MỤC LỤC
Trang
Mở
đầu .............................................................................................................
...................... 2
Nội
dung ...........................................................................................................
..................... 4
I.
Tìm
hiểu
về
một
số
khái
niệm
cơ
bản
.......................................................................... 4
1. Khái niệm văn hóa
.............................................................................................. 4
2.
Khái
niệm
văn
hóa
nghệ
thuật
............................................................................ 4
II. Tìm hiểu vai trị văn hóa nghệ thuật đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa
dân
tộc
hiện
nay
........................................................................................................... 8
1. Bản sắc văn hố dân tộc trong quá trình giao lưu và phát triển .......... 8
2. Quan điểm của nhà nước ta về vấn đề bản sắc văn hố dân tộc ............................... 9
3. Vai trị của văn hóa nghệ thuật đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc hiện nay ........................................................................................... 11
Kết
luận .............................................................................................................
................. 18
Danh
mục
tài
liệu
tham
............................................................................................ 19
khảo
MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay khi kinh tế ngày càng phát triển và các quốc gia trên thế
giới ngày càng xích lại gần nhau thì văn hố dân tộc ngày càng trở thành trung tâm của
sự chú ý nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của mỗi dân tộc, nó làm nên sức
sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt biết bao sóng gió và thác ghềnh
tưởng chừng khơng thể vượt qua được, để khơng ngừng phát triển và lớn mạnh.
Vai trị văn hoá đã được Đại Hội VIII khẳng định “văn hoá là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế –xã
hội” kết tinh những giá trị tinh thần cốt lõi và đặc sắc có tính bền vững và trường tồn
trong lịch sử của dân tộc. Văn hoá nghệ thuật là hệ cốt lõi của nền văn hoá trong sự
phát triển nối tiếp của nhiều thế hệ giá trị bản sắc văn hố nghệ thuật ln được trao
truyền phát triển, làm cơ sở cho sự định hướng phát triển văn hoá dân tộc.
Trong xu thế gần đây một xu thế giao lưu hội nhập - một cơ chế đang vận hành
trong lịng xã hội bản sắc văn hố Việt Nam đang đối diện với những khó khăn lớn,
thậm chí có nguy mai một mất bản sắc dân tộc Việt Nam. Hơn bao giờ hết nhiệm vụ
giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc. Vấn đề giữ gìn giá trị truyền thống tốt đẹp được đặt
gia cấp bách cho mỗi con người Việt Nam và chung cho cả cộng đồng.
2
Chúng ta đều biết văn hoá là nền tảng tinh thần của xà hội.
Văn hoá có nhiều lĩnh vực nh: văn hoá t tởng, văn hoá đạo đức - lối
sống, văn hoá khoa học, văn hoá giáo dục, văn hoá nghệ thuật, văn
hoá thông tin, giao lu văn hoá Mỗi lĩnh vực văn hoá tinh thần trên
đây đều có vai trò quan trọng, trong đó văn hoá nghệ thuật lại có
vị trí đặc biệt quan trọng, chi phối mạnh mẽ ®Õn ®êi sèng tinh
thÇn cđa con ngêi.
Văn hóa nghệ thuật ra đời do nhu cầu khách quan của xã hội đã phát triển đến
một trình độ nhất định của văn minh nhân loại. Văn hoá nghệ thuật là một lĩnh vực
quan trọng trong đời sống xã hội, nó là món ăn tinh thần khơng thể thiếu của lồi
người. Vai trị của của văn hóa nghệ thuật giữ một vị trí quan trọng: Nó vừa là cơng
cụ truyền bá văn hố vừa là một sản phẩm một thành tố văn hoá. Nó tham gia tích
cực vào việc lưu giữ và truyền bá làm giầu thêm kho tàng văn hoá dân tộc và nhân
loại có hiệu quả, thực hiện chức năng văn hố, nó tác động mạnh mẽ đến nhận thức
của con người từ vấn đề thẩm mỹ giao tiếp, giải trí. Bởi vậy việc xem xét đánh giá về
vai trò của văn hóa nghệ thuật đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc là điều cấp thiết. Chính vì vậy, người viết chọn đề tài “Tìm hiểu vai trị văn hóa
nghệ thuật đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc hiện nay ” làm
đề tài tiểu luận với mong muốn sẽ góp phần làm sáng tỏ về phương diện lý luận và
thực tiễn của phát triển văn hóa.
