Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận môn Văn hóa nghệ thuật, TÌM HIỂU về NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.29 KB, 22 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN VĂN HĨA NGHỆ THUẬT

TÌM HIỂU VỀ NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ

1


MỤC LỤC
trang
MỞ ĐẦU.................................................................................................2
I. KHÁI QUÁT VỀ NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ...........................3
1. Giới thiệu chung về nhạc Huế..............................................................3
2. Nhạc cung đình....................................................................................5
3. Niên biểu Nhã nhạc cung đình Huế....................................................7
II. GIÁ TRỊ CỦA NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ............................10
1. Giá trị nội dung Tỏa sáng với chức năng xã hội mới - khẳng định
truyền thống văn hóa Việt Nam.......................................................................10
2. Giá trị nghệ thuật của Nhã nhạc cung đình Huế..............................11
III. MỞ RỘNG......................................................................................12
1. Nhà hát Duyệt Thị Đường gắn liền với Nhã nhạc cung đình Huế……..12
2. Nhã nhạc cung đình Huế từ di sản của nhân loại đến thách thức bảo
tồn và giải pháp phát triển ..............................................................................15
KẾT LUẬN………………………………………………………….21
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………..22

MỞ ĐẦU
2


Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc cung đình thời phong kiến,


được biểu diễn vào các dịp lễ hội trong năm của các triều đại nhà Nguyễn Việt Nam. Nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO cơng nhận là kiệt tác
truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003. Theo đánh giá của
UNESCO: “Trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt
tới tầm vóc quốc gia”. Nhã nhạc được phát triển từ thế kỷ XIII ở Việt Nam và
đến thời nhà Nguyễn, Nhã nhạc đạt độ chín muồi và hồn chỉnh nhất. Cùng với
khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, đây là di sản phi vật thể của Việt
Nam được UNESCO chính thức cơng nhận.
Nhã nhạc cung đình Huế là sự kế thừa, kể từ khi những dàn nhạc - trong
đó có nhiều nhạc khí cung đình - xuất hiện dưới dạng tác phẩm chạm nổi trên
bệ đá kê cột chùa thời Lý (thế kỷ XI - XII) đến lúc ơng vua cuối cùng của triều
Nguyễn thối vị vào giữa thế kỷ XX.
I. KHÁI QUÁT VỀ NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ
1. Giới thiệu chung về nhạc Huế
Với bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa, vùng đất sơng Hương
- núi Ngự là nơi hội tụ nhiều dòng nhạc mang đậm bản sắc Huế như dịng nhạc
cung đình bác học, dịng nhạc dân gian, dịng nhạc tín ngưỡng tơn giáo, cùng
với nền tảng thơ văn, mỹ thuật, lễ hội dân gian và làng nghề thủ cơng truyền
thống góp phần làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Huế
xưa và nay. Nhạc Huế mang sắc thái địa phương rõ rệt, nhưng nhạc Huế lại
không phải là một thứ âm nhạc địa phương, dưới các triều đại phong kiến nhà
Nguyễn. Do hoàn cảnh lịch sử, nhạc Huế - qua thành phần nhạc lễ và cung
đình của nó - đã một thời gian khá dài đóng vai trị là "Quốc nhạc" dưới thời
thuộc Pháp. Nhạc Huế vẫn chinh phục được quần chúng hâm mộ rộng rãi,
được sử dụng phổ biến ở các tỉnh phía Bắc và Nam và ở những nơi này, khơng
phải chỉ có vấn đề thưởng thức nhạc Huế như một đặc sản có hương vị lạ từ nơi
khác đem đến, mà người ta còn thấy hiện tượng nhạc Huế thâm nhập vào nhạc
Bắc, ảnh hưởng trở lại làm giàu có thêm cội nguồn miền Bắc, đồng thời khi đi sâu

3



vào Nam, nó lại đã đóng góp những nhân tố quan trọng, từ đó đã nảy sinh và hình
thành cái được xem là phong cách đặc thù của âm nhạc miền Nam.
Nếu nói về gốc gác lịch sử, có lẽ khơng ai phủ nhận nhạc Huế đã khởi sự
hình thành từ cội nguồn nhạc Bắc. Những tư liệu lịch sử từ thời Nguyễn Hoàng
vào xã Ái Tử (Quảng Trị) hay câu chuyện Đào Duy Từ, cho thấy trên đà mở
nước vào phía Nam, văn học nghệ thuật nơi đất Tổ lưu vực sông Hồng đã từ
mấy thế kỷ vượt qua sơng Gianh và Bến Hải. Lại có thể lấy chứng cớ khác
ngay trong bản thân nhạc Huế những “Bản Bắc”, cịn mang một cái tên có ý
nghĩa nữa là những “Bản Ngự”, với tính chất một thành phần cơ sở của nhạc
Huế, đã vừa nói lên cái xuất xứ cũng như mối quan hệ khăng khít với nhạc
Bắc.. Do hồn cảnh địa lý, với những bãi biển, với sông Hương núi Ngự dễ để
con người tức cảnh sinh tình, hay trong cuộc sống lao động và sự sinh tồn, để
giảm bớt những khó khăn vất vả, nhọc nhằn trong lao động sản xuất, những
điệu hị câu ví và các loại hình nghệ thuật dân gian cũng được hình thành và
ngày càng phong phú. Nói cách khác, do những điều kiện kinh tế khắc nghiệt
nhiều hơn là thuận lợi, đã buộc con người, bằng mọi cách, kể cả cách dùng
phương tiện nghệ thuật, vươn lên chống chọi với thiên nhiên, kiếm tìm cuộc
sống ấm no hơn. Do những dấu giọng đặc thù trong tiếng nói, uyển chuyển tinh
vi, những cái “Tiểu dị” thực đáng yêu trong cái “Đại đồng” của tiếng nói chung
dân tộc, hay là do chính ở đây, nơi tiếp xúc với nền văn hóa nghệ thuật, dân tộc
Chăm đã hình thành những âm điệu, giọng điệu, những thể loại mới mẻ so với
cái vốn cổ truyền từ Bắc đem vào, tạo nét đặc trưng riêng cái thường được gọi
là phong cách “Huế”, phong cách “Miền Trung”, hay nói gọn là “Nhạc Huế”.
Ngày nay dưới con mắt những người đang tìm hiểu và nghiên cứu âm nhạc
truyền thống, tạm cách ly khỏi mọi ảnh hưởng của “Tân nhạc” đã lan tràn và phổ
biến rộng khắp từ phong trào “Cải cách”, “Nhạc Huế” với tư cách một bộ phận
của truyền thống đó thường được xem như gồm ba thành phần chính yếu:
+ Nhạc Lễ (bao gồm cả nhạc Cung đình và nhạc Rõi bóng)
+ Dân ca (bao gồm các điệu hò, lý, kể vè...)

