng pháp quyền đã
xuất hiện, nơi mà nền dân chủ sơ khai bắt đầu được hình thành; Trong giai
đoạn này, các nhà tư tưởng cổ đại không chỉ thuần túy quan tâm tới tính
thượng tơn của pháp luật mà cịn coi pháp quyền như là một phương thức tìm
kiếm sự tổ chức hợp lý của hệ thống quyền lực nhà nước.
Tư tưởng và các học thuyết pháp quyền được tiếp tục bổ sung và phát
triển khi giai cấp tư sản ở các quốc gia phương Tây không ngừng lớn mạnh,
đấu tranh chống lại giai cấp phong kiến và giáo hội, từ đó từng bước giành
ảnh hưởng trên chính trường. Trong thời kỳ này, tư tưởng pháp quyền được
phát triển và hòa quyện vào các học thuyết về phân quyền, chủ nghĩa lập hiến
và dân chủ; Nhiều nhà nghiên cứu lớn đã xuất hiện với vai trò hết sức quan
trọng trong việc bồi đắp và phát triển các học thuyết pháp quyền. Các tên tuổi


9


và tác phẩm trứ danh trong thời kỳ này cần phải kể đến là John Locke với tác
phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”, J.J. Rousseau với tác phẩm “Khế
ước xã hội” và Ch.L. Montesquieu với tác phẩm “Tinh thần pháp luật”. Đặc
điểm nổi bật nhất của tư tưởng pháp quyền trong giai đoạn này là đề cao các
giá trị dân chủ, tự do và quyền con người. J.J. Rousseau đã bắt đầu tác phẩm
của mình với câu nói bất hủ: “Con người được sinh ra một cách tự do, nhưng
khắp nơi lại bị xiềng xích”. Từ đó, các nhà tư tưởng trong giai đoạn này tập
trung tìm kiếm một cơ chế chế ước quyền lực nhà nước, chống lại sự lạm
quyền và xây dựng một mơ hình chính phủ hợp lý nhằm hạn chế việc vi phạm
các quyền con người. Ch.L. Montesquieu với học thuyết tam quyền phân lập
đã được các học giả tư sản phương Tây coi là hòn đá tảng trong việc xây dựng
lý luận tổ chức quyền lực nhà nước tư sản.
Các hướng tiếp cận về pháp quyền trong nền khoa học pháp lý thế giới
là hết sức phong phú, đa dạng, để có thể hiểu được toàn diện khái niệm pháp
quyền trong nền khoa học pháp lý thế giới, chúng ta cần xem xét các học
thuyết pháp quyền trong mối quan hệ biện chứng, liên tục, đan xen, gắn bó và
bổ sung cho nhau. Trong khi hệ thống pháp luật Anh - Mỹ nhấn mạnh pháp
quyền như một sự cơ chế đảm bảo cho sự vận hành hợp lý và hiệu quả của hệ
thống pháp luật nhằm giúp các cá nhân trong xã hội có thể hợp tác và theo
đuổi những kế hoạch phát triển của mình thì các học thuyết pháp quyền của
Đức nhấn mạnh đến nguyên tắc phân chia, phân công quyền lực trong tổ chức
bộ máy nhà nước, củng cố cơ chế tiếp cận công lý và đảm bảo quyền con
người. Hướng tiếp cận về pháp quyền của Trung Quốc, quốc gia có hệ thống
pháp luật XHCN lại thể hiện thái độ thận trọng trên con đường tìm kiếm mơ
hình nhà nước pháp quyền XHCN. Trong khi đó, các tổ chức quốc tế nhấn
mạnh đến tính linh hoạt, tính mở và năng động của khái niệm pháp quyền trên

thế giới tùy thuộc vào đặc điểm cụ thể của hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa, truyền thống, tính cách dân tộc của từng quốc gia.