3
NỘI DUNG
I. TÌM HIỂU MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa đạo đức là một bộ phận hữu cơ của văn hóa nói chung. Vì vậy, để hiểu
được văn hóa đạo đức trước hết cần có một quan niệm thống nhất về văn hóa.
4
Văn hóa là một khái niệm phức tạp và đa nghĩa, gắn liền con người với đời sống
xã hội loài người. Từ lâu văn hóa đã trở thành lĩnh vực nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học. Hiện nay đã và đang tồn tại rất nhiều các định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Văn hóa theo từ gốc Latinh “culture” lúc đầu chủ yếu nói về quan hệ giữa con
người với tự nhiên, có nghĩa là gieo trồng, canh tác, khai hoang. Sau này thuật ngữ
trên được mở rộng sang lĩnh vực xã hội, nói về quan hệ giữa con người với con
người, có nghĩa là giáo dục, ni dưỡng, giáo hóa, rèn luyện, hồn thiện nhân cách.
Theo E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về
tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp,
tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách
một thành viên của xã hội”. Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một; nó
bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín
ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật…
Theo F. Boas định nghĩa “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất
và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm
người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự
nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của
chính các thành viên này với nhau”. Theo định nghĩa này, mối quan hệ giữa cá nhân,
tập thể và mơi trường là quan trọng trong việc hình thành văn hóa của con người.
Hiện nay, có rất nhiều các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng như ở nước ngồi
đã vận dụng khái niệm văn hóa của UNESSCO: “Văn hóa hơm nay có thể coi là tổng
thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách
của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật
và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống
giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng
suy xét bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt
nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dẫn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa
mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án
chưa hồn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tịi khơng biết
mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những cơng trình vượt trội lên bản thân”.
5
Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Hồ Chí Minh cho
rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Với cách hiểu này,
văn hóa sẽ bao gồm tồn bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra.
Theo Phạm Văn Đồng cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vơ
cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì khơng phải là thiên nhiên mà
có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con
người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm,
đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên
ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức
chiến đấu bảo vệ mình và khơng ngừng lớn mạnh”. Theo định nghĩa này thì văn hóa
là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con người sáng tạo nên từ tư tưởng tình
cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc.
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa đề
cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Để thuận tiện
cho việc nghiên cứu, nhóm tác giả sẽ đưa ra một định nghĩa chung nhất dựa trên cơ sở
những định nghĩa trên: Văn hóa là tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần do con
người tạo ra trong quá trình lao động nhằm phục vụ mục đích cuộc sống con người.
1.2. Khái niệm Văn hóa nghệ thuật
Chóng ta ®Ịu biÕt văn hoá là nền tảng tinh thần của xà hội.
Văn hoá có nhiều lĩnh vực nh: văn hoá t tởng, văn hoá đạo đức - lối
sống, văn hoá khoa học, văn hoá giáo dục, văn hoá nghệ thuật, văn
hoá thông tin, giao lu văn hoá
Mỗi lĩnh vực văn hoá tinh thần trên đây đều có vai trò quan
trọng, trong đó văn hoá nghệ thuật lại có vị trí đặc biệt quan
trọng, chi phối mạnh mẽ đến đời sống tinh thần cña con ngêi.
6
Văn hoá nghệ thuật là một bộ phận của văn hoá tinh thần,
đồng thời là một thành tố đặc biệt quan trọng của văn hoá thẩm
mỹ. Văn hoá nghệ thuật phản ánh đời sống xà hội bằng hình tợng
nghệ thuật và tác động trở lại đời sống xà hội một cách sâu sắc.