+ Ca Huế
4


2. Nhạc cung đình
Nhạc Cung đình là một bộ mơn âm nhạc truyền thống đặc sắc của Việt
Nam, đặc biệt Nhã Nhạc Huế đã có giá trị rất cao về phương diện lịch sử lẫn
nghệ thuật. Tuy được sử dụng ở chốn cung đình, nhưng việc sáng tạo và biểu
diễn hầu hết đều do nhữn nhạc sĩ, nghệ sĩ xuất thân từ trong dân gian, nhờ có
tay nghề cao mà được sung vào cung để phục vụ cho triều đình Đây là một bộ
môn âm nhạc vô cùng tinh vi mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa nhận thức
được đầy đủ giá trị của nó. Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, Nhạc cung đình là
một bộ mơn duy nhất được ghi vào sử sách từ xa xưa, trải qua bao thăng trầm
của các triều đại, bao biến thiên của thời cuộc mà vẫn còn lưu lại được một di
sản đáng kể có thể sử dụng để nghiên cứu về nhiều mặt: nhạc khí đa dạng, sắp
xếp dàn nhạc tinh vi, nhạc ngữ độc đáo, bài bản dồi dào và quan điểm thẩm mỹ
sâu sắc.
Trong Khâm định Đại Thanh Hội điển sử lệ ( quển 538, tờ 3b) xuất bản
năm 1908 ( thư viện Hội châu Á: Socété Asatique) có ghi rành rẽ chi tiết của
dàn nhạc cung đình, có mặt cùng một lúc với phái đồn hữu nghị do vua Quang
Trung phái sang Trung Quốc, dưới thời vua Càn Long (1789), sử gia nhà
Thanh đã gọi là An Nam Quốc nhạc. Năm 1802, dàn nhạc đổi tên là Việt Nam
Quốc nhạc, vì vị vua Gia Long lên ngơi năm 1802, đặt tên nước là Việt Nam.
Ngược dòng thời gian, đã có một dàn Đại nhạc cung đình đầu tiên xuất
hiện trong sử sách, có lẽ là vào đời nhà Trần, trong quyển “An Nam chí lược”
của Lê Tắc. Đời Hậu Lê, có nhiều bộ sử ghi lại sự kiện năm Thiệu Bình thứ tư(
1437) dưới thời vua Lê Thái Tông (1434-1442), nhà vua giao cho Nguyễn Trãi
cùng với Lương Đăng có nhiệm vụ định ra Nhã nhạc cho triều đình. Lương
Đăng muốn sắp đặt dàn Đường thượng chi nhạc giống như dàn nhạc Triều hạ
yến hưởng chi nhạc của nhà Minh và Đường Hạ chi nhạc giống như các dàn

Đơn bệ đại nhạc và Giáo phường ty nữ nhạc của nhà Minh. Theo Đại Việt sử
ký toàn thư và Ức trai thi tập thì Nguyễn Trãi đã dâng biểu cho nhà vua từ chối
nhiệm vụ được giao phó vì khơng tán thành quan điểm của Lương Đăng. Bức
thư của Nguyễn Trãi là bài học quý giá về thái độ của một người nhạc sĩ chân
5


chính đối với nền âm nhạc dân tộc, trong đó có những suy tư về âm nhạc rất
sâu sắc như:
Hồ bình là gốc của nhạc, thanh âm là căn của nhạc, hài hịa là tính chất
của nhạc. Thần mong rằng Bệ hạ thương dân để cho trong cả nước không có
một âm thanh nào nói lên sự bất bình hay buồn thảm của dân. Nếu dân còn
buồn thảm hay bất bình tức là Bệ hạ đã đánh mất một cái gốc của nhạc. Ngồi
ra cịn nhiều quyển sử khác có ghi đơi nét về Nhạc cung đình qua các thời, như
Quốc triều thông lễ (triều vua Trần Thái Tông), Trần triều đại diễn (triều vua
Trần Dụ Tông), Lê triều hội điển, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy
Chú, Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ...Những bài thuộc loại Cửu tấu,
ngồi âm nhạc cịn có lời ca được ghi đầy đủ trong quyển Đại nam Hội điển sự
lệ, như trong Miếu Triệu Tổ (miếu thờ Nguyễn Kim), tên các bài ca phải có
chữ Hịa, chẳng hạn Hàm hịa (trong lúc nghinh thần), Gia hòa (lúc hiến lụa),
Tương hòa (trong lúc sơ hiến, dâng rượu lần đầu), Dự hòa (trong lúc á hiến,
dâng rượu lần thứ nhì), Ninh hịa (trong lúc chung hiếnm dâng rượu lần cuối
cùng), Mỹ hòa (lúc dâng trà). Túc hòa (lúc triệt hạ các lễ vật), An hòa (lúc tiễn
thần), ưng hòa (lúc mang đuốc đi, sau khi đốt sớ). Trong Văn miếu thờ Đức
Khổng tử thì tên những bài hát phải có chữ Văn, trong loại Yến nhạc tên bài hát
phải có chữ Thành (dưới triều Gia Long), chữ Khánh (thời Minh Mạng thứ 18)
hay chữ Phúc (thời Minh Mạng thứ 21),..
So với các bộ mơn khác, Nhạc cung đình có một giá trị nghệ thuật rất cao
mà trước tiên là vì triều đình có đủ quyền lực chính trị và khả năng tài chính để
quy tụ những nhạc sĩ cũng như nhạc cơng tài năng từ khắp nơi trong đất nước,

rồi tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho họ luyện tập kỹ thuật, trau dồi nghệ thuật
để trở thành những nghệ sĩ chuyên nghiệp, sáng tác dồi dào, biểu diễn tinh vi.
Các nhạc khí được dùng trong Nhạc cung đình cũng được chế tạo rất kỹ, chạm
cẩn khéo léo, tinh xảo hơn nhạc khí dùng trong dân gian, lại có đầy đủ màu âm:
tiếng kim, tiếng thổ, tiếng trong, tiếng đục, tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng tơ,
tiếng trúc, tiếng da, tiếng đá (khánh), tiếng đồng. Về độ cao có tiếng trầm của
dây đài đàn tỳ bà, tiếng cao vút vi vu của tiếng sáo.
6


Nhìn chung, dàn nhạc cũng đa dạng và quy mơ hơn các dàn nhạc khác,
chẳng những đa dạng và quy mơ mà cịn rất đặc biệt trong sự phối hợp màu
âm, không quan tâm đến số lượng, mà chú trọng đến chất lượng. Khi hịa dàn
thì khơng nhạc khí nào có thể át các nhạc khí khác mà mỗi loại âm thanh đèu
có thể phân biệt rõ ràng lại khơng có bộ mơn nào huy động nhiều diễn viên và
xiêm y phong phú như nhạc cung đình. Nhạc cung đình còn đặc biệt ở điểm
bao gồm tất cả các bộ môn âm nhạc khác, từ Lễ nhạc (dùng vào các cuộc tế lễ
lớn nhỏ của cung đình, trong các chùa miếu), nhạc thính phịng, sân khấu, kể cả
các cũ điệu, nà mỗi bộ mơn đều có những nghệ sĩ thượng thặng chuyên sáng
tạo và biểu diễn.
3. Niên biểu Nhã nhạc cung đình Huế
3.1 Thế kỉ XVII - XVIII ở Phú Xuân và Đàng Trong (1558 - 1777)
Từ những năm 30 của thế kỉ XVII, nhà văn hóa lớn Đào Duy Từ (tác giả
của Hổ trướng khu cơ, Tư Dung vãn, Ngọa Long cương vãn, của hai lũy
Trường Dục và lũy Nhật Lệ (Lũy Thầy), tương truyền là tác giả của một số bài
hát, điệu múa và vở hát bội cung đình thời các chúa Nguyễn, ơng tổ lớn nhất
của âm nhạc Huế và hát bội Huế được thờ tại nhà thờ Thanh Bình ở Huế (1572
- 1634) đã tiếp thu nhạc Đàng Ngoài, và đã giúp chúa Nguyễn Phúc Nguyên
(1623 - 1634) lập ra một hệ thống lễ nhạc, triều nhạc mới. Hòa thanh thự của
các chúa là tổ chức âm nhạc cung đình lớn của Đàng Trong gồm ban nhạc, đội