10


Tư tưởng và học thuyết pháp quyền hiện đại của phương Tây được
truyền bá vào Việt Nam kể từ khi Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập ra nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà, tiến hành cuộc đấu tranh nhằm vạch trần và lên
án chế độ cai trị hà khắc, tàn bạo, phi nhân tính, phi pháp quyền của Chính phủ
Pháp tại thuộc địa Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian dài sau khi giành được
chính quyền, do đất nước rơi vào hoàn cảnh chiến tranh, cộng với những định
kiến sai lầm trong quan niệm về pháp quyền, đồng nhất một cách máy móc nhà
nước pháp quyền với nhà nước tư sản nên các tư tưởng, học thuyết và nguyên
tắc pháp quyền vẫn cịn trong giai đoạn nghiên cứu, tìm tịi, hồn thiện.
Khi bàn về Nhà nước pháp quyền, thì các Nhà khoa học pháp lý trên
thế giới cũng như các nhà khoa học pháp lý của Việt Nam có những quan
điểm khác nhau.
Theo GS.TSKH Đào Trí Úc, thì “Nói đến Nhà nước pháp quyền, trước
hết người ta nói đến sự ngự trị của pháp luật trong đời sống xã hội và chính
trị với tư cách là ý chí của nhân dân, có giá trị phổ biến” [6, tr.11].
Theo PGS.TS Nguyễn Cửu Việt thì, “Nhà nước pháp quyền là Nhà
nước mà trong đó mọi chủ thể (kể cả Nhà nước) đều tuân thủ nghiêm chỉnh,
chịu phục tùng pháp luật-một pháp luật có tính pháp lý cao, phù hợp với lý trí,
thể hiện đầy đủ những giá trị cao cả nhất của xã hội, của con người” [6, tr.11].
Theo PGS.TSKH. Lê Cảm thì:
Nhà nước pháp quyền là tổ chức cơng quyền trong hệ thống
chính trị của xã hội cơng dân (dân sự) được xây dựng trên nền tảng
các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại như: Công bằng, nhân
đạo, dân chủ và pháp chế, nhằm đảm bảo thực sự những giá trị xã hội

được thừa nhận chung của nền văn minh thế giới, sự tôn trọng và bảo
vệ các quyền và tự do của con người, sự ngự trị của pháp luật trong
các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, sự phân công quyền lực (lập
pháp, hành pháp và tư pháp) và chủ quyền của nhân dân [6, tr.11].

11


Quan điểm của các nhà khoa học nói trên đều tiếp cận khái niệm NNPQ
nhưng từ các góc độ khác nhau. Tóm lại rút ra từ các quan điểm trên thì “Nhà
nước pháp quyền là nhà nước ln đề cao vai trò của pháp luật, quản lý xã hội
bằng một hệ thống pháp luật hồn chỉnh và có những cơng cụ hữu hiệu đảm
bảo để pháp luật được thực hiện một cách nghiêm minh trong đời sống xã hội;
mọi tổ chức, cơ quan và mọi cá nhân con người trong xã hội đều phải tôn trọng
và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật. Pháp luật là nguyên tắc cơ bản nhằm tổ
chức thực thi quyền lực nhà nước, tổ chức cuộc sống cộng đồng của toàn xã
hội, điều hoà phối hợp tất cả các hành vi, ứng xử của các thành viên trong cộng
đồng xã hội. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà trong đó một “xã hội cơng
dân” văn minh và dân chủ, ở đó Nhà nước và cơng dân là bình đẳng với nhau,
đều tuân theo pháp luật, dựa trên sự điều chỉnh của pháp luật, là Nhà nước
trong đó các quyền tự do, dân chủ và lợi ích chính đáng của con người phải
được pháp luật bảo vệ và tôn trọng; những hành vi đối xử với nhân dân thể hiện
thái độ lộng quyền, hách dịch và quan liêu của bất kỳ cá nhân có chức vụ hay
tổ chức nào đều bị xử lý, mọi hành vi xâm phạm đến quyền tự do, dân chủ và
những quyền, lợi ích hợp pháp khác của cơng dân đều phải được phát hiện kịp
thời, xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật”.
1.1.2. Nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
Từ năm 1986, thực hiện chính sách đổi mới của Đảng, nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp từng bước được xóa bỏ, yêu cầu xây dựng nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh đã yêu cầu nhà nước Việt Nam phải được
tiếp tục hoàn thiện thể chế, tổ chức để thích ứng tốt hơn với yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội của đất nước. Sau 5 năm thực hiện chính sách đổi mới, tại Hội
nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII ngày 29 tháng 11 năm