Văn hóa nghệ thuật là sự phát triển những năng lực nghệ thuật của
con ngời (nghệ sĩ và công chúng) thể hiện ở hoạt động nghệ
thuật nhằm sáng tạo và cảm thụ những giá trị nghệ thuật
Văn hoá nghệ thuật là một bộ phận của văn hoá tinh thần
Trên thực tế có hai thứ văn hoá: văn hoá vật chất và văn hoá
tinh thần. Văn hoá tinh thần chủ yếu là các hình thái ý thức nằm ở
thợng tầng kiến trúc, còn văn hoá vật chất gồm các lĩnh vực ở hạ
tầng cơ sở, các lĩnh vực kinh tế, xây dựng, công nghiệp, kỹ
thuật
Sự phân chia thành hai lĩnh vực văn hoá vật chất và văn hoá
tinh thần để giúp cho ngời ta có cái nhìn toàn diện hơn đối với
các sản phẩm văn hoá
Sản phẩm văn hoá tinh thần: tác phẩm văn học nghệ thuật,
phát minh khoa học, phong tục tập quán... Sản phẩm văn hoá vật
chất: các công trình kiến trúc, các pho tợng, các di tích lịch sử
Tuy nhiên những giá trị văn hoá tinh thần và văn hoá vật chất
thờng xâm nhập xen lẫn vào nhau, nên việc phân chia văn hoá vật
chất và văn hoá tinh thần không thể tuyệt đối. Mỗi giá trị văn hoá
vật chất đều gắn bó với một giá trị văn hoá tinh thần.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn xà hội, con ngời không chỉ
sản xuất ra những điều kiện vật chất mà còn sản xuất ra ý thức xÃ
hội dới nhiều dạng khác nhau nh ý thức tôn giáo, ý thức khoa học, ý
7
thức thẩm mỹ, ý thức nghệ thuật, ý thức đạo ®øc - lèi sèng, ý thøc
ph¸p qun...
Nh vËy, tõ ý thøc thÈm mü, ý thøc nghÖ thuËt, con ngêi sÏ sáng
tạo ra văn hoá nghệ thuật. Vì thế có thể nói rằng văn hoá nghệ
thuật chính là một lĩnh vực cơ bản của đời sống văn hoá tinh thần
.
Mác đà dùng thuật ngữ sản xuất trong khía cạnh sản xuất tinh
thần. Chẳng hạn Mác đà nói là sản xuất nghệ thuật (Mác - Ăng
Ghen Toàn tập, T.46, ph. I, tr. 47). Nghĩa là để tạo ra văn hoá nghệ
thuật thì tất yếu phải có quá trình lao động sản xuất nghệ thuật.
Văn hoá thẩm mỹ là một biểu hiện về trình độ tổng hợp cao
của văn hoá xà hội. Theo Mác, dấu hiệu cơ bản để phân biệt hoạt
động của con ngời đối với hoạt động của loài vật là ở chỗ con ngời
biết nhào nặn hiện thực theo quy luật của Cái Đẹp. Nh vậy, năng
lực sáng tạo Cái Đẹp và thởng thức Cái Đẹp chính là đặc tính bản
chất của con ngời.
Văn hoá thẩm mỹ luôn luôn thể hiện những năng lực thẩm mỹ
của con ngời, nó đợc hình thành và thấm sâu trong toàn bộ lịch
sử nhân loại. Văn hoá nghệ thuật là những gì tinh hoa nhất của
văn hoá thẩm mỹ mà con ngời sáng tạo ra trong một thời đại lịch sử
xà hội nào đó.
Văn hoá nghệ thuật vận động theo những quy luật chung của
văn hoá thẩm mỹ nói riêng và văn hoá xà hội, nói chung. Có thể nói
con ngời làm ra văn hoá, đồng thời văn hoá làm ra con ngời. Đó là
một quy trình thống nhất hai chiều.
Thông qua những đặc trng của hình tợng nghệ thuật, văn
hoá nghệ thuật chân chính của nhân loại luôn luôn hớng con ngời
8
đến những giá trị Chân - Thiện - Mỹ, biết thởng thức Cái Đẹp để
tiến tới sáng tạo Cái Đẹp, hoàn thiện và nâng cao nhân cách Con
Ngời.