ca, đội múa đông đảo (Đại Nam thực lục tiên biên). Cuối thế kỉ XVII - đầu thế
kỉ XVIII, nhạc cung đình Đàng Trong đã khá hồn chỉnh, phong phú, hấp dẫn,
theo những ghi chép và đánh giá của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán,
thượng khách của chúa Nguyễn Phúc Chu (1692 - 1725) sau chuyến đi thăm
Đàng Trong và Phú Xuân của ông. Được mời xem ca múa nhạc và hát bội tại
phủ chúa, nhà sư cho biết điệu múa nổi tiếng thời đó là điệu múa Thái liên diễn
tả dáng dấp đài các, trang nhã, tình tứ của các cô “tiểu hầu” của đô thành Phú
Xuân vừa chèo thuyền vừa tươi cười hái sen. Các ca nhi vũ nữ ấy “đội mão
vàng, áo hoa xanh dài phết đất, thoa son dồi phấn rất mực diễm lệ, làm nao
lòng người xem”.
7


3.2 Cuối thế kỉ XVIII thời Tây Sơn (1788 - 1802)
Năm 1790, tức một năm sau khi đại thắng Đống Đa ở Thăng
Long, một vua Quang Trung cầm đầu một đồn ngoại giao sang triều đình nhà
Thanh, cầu hịa và chúc thọ hoàng đế Càn Long 80 tuổi. Càn Long ý phong cho
vua Đại Việt là “An Nam quốc vương” và vui lịng thưởng thức đồn “An Nam
quốc nhạc” biểu diễn chúc thọ. Nhờ những ghi chép cụ thể của Đại Thanh hội
điển sự lệ và tập văn kiện ngoại giao Đại Việt quốc thư mà âm nhạc cung đình
thời Tây Sơn hiện ra khá rõ nét. Hội điển triều Thanh đã mơ tả chính xác trang
phục các nhạc cơng, ca công và vũ công người Việt. Nghệ nhân cung đình Tây
Sơn chơi 8 loại nhạc khí mà Hội điển triều Thanh đã ghi lại bằng chữ nôm:
“Một cái cổ (kai kou: trống), một cái phách (kai p'o), hai cái sáo (kai chao),
một cái đàn huyền tử (kai t'an hien tse, có thể là đàn tam), một cái đàn hồ cầm
(kai t'an hou k'in), một cái đàn song vận (kai t'an choang wen, có thể là đàn
nguyệt) một cái đàn tỳ bà (kai t'an p'i p'a), một cái tam âm la (kai san in lo). Đó
là phần nhạc khí. Về phần hát, Đại Việt quốc thư cho biết bổ sung như sau:
nhân dịp lễ thượng thọ của Càn Long 80 tuổi, đồn quốc nhạc của ta gồm 6
nhạc cơng và 6 ca cơng cung đình đã biểu diễn cho hồng đế nhà Thanh nghe

“Nhạc phủ từ khúc thập điệu”.
3.3 Thế kỉ XIX Thời thịnh của triều Nguyễn (1802 - 1885)
Theo những tài liệu tham khảo hiện có, thời kỳ vàng son của âm nhạc
cung đình Đại Việt - Việt Nam - Đại Nam là thịnh thời triều Nguyễn trước khi
kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ vào năm 1885. Hai tài liệu chủ yếu là Lịch
triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (đầu thế kỉ XIX) và Khâm định
Đại Nam hội điển sự lệ của Quốc sử quán (giữa thế kỉ XIX) cho biết: Từ sau
khi Gia Long lên ngôi đến khi Tự Đức mất (1883) âm nhạc cung đình Phú
Xuân bây giờ quen gọi là Nhã nhạc cung đình Huế đã được phục hồi, chấn
chỉnh và phát triển mạnh. Các loại Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại
triều nhạc, Thường triều nhạc, Yến nhạc, Cung trung chi nhạc đã ảnh hưởng
qua lại nhiều với nhạc cổ điển thính phịng (ca Huế, đờn Huế) và nhạc tuống cổ
điển, cung đình (thanh nhạc và nhạc múa của hát bội Huế). Đáng chú ý là nhiều
8


nhà hát rạp hát lớn nhỏ của vua, đại thần và dân thường được xây dựng làm nơi
biểu diễn nhạc cung đình, nhạc cổ điển, hát bội hay nhạc dân gian: Duyệt thị
đường trong hoàng thành, Minh Khiêm đường trong lăng Tự Đức, Cửu tư đài
trong cung Ninh Thọ, rạp hát ơng Hồng Mười, nhà hát Mai Viên tại tư dinh
thượng thư Đào Tấn, đã không loại trừ sự tấp nập của những rạp hát ông Sáu
Ớt (Nguyễn Nhơn Từ), rạp hát gia đình họ Đồn (ở An Cựu), rạp hát bà Tuần
(tồn tại đến 1975),... 1802 - 1819: Thời Gia Long một tổ chức âm nhạc cung
đình lớn được thành lập với 200 nghệ nhân. Vua lại cho dựng đài Thông minh,
một sân khấu ca múa nhạc và hát bội trong cung Ninh Thọ. 1820 - 1840: Minh
Mạng cho xây dựng Nhà hát lớn Duyệt thị đường (1824), đổi Việt tương đội
thành Thanh bình thự, lập thêm một Đội nữ nhạc với 50 ca nữ, vũ nữ, lại cho
xây dựng Nhà thờ các tổ sư nghệ thuật âm nhạc và hát bội Huế: Thanh bình từ
đường (1825). Trước nhà thờ dựng một tấm bia, một sân khấu hát bội và ca vũ
nhạc. Văn bia cho biết vào đời Minh Mạng, nghệ thuật âm nhạc và sân khấu đã

phát triển tốt đẹp: Vũ đài xuân rạng hàng ngũ chỉnh tề, sân khấu mây lồng âm
thanh dìu dặt Khánh chng ra lệnh xướng hòa, kèn trống nhịp nhàng đánh thổi
Trải mấy triều vương đều khuyến khích, Biết bao âm nhạc thảy dồi dào Giữa
điện đình ca múa, tỏ điềm thái vận nước nhà; Trên lăng miếu xướng hòa,
ngưỡng đức cao thâm biển núi...
1841 - 1883: Đời Tự Đức, âm nhạc cổ điển, nhã nhạc cung đình và hát
bội cung đình đạt tới đỉnh cao. Nhà hát Minh khiêm đường được xây dựng
(1864) trong Khiêm cung (sau khi vua mất sẽ gọi là Khiêm lăng). Tương
truyền chính Tự Đức đã sáng tác bản nhạc Tứ đại cảnh nổi tiếng. Say mê thơ,
nhạc và hát bội hơn chính trị, vua lập nên Hiệu thơ phịng để cùng các danh
nho trong triều đình xướng họa thơ văn, thưởng thức âm nhạc, sáng tác hay
nhuận sắc các vở hát bội. Nhà thơ và nhà soạn tuồng lỗi lạc thời Tự Đức là Đào
Tấn (1845 - 1907).
3.4 Thế kỉ XIX Thời suy của triều Nguyễn (1885 - 1945)
1858 - 1885 Thực dân Pháp gây hấn và bắt đầu xâm lược nước ta từ Đà
Nẵng, rồi chiếm dần Nam Bộ, Bắc Bộ. Tháng 8 năm 1885 kinh đô Phú Xuân
9