12


1991, khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên được đề
cập tới như một mục tiêu cần hướng tới của một xã hội văn minh. Sau một
thời gian dài của quá trình nhận thức, tìm tòi, thể nghiệm, đến năm 2002, yêu
cầu xây dựng “Nhà nước pháp quyền XHCN” mới chính thức trở thành một
nguyên tắc hiến định định hướng cho quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ
máy nhà nước Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ
ngày 12 tháng 01 năm 2011 đến ngày 19 tháng 01 năm 2011. Trên cơ sở tổng
kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 25 năm đổi mới, Đảng đã nghiên cứu và đề ra
các giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới,
tạo nền tảng để đến năm 2010 nước ta cơ bản trở thành nước cơng nghiệp theo
hướng hiện đại. Trong lĩnh vực hồn thiện thể chế bộ máy, Đảng ta nhận định:
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam là một tất yếu khách
quan, công tác xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong thời gian qua đã
đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN còn chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa là xây
dựng một nhà nước với mong muốn dân chủ, nhân đạo và công bằng nhất, là
nhà nước mà nhân dân lao động không chỉ là khách thể của quyền lực nhà
nước mà cịn là chủ thể tối cao của quyền lực đó. Nhà nước pháp quyền Việt

Nam quy định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, pháp luật phải
thực sự bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân và phục vụ nhân dân. Các cơ
quan nhà nước cũng như các tổ chức xã hội và mọi công dân hoạt động trên
cơ sở pháp luật và chịu sự điều chỉnh thống nhất của pháp luật. Đặc biệt mọi
công dân sống trong xã hội phải hiểu biết pháp luật, pháp luật khơng phải của
riêng Nhà nước mà của tồn xã hội, công dân phải biết dùng pháp luật để bảo

13


vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời hiểu biết pháp luật sẽ giúp
cho bản thân ý thức và tuân thủ pháp luật được tốt hơn.
Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền đang được
đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan. Tính tất yếu lịch sử của
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây
dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và trong quá trình
phát triển, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ đã và luôn là một nhà nước
hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy
định của Hiến pháp, pháp luật và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Tồ án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây
dựng trên cơ sở Hiến pháp năm 1946, năm 1959. năm 1980 và năm 1992.
Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở
pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì
vậy, có thể nói, q trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một
quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến
pháp năm 1946, được định hướng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
nhà nước. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ và ngày nay, quá trình này
đang được tiếp tục đẩy mạnh trong thời kỳ đổi mới tồn diện đất nước.
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt

Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu "độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng một chế độ xã hội dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [11, tr.14]. Chúng ta ý
thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như
vậy thì cơng cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác –

14


Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ
đặc điểm của thời đại với xu thế tồn cầu hố. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
sau khi nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
đòi hỏi chúng ta tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước, cải cách
pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước khơng ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải
quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân chủ,
giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một Nhà nước vừa
phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, vừa khẳng
định được bản sắc đặc thù của riêng mình.
Sự khác nhau cơ bản giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam nói riêng, có thể khái qt trên các nét chính sau:
Một là, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng
xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật khách
quan của thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị
trường trong chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Do
vậy, đặc tính của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tạo ra sự khác nhau

giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đồng thời tạo ra nét đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hai là, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối
đại đoàn kết dân tộc. Với khối đại đoàn kết tồn dân tộc, nhà nước pháp
quyền có được cơ sở xã hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ
chức các tầng lớp nhân dân thực hành và phát huy dân chủ.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy không loại bỏ
được sự phân tầng xã hội theo hướng phân hoá giàu nghèo, nhưng có khả

15


năng xử lý tốt hơn công bằng xã hội. Những mâu thuẫn xã hội phát sinh trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do được điều tiết thông qua pháp
luật, chính sách và các cơng cụ khác của nhà nước nên ít có nguy cơ trở thành
các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ xã hội.
Đây là một trong những điều kiện đảm bảo ổn định chính trị, đồn kết các lực
lượng xã hội vì các mục tiêu chung của sự phát triển.
Tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm
quyền tạo khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác và giúp
đỡ lẫn nhau giữa các giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc. Nhờ vậy,
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã
hội, nguồn sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của
các tầng lớp dân cư trong việc nâng cao quyền làm chủ của nhân dân.
Những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
bao gồm những đặc trưng sau:
Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Đây là đặc trưng cơ bản, được ghi nhận trong Hiến pháp của nước
ta và được thể hiện trong các quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động

của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương của các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ
máy nhà nước.
Ba là, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh
các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật

16


thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách
quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật là của
tất cả công dân, không loại trừ đối với bất cứ ai.
Bốn là, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực
hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Mục tiêu cao cả của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền con
người, quyền cơng dân được thể chế hố thành luật và được Nhà nước ta tổ
chức thực hiện có kết quả.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và
thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức
và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là đặc
trưng cơ bản để phân biệt nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước
pháp quyền tư sản chủ nghĩa.
Qua những nội dung trên đây, chúng ta thấy rằng, trong quá trình xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta đã tiếp thu
được những tinh hoa, những giá trị tồn nhân loại. Đó là các chế định pháp lý,
như tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, sự tôn trọng và bảo vệ các
quyền và tự do của con người như những giá trị xã hội cao quý nhất, sự ngự
trị của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội, tính tối cao của pháp
luật trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội.
1.2. Tòa án trong Nhà nước pháp quyền
Trước nhiệm vụ phát triển, bảo vệ đất nước và yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong giai đoạn mới, cùng với cải cách

17


nền hành chính, Đảng ta chủ trương ban hành và thực hiện Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, lấy Tòa án trung tâm, xét xử làm trọng tâm và lấy
tranh tụng làm khâu đột phá; trọng tâm của cải cách tư pháp là bảo đảm cho
nguyên tắc Tòa án độc lập có hiệu lực trên thực tế.
Hiến pháp 2013 đã chỉ rõ: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước
CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [27, Điều 102, Khoản 1]. Vấn
đề đặt ra là: Cần phải bảo đảm những yếu tố nào để Tịa án thực hiện được
quyền tư pháp, đó cũng chính là sự độc lập tư pháp, sự độc lập của Tòa án
trong hoạt động xét xử nhằm thực hiện đúng đắn, đầy đủ quyền tư pháp như
nội dung Hiến định.
Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013 đã quy định rõ hơn các bản Hiến
pháp trước đây về sự độc lập của Thẩm phán: “Thẩm phán, hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can
thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm” [27, tr.18]. Chủ thể Hội
thẩm được đưa ngay vào trong Hiến pháp của nước ta nói lên tính đại diện và
quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử thực hiện quyền tư pháp.

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ:
Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu
kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu
kiện hành chính tại Tịa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân
tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa cơng dân và cơ quan
cơng quyền trước Tịa án [4].
Để Tịa án nhân dân thực hiện đúng đắn quyền tư pháp theo Hiến định, Tịa
án nhân dân khơng chỉ là cơ quan áp dụng pháp luật để trừng trị các hành vi vi
phạm pháp luật của người dân, mà cịn trở thành cơng cụ để người dân bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình trước hành vi vi phạm của các cơ quan công quyền.

18


Bảo đảm cho Tòa án được độc lập, Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng đã
định hướng rõ: “Tổ chức hệ thống Tịa án theo thẩm quyền xét xử, khơng phụ
thuộc vào đơn vị hành chính” [4].
Triển khai thực hiện các nội dung của Nghị quyết số 49-NQ/TW của
Đảng về cải cách tư pháp đến năm 2020; thực hiện các nội dung mới của Hiến
pháp 2013 về các vấn đề liên quan đến Tòa án nhân dân. Tòa án nhân dân tối
cao đang khẩn trương hoàn thiện Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa
đổi) với nội dung kế thừa các quy định trước đây, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với các điều kiện thực tiễn của đất nước, bảo đảm sự độc lập tư pháp, độc lập
của Tòa án, để Tịa án hồn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tuy nhiên, để thống nhất nhận thức trong toàn xã hội về độc lập tư
pháp, độc lập của Tòa án trong thực hiện nhiệm vụ của mình, cần thiết phải
nghiên cứu, phân tích rõ các yếu tố bảo đảm cho sự độc lập tư pháp, độc lập

của Tịa án, trên cơ sở đó xây dựng các thể chế, quy định phù hợp, thuận lợi
trong triển khai thực hiện cơng tác Tịa án.
Với vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nước, Tòa án nhân dân thực hiện
vai trò bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và
quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ
tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Xét một cách
tổng quát, Tòa án nhân dân thực hiện các vai trị cơ bản sau:
- Bảo vệ cơng lý:
Trước yêu cầu hội nhập và sự nghiệp đổi mới của đất nước, cải cách tư
pháp là điều tất yếu trong một xã hội tiến bộ. Những nội dung của cải cách tư
pháp đã tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trong tồn Đảng, trong
hệ thống chính trị và tồn xã hội về chế độ chính trị và quyền lực nhà nước.

19


×