II. VAI TRề CỦA VĂN HĨA NGHỆ THUẬT ĐỐI VỚI VIỆC GIỮ GÌN
VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC HIỆN NAY
2.1. Bản sắc văn hố dân tộc trong q trình giao lưu và phát triển
Loài người đang sống trong một thời kỳ có những thành tựu to lớn , sâu sắc
trong cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, sự bùng nổ thông tin và các
phương tiện truyền thông, sự cải cách chính trị xã hội đáng ngạc nhiên và sự tái sinh
vai trò tiềm lực to lớn của văn hố. Nói cách khác do sự tiến bộ vượt bậc của văn hố
kỹ thuật, do những biến đổi nhanh chóng của từng khu vực đã đưa tri thức loài người
bước lên thang bậc trí tuệ mới và các nhà sáng tạo làm nên khn mặt mới của nền
văn minh trí tuệ. Mỗi dân tộc không muốn tụt hậu, bằng những định hướng khác nhau
trước sau đều hồ mình vào bước tiến chung của thời đại. Đó là q trình giao lưu và
phát triển nó chi phối và ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, các quốc gia dân tộc “ toàn cầu hố” đã đang là một q trình tất yếu
khách quan trong lịch sử nhân loại.
Nằm ở vị trí ngã tư đường, của sự giao lưu khu vực ĐNA và Thế Giới , là một
trong cái nôi của nhân loại, từ hàng ngàn năm qua. Do điều kiện lịch sử của địa lý,
Việt Nam đã trở thành một trong những đầu mối giao lưu quốc tế với nền văn hoá lớn
của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Độ và sau này là Pháp - Nga- Nhật- Mỹ … Chính
những mối giao lưu đó đã tạo ra cho dân tộc ta một truyền thống tư duy mở, dựa trên
9
nền văn hố bản địa, có màu sắc riêng với hệ giá trị truyền thống độc đáo. Văn hoá
Việt Nam không chối từ mọi cuộc tiếp xúc giao lưu, qua đó tiếp thu có chọn lọc nhiều
nét tinh hoa của nền văn hố nhân loại. Đó là cơ sở thuận lợi để chúng ta tiếp thu
nhạy bén những văn hoá và thành tựu khoa học của thế giới.
Trong xu thế phát triển của thế giới với một xuất phát điểm thấp về trình độ
khoa học cơng nghệ, Việt Nam đang thực thi chính sách mở cửa đa dạng hố đa
phương hố các quan hệ đối ngoại phục vụ cho cơng cuộc đổi mới đất nước trên tinh
thần “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước ”. Nền văn hố dân tộc cho chúng
ta khả năng đón nhận và biến đổi văn hoá mới của cuộc cách mạng khoa học cơng
nghệ. Nó đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mơ tồn cầu hố. Bởi vậy, u cầu đặt ra là
gìn giữ bảo vệ, phát huy những giá trị bản sắc của dân tộc cần đẩy mạnh phát triển và
quý trọng truyền thống văn hoá dân tộc và cả cộng đồng. Văn hoá Việt Nam đang
đứng trước sự tấn cơng ồ ạt mạnh mẽ của các làn sóng văn hố ngoại lại thiếu chọn
lọc vì thế mà càng phải chú trọng gìn giữ và phát huy nền văn hố dân tộc. Trong lich
sử Việt Nam đã là một trong hơn 30 quốc gia còn giữ được bản sắc dân tộc.
2.2. Quan điểm của nhà nước ta về vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc
Mỗi nền văn hoá đều là tài sản của một cộng đồng người nhất định - một chủ
thể của văn học… mọi hệ thống văn hố đều có mối quan hệ với mơi trường xã hội.
Vì vậy giữa văn hố và mơi trường có sự gắn kết sâu sắc, văn hoá hỗ trợ là động lực
của sự phát triển của xã hội, và điều kiện xã hội, tác động thúc đẩy hay kìm hãm độ
phát triển văn hố.
Trong suốt thời kỳ cách mạng sơi động hơn nửa thế kỷ qua phương hướng gìn
giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, kết hợp với tinh hoa văn hoá nhân loại là
một nội dung cơ bản trong đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản và nhà nước.