(Huế) thất thủ. Các vua Nguyễn sau Tự Đức đều được Pháp đưa ra làm vì, mất
hết quyền bính. Đời sống cung đình tẻ nhạt, âm nhạc cung đình ngày càng sa
sút. 1889 - 1925 Thành Thái lập Võ can đội, rồi thêm một đội Đồng ấu (nghệ
nhân thiếu niên, làm dự bị cho Võ can đội). Tất cả đều hoạt động cầm chừng.
Nhiều bài nghiên cứu có giá trị về nhạc Huế được công bố trên tập san, nổi bật
nhất là cơng trình của nhạc sĩ cổ điển Hồng Yến (1919) Âm nhạc ở Huế, đàn
nguyệt và tranh 1925 - 1945 Dưới thời Bảo Đại, Võ can đội đổi thành Ba vũ
đội gồm cả một đội Đại nhạc và một đội Tiểu nhạc tổng cộng khoảng 100 nghệ
nhân hoạt động rời rạc, trong lúc chờ đợi làm nhiệm vụ chính tham gia phục vụ
lễ Tế Nam giao. Năm 1942 là năm cuối cùng triều Nguyễn cử hành lễ Tế Nam
giao, cũng là lần cuối cùng Nhã nhạc cung đình Huế được biểu diễn trọng thể

trước công chúng. Ngày 31 tháng 8 năm 1945, trên Ngọ Mơn, hồng đế cuối
cùng của triều Nguyễn vương quốc Đại Nam thoái vị. Nhã nhạc cung đình Huế
tạm thời rã đám.
II. GIÁ TRỊ CỦA NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ
1. Giá trị nội dung
Tỏa sáng với chức năng xã hội mới - khẳng định truyền thống văn hóa
Việt Nam. Trung tuần tháng 8/2002, bộ hồ sơ Nhã nhạc đã được Trung tâm bảo
tồn di tích cố đơ Huế thực hiện và Chính phủ đã ký quyết định gửi đến
UNESCO đăng ký ứng cử vào Danh mục Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu
nhân loại. Hồ sơ Nhã nhạc bao gồm: trên 100 trang (hồ sơ viết), gần 100 trang
phụ lục, trên 50 ảnh tư liệu và hiện trạng, phim slide, băng hình thuyết minh
(10 phút), băng hình minh họa (70 phút), cùng nhiều tài liệu liên quan khác. Hồ
sơ đã khẳng định Nhã nhạc là loại hình âm nhạc cung đình đạt đỉnh cao vào thế
kỷ 19 ở Việt Nam, Huế là trung tâm hội tụ và lan tỏa các giá trị này. Với các
giá trị của không gian, bối cảnh, các kỹ năng kỹ thuật, cách thức diễn xướng,
trình tấu, vị thế mang tính chất khẳng định bản sắc văn hóa thực trạng của cơng
cuộc bảo tồn và chương trình hành động... Ngày 7/11/2003, Nhã nhạc - Nhạc
Cung đình Việt Nam đã được UNESCO công nhận là kiệt tác phi vật thể và
truyền khẩu của nhân loại cùng với 27 kiệt tác khác của Châu Á; Châu Mỹ La
10


tinh, vùng Caribê; Châu Âu; Châu Phi; vùng Trung Đông , Đa quốc gia. Với
những giá trị nổi bật, Nhã nhạc - Nhạc Cung đình Việt Nam, bằng tất cả những gì
cịn lại ở Huế chắc chắn sẽ tiếp tục được giữ gìn và bảo tồn một cách hiệu quả,
góp phần cùng với các loại hình di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam
khẳng định vị thế của một dân tộc, một quốc gia trong khu vực và thế giới.
2. Giá trị nghệ thuật của Nhã nhạc cung đình Huế
Tại Việt Nam, âm nhạc dân gian phát triển khá phong phú ở cả ba miền.
Nền âm nhạc dân gian ấy gắn liền với đời sống con người từ lúc sơ sinh đến

khi trưởng thành và lúc lìa bỏ cõi trần. Con người ngay từ khi mới được sinh ra
cho đến khi trở về với cát bụi luôn gắn liền với những bài đồng dao, hát ru, hò,
lý, ca trù, ca Huế, bài chòi, ca tài tử… Tuy nhiên, theo GS Trần Văn Khê,
“Nhạc cung đình chỉ có ở miền Trung, và đặc biệt tại Huế mới cịn có di tích
của bộ mơn âm nhạc độc đáo, tinh vi mà chúng ta đến ngày nay chưa nhận thấy
được hết cái giá trị của bộ mơn đó”.
Cũng theo GS Trần Văn Khê thì nhã nhạc cung đình Huế cịn có giá trị
rất độc đáo ở chỗ “chẳng có bộ môn âm nhạc nào được ghi vào sử sách Việt
Nam từ xưa đến giờ, trải qua bao nhiêu thăng trầm của các triều đại, biến cố
trong đất nước, vẫn cịn lưu lại được một di sản đáng kể, có thể dùng làm
những bài học cho chúng ta về nhiều mặt nhạc khí đa dạng, sắp xếp dàn nhạc
tinh vi, nhạc ngữ độc đáo, bài bản phong phú và quan điểm thẩm mỹ rất sâu
sắc” Nhã nhạc cung đình Huế có một giá trị nghệ thuật rất cao, mà theo giải
thích của GS Trần Văn Khê là: “Nhạc khí dùng trong nhạc cung đình rất đẹp
trong hình thức, đóng ráp kỹ, chạm trổ khéo, đầy đủ màu âm, có tiếng kim,
tiếng thổ, tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng đồng, tiếng đá, tiếng da, tiếng mộc. Dàn
nhạc đa dạng: Đại nhạc gồm đại hồng chung, trống đại, trống võ, bồng, mõ,
thanh la, chập chõa, sinh tiền, kèn, nhị; tiểu nhạc (hay nhã nhạc) có đàn dây tơ:
đàn nguyệt (2 dây), đàn tam (3 dây), tỳ bà (4 dây), đàn nhị (2 dây có cung kéo);
có hai sáo trúc, trống bảng một mặt, 3 thanh la nhỏ, sinh tiền”.
Cũng theo nhà nghiên cứu âm nhạc Trần Văn Khê thì “Trong dàn Nhã
nhạc ta có thể nghe tiếng chững chạc trang nghiêm của đàn nguyệt, tiếng
11


chuyền tiếng rơi vào nhịp nhịp ngoại, tiếng chầy, tiếng phi bay bướm của tỳ bà,
tiếng trong nhờ nhạc công đàn nhị dùng tay mặt kéo cung, tay trái vuốt ve “nên
lời dịu ngọt”, tiếng đục của đàn tam đem tiếng thổ chen vào tiếng kim của tam
âm la, với tiếng nỉ non vi vút “như tiếng hạc bay qua” của hai ống sáo, tất cả
nhạc khí ấy cùng theo nhịp do tiếng trống bảng dìu dắt, tiếng trống khi khoan