Tại Đại Hội văn hố tồn quốc tháng 7/1948 Tổng bí thư Trường Chinh khẳng
định “văn hố dân chủ mới Việt Nam phải gồm 3 tính chất dân tộc, khoa học và đại
chúng”. Đến Đại Hội VI của Đảng năm 1986 khái niệm bản sắc văn hoá dân tộc
được nêu lên và được đại hội công nhận ghi vào nghị quyết “xây dựng một nền văn
hoá văn nghệ XHCN đậm đà bản sắc đân tộc”.
Ngày 14/1/1993 lần đầu tiên Đảng ta ra một nghị quyết có nội dung riêng về
văn hoá được ban chấp hành TW khoá VII thông qua về một số nhiệm vụ trách nhiệm
10
văn hoá văn nghệ những năm trước mắt, xây dựng vai trị quan trọng của văn hố là
nền tảng tinh thần của xã hội đồng thời là mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Từ những đánh giá và khẳng định vai trị của văn hố và bản sắc văn hố dân
tộc trong xã hội. Đảng và nhà nước ta đề ra nhiều giải pháp , phương hướng phù hợp,
hỗ trợ cho sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp độc đáo của văn hoá dân tộc
Việt Nam.
Sự vận động của văn hố nằm trong dịng chảy chung của lịch sử dân tộc.Để
xây dựng một bản sắc Việt Nam phù hợp với trình độ phát triển của một đất nước,
Đảng và nhà nước ta xác định phương hướng “phát triển những truyền thống tốt đẹp
của văn hoá dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới”. Phát
triển và hấp thụ là những nguyên tắc rất quan trọng làm cho văn hoá Việt Nam khơng
sa vào chủ nghĩa dân tộc thuần t và có bản lĩnh vững vàng để không đánh mất bản
sắc riêng trong giao lưu văn hoá . Nhiều giải pháp cùng với những chính sách về văn
hố đã được đề ra trên cơ sở sự hiểu biết, nắm vững và tôn trọng quy luật, phát triển
nội tại của nền văn hoá dân tộc.
Nền văn hố Việt Nam có những ngun lý riêng của nó. Muốn gìn giữ và phát
triển, hồn thiện và nâng cao sự kế thừa truyền thống không phải là giữ nguyên trọn
vẹn “ cái gốc” xưa, bê nguyên si những giá trị của thời đại trước, mà là sự kế thừa có
chọn lọc, có phê phán và có sáng tạo những giá trị tinh thần và văn hoá của dân tộc
cũng như văn minh nhân loại. Sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “ khơi
phục vốn cũ thì nên khơi phục những cái gì tốt cịn cái gì khơng tốt thì phải loại dần
ra” việc xác định đúng yếu tố “tốt” tiến bộ trong di sản văn hố truyền thống. Để xây
dựng cái mới khơng đơn giản, song được Đảng ta chỉ ra rất rõ ràng là “kế thừa và
phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di sản văn hoá nghệ thuật
của dân tộc”.
Trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật và các lĩnh vực khác của đời sống văn hố,
Đảng và nhà nước ln xác định “ phát triển văn hoá- nghệ thuật mang bản sắc dân
tộc Việt Nam là trách nhiệm, nghĩa vụ của tồn dân”. Vai trị của các cơ quan lãnh
đạo là “ tạo điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng và phương tiện cho việc phát triển”.
11
Như vậy vấn đề và phát huy gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc đã được khơi dậy
trong tất cả các lĩnh vực hoạt động văn hố, và khơng chỉ có thế, Đảng và nhà nước ta
cịn đặt ra mục tiêu làm cho bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hoá phải
được thấm đậm cả trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo, ứng dụng các thành tựu
khoa học kỹ thuật công nghệ giáo dục và đào tạo sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta
có cách tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam.
Thực hiện tinh thần của nghị quyết nhà nước đã tăng cường các biện pháp đẩy
mạnh sự phát triển của phong trào “ toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”
trên cả nước trong mọi tầng lớp nhân dân . Hệ thống các văn bản luật pháp và chính
sách liên quan đến văn hoá đang được xúc tiến xây dựng, trong đó đáng chú ý là luật
di sản văn hố.
Tóm lại đường lối văn hố của Đảng ta ln nhất quán .Văn hoá là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội. Những chủ
trương chính sách kịp thời của Đảng và nhà nước đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi
cho văn hoá phát triển theo đúng định hướng dân tộc, khoa học và nhân văn.
2.3. Vai trò của văn hóa nghệ thuật đối với việc giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc hiện nay
Văn hóa nghệ thuật là phương tiện thơng tin đại chúng thiết yếu với đời sống xã
hội . Không phải ngẫu nhiên mà các nhà chính trị, các nhà cách mạng đã dành cho Văn
hóa nghệ thuật sự quan tâm lớn . Vai trò chức năng của hệ thống quyền lực thông tin
này được LÊ NIN xác định “ không những là người tuyên truyền cổ động tập thể , mà
còn là người tổ chức tập thể”.
Từ khi ra đời trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân đấu
tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước .Đảng và nhà nước ta luôn đánh giá
đề cao vai trị của Văn hóa nghệ thuật “ coi Văn hóa nghệ thuật như là một cơng cụ
đắc lực để tuyên truyền vận động và tổ chức quần chúng làm cách mạng”.Văn hóa
nghệ thuật hoạt động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đời sống văn hố
của đất nước, sự tham gia của Văn hóa nghệ thuật càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
12
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã thường nói “ cán bộ Văn hóa nghệ thuật cũng là chiến sỹ
cách mạng, cây bút trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”. Như vậy Văn hóa nghệ thuật
là đội quân tiên phong, là phương tiện hữu hiệu tham gia tuyên truyền, quản lý và xây
dựng nền văn hoá cách mạng.
Mặc dù chỉ là kênh truyền thơng , nhưng Văn hóa nghệ thuật là phương tiện đặc
biệt có hiệu quả thực hiện các chức năng của văn hoá từ giáo dục thẩm mỹ đến giao
tiếp giải trí và dự báo, cũng có nghĩa là những tác động - thuận nghịch của Văn hóa
nghệ thuật đều vọng vào văn hố nói chung, bản sắc văn hố dân tộc nói riêng. Thực tế
đó càng cho thấy vai trị quan trọng của Văn hóa nghệ thuật góp phần vào việc hình
thành nhận thức tư duy trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước.
Luật Văn hóa nghệ thuật được quốc hội nước CHXHCNVN thơng qua năm
1989 và được sửa đổi bổ sung năm 1999 đã quy định rõ nhiệm vụ quyền hạn của Văn
hóa nghệ thuật Việt Nam. Trong đó có nội dung “ nâng cao dân trí đáp ứng nhu cầu
văn hố lành mạnh của nhân dân , bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân
tộc”.Văn hố khơng đơn thuần là một nội dung làm phong phú thông tin trên Văn hóa
nghệ thuật có trách nhiệm nghĩa vụ tham gia, phát huy sức mạnh của mình để bảo vệ
những truyền thồng quý báu của dân tộc và làm cho giá trị đó có sức lan toả thấm đẫm
trong đời sống xã hội.Tạo tiền đề hình thành giá trị mới phù hợp với xu thế thời đại.
Xã hội càng phát triển, trình độ dân trí càng cao.Sự hình thành nhân cách lối
sống văn hoá của con người chịu nhiều ảnh hưởng của yếu tố tự nhiên và xã hội.Vấn
đề cấp thiết đặt ra cho Văn hóa nghệ thuật là trang bị một hệ thống tri thức văn hoá lịch
sử phong phú và đa dạng giáo dục truyền thống yêu nước cách mạng, ý chí, đức tính
cần cù trung thực phổ biến hoạt động văn hoá, phong tục tập quán tốt đẹp của dân
tộc… Hình thành dư luận xã hội lành mạnh, tạo cơ sở cho việc hình thành nhân cách
đời sống tinh thần của con người và xã hội… Dựa vào lợi thế đặc biệt của mình, Văn
hóa nghệ thuật có khả năng đưa các nhân tố vào văn hoá tinh thần nhân văn thấm sâu
vào các lĩnh vực đời sống vào các kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế- xã hội
của Đảng và nhà nước.