khi nhặt, khi đánh nhịp chánh diện khi vào nội phách khi ra ngoại phách, toàn
bộ dàn Nhã nhạc, liên tục trong 10 bài Ngự, từ nhịp điệu khoan thai của mấy
bản Phấm Tuyết, Nguyên Tiêu lúc mở đầu, lần lần dồn dập qua các bài Hồ
Quảng, Liên Hồn, Bình Bán, Tây Mai, Kim Tiền, rộn rã từ Xuân Phong, Long
Hổ đi đến náo nhiệt qua cấp điệu như tiếng vó ngựa trong bài Tẩu Mã”. Từ hơn
90 năm trước - năm 1918, khi chứng kiến lễ Tế Giao diễn ra trong hai ngày 12
và 13 tháng 2 âm lịch, nhà báo Phạm Quỳnh trong bút ký “Mười ngày ở Huế”
đã ghi lại cảm xúc của mình: “Ngồi sân phường ca hát ca khúc An thành, vừa
múa, vừa hát.
Đương đêm hơn một trăm con người đồng thanh hát ca, nghe rất cảm
động, tưởng thấu đến tận trời cao đất thẳm, cái tấm lòng thành của cả một dân
tộc, một nước”, “Cảnh giao đàn ban đêm như cảnh trong mộng, đèn thắp sáng
trong đàn thành từng dãy dọc, dãy ngang, trông xa như một chữ Triện lớn viết
bằng những nét chấm sáng mà treo lưng chừng trời. Tiếng đàn, tiếng sáo thì
như nước chảy, suối reo, tiếng hát như tiếng thiên thần…”. Với những giá trị về
nhiều mặt và rất đặc trưng của loại hình nhã nhạc của Việt Nam, ngày
7.11.2003 tại Paris, ông Koichiro Matsura - Tổng Giám đốc UNESCO - tuyên
bố: Nhã nhạc cung đình Huế (cùng với 27 kiệt tác của các quốc gia khác) được
công nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.
III. MỞ RỘNG
1. Nhà hát Duyệt Thị Đường gắn liền với Nhã nhạc cung đình Huế
Duyệt Thị Đường được xem là nhà hát cổ nhất Việt Nam, được xây dựng
vào năm 1826 - năm Minh Mạng thứ 7, hiện đã được trùng tu và đang được sử
dụng để biểu diễn nhã nhạc cung đình Huế phục vụ du khách. Trong khuôn
viên nhà hát Duyệt Thị Đường, trước đây được dùng để trồng các loại cây
12


thuốc nam quý hiếm dành cho vua và hoàng gia. Bên hữu và bên tả của Duyệt
Thị Đường là nơi dùng để sao chế thuốc chữa bệnh và làm nơi chế biến các

món ăn phục vụ nhà vua và hồng gia. Vật liệu xây dựng nhà hát Duyệt Thị
Đường đều bằng gỗ lim. Nhà hát có chiều cao 12m, gồm hai tầng. Đây là một
tịa nhà bằng gỗ, lợp ngói lưu ly, bốn gian hai chái, tọa lạc trong một khn
viên hình vng có tường bao quanh. Trần nhà của nhà hát Duyệt Thị Đường
được chạm nổi cảnh trăng, sao, các vì tinh tú, mặt trời - biểu hiện của vũ trụ thu
nhỏ. Phía vách gỗ bên ngồi nhà hát được khắc hình rồng, phụng và nhiều loại
hoa văn khác. Sân khấu của nhà hát có hình vng, nằm ngay chính giữa nhà
hát. Vị trí của vua ngồi xem hát ở lầu hai, ngay chính giữa, dưới một vịm trần
nhà có chạm khắc nhiều loại hoa văn cổ. Hai bên trái và phải của tầng hai là
nơi dành cho quốc khách. Cịn các quan của triều đình thì ngồi trên trường kỷ
đặt hai bên tả và hữu của sân khấu ở tầng dưới. Sâu khấu có ba mặt: mặt sau là
hậu trường; hai mặt hai bên là phòng dành cho các diễn viên hóa trang, thay
trang phục.
Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, năm 1897, một người Pháp có tên
là F.Baille đã mô tả một buổi vua vào xem hát ở Duyệt Thị Đường: “Đức vua
ngự trên long ỷ thì dàn nhạc giáo đầu gồm hai mươi nhạc sỹ ngồi xổm đánh
trống, gảy đàn, thổi kèn…Trước mặt họ có một cái trống lớn… Một vị quan
ngồi sau trống. Mỗi khi nghệ sĩ khéo trình diễn thì ơng đánh hai hay ba tiếng
trống, mỗi tiếng tiêu biểu một số tiền biếu tặng diễn viên…”. Qua thời gian,
nhà hát Duyệt Thị Đường đã bị xuống cấp nặng nề. Do vậy, nó đã được trùng
tu, sửa chữa nhiều lần. Dưới thời các vua Nguyễn, Duyệt Thị Đường cũng đã
được tu bổ. Đến năm 1962, khi chính quyền Sài Gịn cải tạo và sửa chữa nhà
hát Duyệt Thị Đường để làm cơ sở giảng dạy của Trường quốc gia Âm nhạc
Huế thì các cơng trình xung quanh nhà hát gần như bị triệt hạ hoàn toàn (để
xây cấy cơ sở dành cho giáo viên và sinh viên), cấu trúc của nàh hát đã bị biến
dạng gần như hoàn toàn. Từ 1992, được sự trợ giúp của Chính phủ Việt Nam
và một số doanh nghiệp của nước ngoài, nhà hát cổ nhất Việt Nam Duyệt Thị
Đường đã được khôi phục bằng công tác trùng tu, sửa chữa, để chính thức mở
13



cửa đón du khách vào ngày 1.1.2003. Hiện tại, bởi nhiều lý do, một số vị trí
thuộc khu vực biểu diễn và khu dành cho khán giả đã bị thay đổi, mà theo lý
giải của cơ quan chủ quản là “Nhằm phục vụ nhu cầu của đông đảo quần chúng
và khách tham quan du lịch đến thưởng thức nghệ thuật tại nhà hát”.
Theo Trung tâm Bảo tồn di tích cố đơ Huế thì hiện tại, có ba loại hình
nghệ thuật được biểu diễn trong nhà hát Duyệt Thị Đường là nhã nhạc, múa
cung đình và tuồng cung đình. Tuy nhã nhạc được hiểu là đồng nghĩa với nhạc
lễ cung đình và nó bao hàm tất cả các tổ chức dàn nhạc lễ nhưng nhã nhạc hiện
tồn tại dưới hai tổ chức dàn nhạc cơ bản là đại nhạc và tiểu nhạc. Trong đó, đại
nhạc là dàn nhạc diễn tấu với những trình thức quan trọng nhất trong các buổi
lễ, và thường diễn ra tại những lễ tế quan trọng như tế Nam Giao, tế miếu, đại
triều… Đại nhạc được xem là dàn nhạc quan trọng nhất trong hệ thống nhạc lễ
cung đình. Trong khi đó, nếu đại nhạc là hoạt động âm nhạc rất trang trọng thì
các bài bản âm nhạc của hệ thống tiểu nhạc lại mang màu sắc trang nhã, vui
nhộn và tương đối ổn định; thường được diễn ra trong những buổi yến tiệc của
vua và hoàng gia, trong dịp tết và trong các dịp tiếp quốc khách. Chất liệu âm
nhạc của tiểu nhạc khá ổn định và dễ đi vào lịng người bởi nó khơng q trang
nghiêm hoặc quá sầu bi như đại nhạc.
Cùng với nhã nhạc (hai hình thức đại nhạc và tiểu nhạc), múa cung đình
cũng là một loại hình nghệ thuật được biểu diễn tại nhà hát Duyệt Thị Đường
từ xưa nay. Múa cung đình có nguồn gốc từ rất lâu đời ở Việt Nam, bắt nguồn
từ các điệu múa truyền thống trong dân gian, được chọn lọc, phát triển và nâng
cao theo các quy phạm nghệ thuật chặt chẽ và nghiêm trang để trở thành loại
hình (múa) dành cho hồng tộc. Múa cung đình triều Nguyễn được xem là loại
hình nghệ thuật gắn liền với nhạc cung đình; được tiếp thu từ các điệu múa
cung đình các triều đại trước, từ các điệu múa dân gian và sau đó được nâng
cao bằng ý thức sáng tạo của nghệ nhân để trở thành loại hình nghệ thuật đặc
trưng của triều Nguyễn. Hiện tại, nhà hát Duyệt Thị Đường đang phục vụ du
khách các điệu múa cung đình triều Nguyễn như Bát dật, Lục cúng hoa đăng,

Trình tường tập khách, Tứ linh, Nữ tướng xuất quân, Vũ phiến, Tam quốc Tây
14


du, Lục triệt hoa mã đăng…; và đang nghiên cứu phục hồi các điệu Tam tinh
chúc thọ, Bát tiên hiến thọ… Loại hình nghệ thuật thứ ba đang được biểu diễn
tại nhà hát Duyệt Thị Đường nữa là tuồng cung đình. Tuồng, hay cịn gọi là hát
bội, là bộ mơn nghệ thuật truyền thống xuất hiện ở Việt Nam vào thời nhà Trần
(1225 - 1400). Đến thời Nguyễn, tuồng đã đươc phát triển một cách rực rỡ và
một bộ phận của loại hình nghệ thuật này đã trở thành “tuồng cung đình” dành
riêng cho vua và hồng gia. Có thể nói, tuồng cung đình Huế là một hiện tượng
đặc biệt - hiện tượng phát tích khá rực rỡ trong truyền thống kịch hát của dân
tộc. Nói cách khác, tuồng vốn mang tính dân gian trước đó đã được nâng lên
thành một bộ mơn nghệ thuật hồn thiện có tính bác học cả về kịch bản cũng
như biểu diễn dưới triều đại nhà Nguyễn, đặc biệt là thời Tự Đức, và trở thành
“quốc kịch”. Tuồng cung đình có rất nhiều vở, trong đó đáng kể là các vở (tiêu
biểu): Sơn hậu, Dương chấn tử, Tam nữ đồ vương, Hồ thạch phủ, Lý phụng
đình, Giác oan, Đào phi phụng, Phụng kinh văn…Sự ra đời và phát triển của
nhà hát Duyệt Thị Đường cho thấy đây chính là cái nơi để nhiều loại hình nghệ
thuật cổ của người Việt đạt đến đỉnh cao nghệ thuật, làm nên những viên ngọc
sáng giá của dân tộc.
2. Nhã nhạc cung đình Huế từ di sản của nhân loại đến thách thức
bảo tồn và giải pháp phát triển
2.1 Nhã nhạc cung đình Huế - di sản của nhân loại
Nhã nhạc là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến, khởi nguồn
dưới triều nhà Hồ (1400 - 1407) và cực thịnh vào thời Nguyễn (1802 - 1945).
Đây là loại hình âm nhạc thiêng liêng, chỉ dùng trong các dịp đại lễ trang trọng
của triều đình và những cuộc cúng tế thần linh, tổ tiên của triều đại. Theo đánh
giá của UNESCO, trong các thể loại nhạc cổ truyền Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc
đạt tới tầm vóc quốc gia. Nghệ thuật Nhã nhạc cung đình Huế đã đâm chồi nảy

lộc từ sự quan tâm của những người yêu loại hình nghệ thuật này và nguồn tài
trợ từ các tổ chức quốc tế. Tính đến năm 2003, khi UNESCO cơng nhận Nhã
nhạc là Di sản văn hố phi vật thể của nhân loại thì bộ mơn nghệ thuật này đã
có lịch sử hơn nửa thế kỷ gìn giữ và bảo tồn. Đầu tiên phải kể đến đức Từ
15


Cung - thân mẫu của vua Bảo Đại. Sau năm 1945, bà đứng ra bảo trợ và duy trì
đội Nhã nhạc cung đình dưới biên chế của đồn Ba Vũ cổ nhạc. Đồn tồn tại
cho đến năm 1975 thì tan rã. Các nhạc cơng của đồn mỗi người mỗi ngả, làm
nhiều việc để kiếm sống, hầu như ít ai nhắc đến hai từ Nhã nhạc Đến năm
1992, trong dịp Festival văn hóa Việt - Pháp, dưới sự chỉ đạo của Sở Văn hóa
-Thơng tin Thừa Thiên-Huế và Trung tâm Bảo tồn di tích cố đơ, dàn đại nhạc
và tiểu nhạc đã được dựng lại. Trên thành quả của liên hoan và sự quy tụ một
số lượng lớn các nghệ nhân, cùng năm đó, CLB Nhã nhạc Phú Xuân ra đời với
những nhạc cơng đẳng cấp như các cụ Trần Kích, Hồ Viết Châu, Trần Thảo...
Năm 1993, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đơ Huế mời các nghệ nhân biểu diễn
trong điện Thái Hịa, sau đó động viên họ đứng ra tuyển chọn đội ngũ kế cận
và truyền dạy tại nhà. Năm 1994, giáo sư Tôn Thất Tiết về nước nhận bảo trợ
cho các nghệ nhân Nhã nhạc. Lần đầu tiên một đồn Nhã nhạc ra đời, lấy nịng
cốt là CLB Phú Xuân, năm 1995 đoàn sang Pháp biểu diễn và thu băng. Năm
1996, đĩa ghi âm Nhã nhạc đầu tiên được phát hành tại Pháp và lọt vào top 10
đĩa CD hay nhất của Pháp trong năm. Năm 2002, Bộ Văn hóa -Thơng tin (nay
là Bộ Văn hóa -Thể thao và Du lịch) giao cho Trung tâm Bảo tồn di tích cố đơ
Huế tiến hành xây dựng bộ hồ sơ Nhã nhạc để đệ trình lên UNESCO cơng
nhận là Kiệt tác văn hóa phi vật thể của nhân loại. Năm 2003, Nhã nhạc cung
đình Huế chính thức được UNESCO vinh danh.
2.2 Thách thức bảo tồn
Ngay sau đó, Việt Nam đã xây dựng một chương trình hành động quốc
gia nhằm bảo tồn, phục hồi và phát huy các giá trị của Nhã nhạc. Chương trình

này được UNESCO lựa chọn và chấp thuận tài trợ, nguồn vốn từ quỹ uỷ thác
Nhật Bản và đối ứng của phía Việt Nam (hơn 300.000 USD). Sau 3 năm thực
hiện, dự án đã thu được kết quả rất khả quan ở nhiều phương diện và được Văn
phòng UNESCO tại Hà Nội đánh giá là mẫu mực trong khu vực về tính hiệu
quả. Lo ngại về sự mất dần nghệ nhân có khả năng trình diễn và hiểu biết về
Nhã nhạc, ông Phùng Phu, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đơ Huế, Phó
trưởng ban điều hành dự án cho biết: “Qua dự án, 20 nhạc công tuổi từ 16-20
16