13
Văn hóa nghệ thuật đóng vai trị quan trọng trong việc giao lưu văn hoá. Nếu sự
phát triển là do giao lưu quyết định thì tần số du nhập và xuất tin tức của một xã hội lại
là thước đo nhất định, chính xác nhất nhịp độ giao lưu văn hố của xã hội đó. Chính ở
lĩnh vực này Văn hóa nghệ thuật phát huy chức năng “bộ lọc” của văn hố dân tộc,
định hướng giá trị cho tồn xã hội.
Trong những định hướng lớn về xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng và nhà nước có đề ra nhiệm vụ “phát triển đi đôi với
quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng, nhằm tăng hiệu quả thông tin chất lượng tư
tưởng văn hố của tổ chức này. Đó là sự định hướng tạo thuận lợi cho Văn hóa nghệ
thuật thực hiện tốt hơn nữa một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mình, đã được đề
ra một cách rõ ràng đầy đủ toàn diện trong chỉ thị 22 CT/TW tiếp tục đổi mới và tăng
cường lãnh đạo, quản lý cơng tác Văn hóa nghệ thuật xuất bản “góp phần làm lành
mạnh xã hội giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, bản sắc và tinh
hoa văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hố nhân loại”.
Trong vài thập kỷ trước đây, có một số nước cho rằng: chỉ cần tăng trưởng kinh
tế với việc sử dụng cơ chế kinh tế thị trường cùng với việc phát triển sử dụng khoa
học công nghệ cao là có sự phát triển. Sau một thời gian thực hiện kết quả cho thấy,
các quốc gia đó đạt được một số mục tiêu về tăng trưởng kinh tế nhưng đã vấp phải
sự xung đột gay gắt trong xã hội, sự suy thối về đạo đức, văn hóa ngày càng tăng.
Từ đó, kéo theo kinh tế phát triển chậm lại, mất ổn định xã hội tăng lên và cuối cùng
là sự phá sản của các kế hoạch phát triển kinh tế, đất nước rơi vào tình trạng suy
thối, khơng phát triển được. Đây là quan niệm phát triển nhanh bằng cách hi sinh
các giá trị văn hóa – xã hội cho sự phát triển. Trên thực tế đã bị phá sản.
Từ thực tế đó, một số nước đã lựa chọn mơ hình: tăng trưởng kinh tế, cùng với
việc phát triển tài nguyên con người, bảo vệ môi trường sinh thái. Mơ hình này, tuy
tăng trưởng kinh tế khơng nhanh, nhưng lại bền vững, xã hội ổn định. Đây là quan
niệm phát triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, được các nhà khoa học, các
chính khách thừa nhận. Từ đó, cho rằng: Phát triển là một q trình nội sinh và tự
14
hướng tâm của sự tiến hóa tồn cục đặc thù cho mỗi xã hội. Vì vậy, cho nên ở đây có
sự tương đồng về nghĩa và khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa phát triển và văn hóa.
Văn hóa bao trùm tất cả các phương diện của hoạt động xã hội.
Trong Nghị quyết Trung ương 5 ( Khóa VIII), Đảng ta khẳng định: Văn hóa
Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt
Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và
tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để khơng ngừng hồn thiện mình.
Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng
rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng tạo ra,
chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm cung cấp năng
lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện, xa rời trạng
thái nguyên sơ ban đầu khi từ con vật phát triển thành con người. Con người tồn tại,
không chỉ cần những sản phẩm vật chất mà cịn có nhu cầu hưởng thụ sản phẩm văn
hóa tinh thần, con người và xã hội lồi người càng phát triển thì nhu cầu văn hóa tinh
thần địi hỏi ngày càng cao. Đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần đó chính là đảm bảo
sự phát triển ngày càng nhiều của cải vật chất cho con người và xã hội.