đã được đào tạo bài bản. ưu điểm của các nhạc cơng trẻ này là ngồi khả năng
trình diễn Nhã nhạc, họ còn được cung cấp phương pháp luận. Nhờ đó, các em
có nền tảng văn hố, hiểu được các giá trị của di sản để có nghĩa vụ bảo tồn và
phát huy tốt hơn”.
Không chỉ bảo tồn, dự án còn quảng bá và phát huy các giá trị của Nhã
nhạc khi thường xuyên tuyên truyền, biểu diễn cho công chúng trong và ngoài
nước thưởng thức. Ngoài ra, dự án cịn tổ chức các buổi nói chuyện có minh
hoạ của giáo sư Trần Văn Khê dành cho học sinh, sinh viên trên địa bàn thành
phố nhằm nâng cao nhận thức của lớp trẻ về Nhã nhạc. Tuy nhiên, để có thế hệ
kế cận xứng đáng, bảo tồn và phát triển Nhã nhạc một cách bền vững, theo ông
Phu, trước hết, cần có chính sách quản lý bảo tồn đặc thù dành cho Nhã nhạc,
có chế độ ưu đãi đặc biệt đối với các nghệ nhân nhằm khuyến khích họ đóng
góp, truyền đạt kinh nghiệm và bí quyết nghề nghiệp cho thế hệ trẻ. Ông Phu
cũng cho biết: “Đội ngũ kế thừa này là các em có năng khiếu và xuất thân từ
gia đình có truyền thống nghệ thuật, am hiểu nhạc cung đình. Bản thân các em
hầu hết đã sử dụng được các nhạc cụ trình diễn”. Lo lắng về đội ngũ kế thừa,
giáo sư Trần Văn Khê cảnh báo về xu hướng biểu diễn vô hồn của nhạc công
Nhã nhạc trẻ tuổi, cũng như xu hướng thêm vào các nhạc cụ, bài bản vốn
không phải của Nhã nhạc để tạo sự hoành tráng, phong phú. “Chúng ta chỉ nên
phát triển Nhã nhạc bằng cách sáng tác những bài bản mới trên cơ sở của giai

điệu cũ. Và khi trình diễn, chúng ta cần công khai, minh bạch cho người nghe
biết đâu là nguyên gốc, đâu là những bài bản được làm mới” - ông bày tỏ.
Nhiều nghệ nhân cũng rất bất bình khi có nhiều tiết mục bị biến tướng với lối
tấu nhạc “cắm đầu mà đánh”, còn các nữ vũ công “vừa múa vừa cười” trong
khi Nhã nhạc cần sự trang trọng. Thách thức đối với những người bảo tồn di
sản văn hoá của dân tộc và nhân loại là không nhỏ. Vấn đề là cái Tâm và trình
độ của những người làm cơng tác bảo tồn đến đâu. Ông Phu cho biết, trong
thời gian tới, Trung tâm sẽ tổ chức và mở rộng thêm một số đợt nghiên cứu
thực tế tại Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản... để khai thác, tìm kiếm nguồn tư

17


liệu tại các viện bảo tàng và trên thực tế để bổ sung nguồn thông tin tin cậy
phục vụ công tác nghiên cứu và phục hồi Nhã nhạc sau này.
2.3 Những giải pháp bảo tồn và phát triển Nhã nhạc ở giai đoạn mới
2.3.1 Những nỗ lực bảo tồn di sản
Sau năm 1945, Nhã nhạc đã mất không gian vốn có của nó và có nguy
cơ mai một dần. Hiện nay Nhã nhạc khơng cịn giữ được diện mạo như xưa,
nhưng nó vẫn có thể là một minh chứng độc đáo về sự sáng tạo văn hóa đặc
biệt của dân tộc Việt Nam. Tuy đã được duy trì và phát triển qua cả nghìn năm,
nhưng ngày nay, các tài liệu lịch sử về Nhã nhạc khơng cịn nhiều, lại phân bố
ở nhiều nơi, khơng có một cơ sở lưu trữ bài bản và hệ thống, các nghệ nhân,
người hiểu biết về kỹ thuật diễn xướng cũng như kiến thức về Nhã nhạc cịn
q ít ỏi ... thực tế đó đã và đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải và bức xúc về
công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị.
Từ sau năm 1975, Chính phủ, Bộ Văn hóa Thơng tin và lãnh đạo của
tỉnh Thừa Thiên Huế đã có nhiều chủ trương, quyết định để bảo tồn loại hình
văn hóa độc đáo này. Trong Quyết định 105/TTg ngày 12-2-1996 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Dự án Quy hoạch Bảo tồn và phát huy giá trị di

tích cố đơ Huế 1996 - 2010, thì một trong những mục tiêu bảo tồn được xác
định là: bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể cung đình Huế, trong đó được khẳng
định là nhạc cung đình, múa cung đình, tuồng cung đình và lễ hội cung đình.
Từ năm 1992, nhà hát Nghệ thuật Cung đình Huế thuộc Trung tâm Bảo tồn Di
tích Cố đơ Huế ra đời, chuẩn bị các cơ sở phục vụ cho công tác bảo tồn âm nhạc
cung đình Huế. Để đảm bảo có khơng gian diễn xướng tương ứng theo lịch sử,
Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế đã triển khai tu bổ các công trình như Duyệt
Thị Đường, Lương Khiêm Đường, Nam Giao, Thế Miếu. Bên cạnh đó đã tổ chức
nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu liên quan đến âm nhạc cung đình.
Tháng 3/1994 UNESCO đã phối hợp với Bộ Văn hóa Thơng tin, UBND
tỉnh, Trung tâm bảo tồn di tích cố đơ Huế tổ chức Hội nghị quốc tế về bảo vệ
và giữ gìn phục hồi văn hóa phi vật thể vùng Huế. Tiếp theo là các dự án đào

18


tạo được Bộ Văn hóa Thơng tin, các Quỹ của UNESCO, Chính phủ Nhật
Bản ... tài trợ cho các lớp nhạc cơng, diễn viên ca múa cung đình
Tháng 9/1996, Dự án đào tạo Nhã nhạc đầu tiên ở Việt Nam đã được xây
dựng và tổ chức khai giảng tại trường ĐH Nghệ thuật Huế, với 15 sinh viên
theo học các nhạc cụ thuộc dàn Đại nhạc và Tiểu nhạc. Sau đó, năm 1997 2000, JFAC đã tài trợ để tổ chức các hội nghị, tọa đàm về Nhã nhạc với sự
tham gia của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà quản lý và đào tạo của nhiều
nước như Nhật Bản, Phi-lip-pin, Việt Nam. Cuối tháng 8/2002, phối hợp với
Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam, Viện Âm nhạc Việt Nam, Trung tâm bảo
tồn di tích cố đơ Huế, đã tổ chức Hội thảo Quốc tế về Âm nhạc cung đình Huế
- Nhã nhạc, với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngồi nước
nhằm góp phần thúc đẩy cơng cuộc bảo tồn di sản Nhã nhạ. Bên cạnh đó, nhà
hát Truyền thống cung đình Huế đã được thành lập (trực thuộc Trung tâm bảo
tồn di tích cố đơ Huế) bước đầu đã bảo tồn được một số bản nhạc như: 10 bản
Ngự (Phẩm tuyết, Nguyên tiêu, Hồ quảng, Liên hồn, Bình bán, Tây mai, Kim

tiền, Xung phong, Long hổ, Tẩu mã), Long đăng, Long ngâm, Tiểu khúc...; các
bản nhạc thường dùng trong dàn Đại nhạc (Tam luân Cửu chuyển, Thái bình
Cổ nhạc, Đăng đàn cung, Phú lục, Tẩu mã, Bông, Mã vũ, Mang, Đăng đàn đơn,
Đăng đàn kép) cùng một số bài bản khác. Sự góp sức của đồn Nghệ thuật
Truyền thống Huế (thuộc Sở Văn hóa Thơng tin và Câu lạc bộ Phú Xn cũng
góp phần tích cực vào việc bảo tồn di sản Nhã nhạc. Cùng với việc phục hồi
các tác phẩm kể trên, Nhà hát Nghệ thuật Cung đình Huế của Trung tâm
BTDTCĐ Huế đã tiến hành biểu diễn phục vụ khách đến Huế tham quan,
nghiên cứu. Tổ chức nhiều đợt tuyên truyền ở các nước Châu Á, Châu Âu như:
Hàn Quốc, Lào, Pháp, Bỉ, Áo, Lucxămbua, đã tham gia tích cực các chương
trình nghệ thuật của Festival Huế 2000, 2002. Đặc biệt từ ngày 01/02 đến
14/02/2004, Nhà hát đã đi biểu diễn Nhã nhạc cung đình tại các thành phố
Montreuil, Arras, Areueil, Lyon, Marseille, thủ đơ Paris (thuộc Cộng hịa Pháp)
và thủ đơ Bruxelles (thuộc Vương quốc Bỉ). Trong đợt lưu diễn này, tại văn

19


phòng UNESCO (Pháp), bằng chứng nhận Di sản Nhã nhạc Việt Nam là Kiệt
tác Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại đã được UNESCO trao cho Huế.
2.3.2 Giải pháp phát triển
Việc bảo tồn các loại hình văn hóa phi vật thể khơng phải chỉ dựa vào trí
tuệ một cá nhân, một tập thể, cũng không phải là công việc một sớm một chiều,
mà phải có sự nổ lực của các nhà khoa học, các nghệ nhân, nghê sĩ, các nhà
quản lý và của tất cả mọi người. Một trong những vấn đề then chốt là phải tiến
hành điều tra các giá trị văn hóa liên qan đến Âm nhạc cung đình Huế, xây
dựng kế hoạch các sưu tập tư liệu sách vở, ảnh, phim, băng nhạc, đĩa hát...Qua
đó, cần tư liệu hóa các tác phẩm âm nhạc để dàn dựng các chương trình bảo
tồn, đồng thời nhân bản tư liệu để cất giữ, đề phòng mất mát, nhất là điều kiện
thời tiết khắc nghiệt ở Huế. Hơn nữa, cần tiếp cận những nghệ nhân, nhân

chững sống còn hiểu biết về âm nhạc cung đình, tiến hành thu băng, chụp hình,
quay phim những diễn xuất giai điệu, ca từ mà họ trình bày. Hiện tại, những
nghệ nhân xưa đã lần lượt ra đi, hạn hữu còn lại một vài vị cũng đã qua tuổi
"cổ lai hy". Ví dụ, ơng Lữ Hữu Thi đã bước sang tuổi 94, ông Nguyễn Mạnh
Cẩm cũng đã trịn 90, ơng Trần Kích cũng đã qua tuổi bát thập...vì vậy phải
khẩn trương khai thác những tri thức kỹ năng, kỷ xảo quý giá còn ở nơi họ.
Cùng với sự tiếp cận này, phải xây dựng một chế độ đãi ngộ thích đáng đối với
các nghệ nhân để họ nhiệt tình truyền nghề lại cho các thế hệ kế tiếp. Công tác
tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng không kém phần
quan trọng, nhằm góp phần nâng cao trình độ thưởng thức, huy động cái sở tri
của mọi tầng lớp nhân dân về âm nhạc cung đình. Mở rộng tuyên truyền đến
khách du lịch nước ngồi bằng các cuộc biểu diễn tại khơng gian diễn xướng
lịch sử, mà âm nhạc cung đình đã thể hiện. Kêu gọi sự đóng góp tri thức của
các bậc thức giả: tranh thủ sự đầu tư, hổ trợ của các cá nhân, tổ chức trong
nước và nước ngoài cả về kinh phí, phương tiện, tư liệu, ổ chức các đợt biểu
diễn tuyên truyền Nhã nhạc ở nước ngoài. Điều đáng quan tâm khác là phải
thành lập Hội đồng khoa học gồm các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu có uy
tín để thường xun kiểm chứng các khúc nhạc, lời ca nhằm kịp thời uốn nắn,
20


chỉnh lý, thậm chí loại bỏ những sai sót khơng đáng có, tránh sự cải biên tùy
tiện làm giảm các giá trị đích thực của âm nhạc truyền thống. Ngồi ra, cần xúc
tiến thành lập một Nhà/phòng bảo tàng Âm nhạc cung đình Huế, có thể hoạt
động bên cạnh hoặc trong lòng Duyệt Thị Đường, để trưng bày lưu trữ những
nhạc cụ, nhạc bản, phục trang, hình ảnh, tư liệu những đĩa hát xưa và nay,
những băng từ ghi âm, ghi hình, các tài lệu nghe nhìn về nhạc cung đình Hế,
các địa điểm diễn xướng, để làm cho các kiến trúc lịch sử này sống lại trong
môi trường văn hóa vốn có của nó.
Với sự kiện Nhã nhạc được công nhận Di sản phi vật thể và truyền khẩu

của nhân loại, văn hóa Huế lại một làn nữa được đăng quang, chắc chắn sẽ tạo
thêm những điều kiện mới cho sự phát triển của trung tâm văn hóa du lịch này.
Bảo tồn di sản văn hóa âm nhạc cung đình ln gắn với bảo tồn và phát huy giá
trị di tích cố đơ, bởi lẽ hai loại hình văn hóa này ln đan xen, hịa quyện để
làm nên vẻ đẹp viên mãn của di sản văn hóa Huế.
KẾT LUẬN
Nhã nhạc cung đình Huế với giá trị văn hóa và nghệ thuật sâu sắc của nó
mãi xứng đáng là di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc. Ai đã một lần đến Huế
được nghe nhã nhạc, bài ca xứ Huế sẽ không khỏi xúc động và lưu luyến nơi
này. Dịng sơng Hương thơ mộng êm đềm, tà áo dài truyền thống Việt Nam và
nhiều di tích văn hóa nổi tiếng đậm màu sắc dân tộc cùng với con người mến
khách nơi đây đã tạo cho Huế một đặc trưng, một nét riêng. Rất Huế. Rất Việt
Nam!
Đến với Huế, viết về Huế, về Nhã nhạc cung đình có rất nhiều tác giả,
nhiều bài viết lấy miền đất này làm đề tài khai thác cho tác phẩm của mình.
Bản thân tơi cũng vậy, tuy kiến thức cịn hạn chế, xong tiểu bài viết trên tìm
hiểu về một văn hóa phi vật thể - Nhã nhạc, tôi muốn thể hiện suy nghĩ và tình
cảm của mình về thể loại nhạc này. Mong được sự đón nhận của mọi người.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị An Hoà, Lịch sử hình thành và phát triển Nhã nhạc cung đình
Huế, tạp chí thế giới di sản.
2. Quốc Việt, Bảo tồn, phát huy giá trị Nhã nhạc cung đình Huế - Di sản
văn hoá của nhân loại, dantocmiennui.vn.
3. Minh Khiêm, Vài nét về Nhã nhạc cung đình Huế,
khamphahue.com.vn
4. Thái Lộc, Phục hồi Nhã nhạc cung đình Huế: Khó khăn cịn phía

trước, tuoitre.vn

22



×