Trên ý nghĩa đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là mục tiêu
của sự phát triển. Vì xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người quyết định mà
văn hóa thể hiện trình độ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con người và xã
hội, làm cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ; điều đó nghĩa là ngày
một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông muội để tiến tới một cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân cũng
như của cả cộng đồng được bồi dưỡng; phát huy trở thành giá trị cao quý và chuẩn
mực tốt đẹp của toàn xã hội. Mục tiêu này phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân
loại và là mục đích phát triển bền vững, tiến bộ của các quốc gia, dân tộc. Đây là một
nội dung quan trọng của Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng
15
Văn hóa là động lực của sự phát triển, bởi lẽ mọi sự phát triển đều do con
người quyết định chi phối. Văn hóa khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của
con người, huy động sức mạnh nội sinh to lớn trong con người đóng góp vào sự phát
triển xã hội.
Trước đây, để phát triển kinh tế, người ta thường nhấn mạnh và khai thác yếu
tố lao động của con người cho sự phát triển. Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố quyết định cho sự phát triển là trí tuệ, là
thơng tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng nhằm tạo ra những giá trị vật chất và
tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của mỗi người cũng
như của toàn xã hội.
Trong thời đại ngày nay, một nước giàu hay nghèo khơng chỉ ở chỗ có nhiều
hay ít lao động, vốn, kỹ thuật và tài nguyên thiên nhiên, mà chủ yếu ở chỗ có khả
năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người hay
không? Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là
trong ý chí tự lực, tự cường và khả năng hiểu biết, trong tâm hồn, đạo lý, lối sống,
trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng.
Một chính sách phát triển đúng đắn là chính sách làm cho các yếu tố cấu thành
văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người: văn hóa trong sản
xuất, văn hóa trong quản lý, văn hóa trong lối sống, văn hóa trong giao tiếp, văn hóa
trong sinh hoạt gia đình, ngồi xã hội, văn hóa trong giao lưu và hợp tác quốc tế…
Nói cách khác, hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống
con người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng trở nên
hiện thực bấy nhiêu. Văn hóa là hệ điều tiết của sự phát triển. Bởi lẽ, văn hóa phát
huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách quan và chủ quan, của
các điều kiện bên trong và bên ngoài, bảo đảm cho sự phát triển được hài hòa, cân
đối, lâu bền.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào chuẩn mực của nó là
chân, thiện, mỹ (cái đúng, cái tốt, cái đẹp) để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động
16
không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất hàng
hóa với số lượng ngày càng nhiều với chất lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu
không ngừng tăng lên của xã hội; mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị
truyền thống, của đạo lý, dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái hàng hóa, sùng bái
tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng tiêu cực của hàng hóa và đồng tiền “xuất hiện với
tính cách là lực lượng có khả năng xuyên tạc bản chất con người, cũng như những
mối liên hệ khác”. Hạn chế những tiêu cực này chỉ có thể là văn hóa và chủ yếu bằng
văn hóa.
Tồn cầu hóa kinh tế quốc tế là một xu thế, địi hỏi chúng ta phải chủ động và
tích cực hội nhâp. Đây là cơ hội để chúng ta phát triển nhanh có hiệu quả, nhưng cũng
là thách thức rất lớn với nước ta trên nhiều mặt, trong đó có cả văn hóa. Sự thâm nhập
của văn hóa độc hại, của sự lai căng văn hóa, của lối sống thực dụng và những tiêu cực
khác của kinh tế thị trường…, đã và đang ảnh hưởng, làm băng hoại những giá trị văn
hóa truyền thống, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của đất nước…
Cần phải hiểu rằng về mặt kinh tế, việc thực hiện chính sách hội nhập để tăng
cường liên kết, liên doanh với nước ngoài là rất cần thiết. Song, mọi yếu tố ngoại sinh
như vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường của nước ngồi chỉ
có thể biến thành động lực bên trong của sự phát triển, nếu chúng được vận dụng phù
hợp và trở thành các yếu tố nội sinh của con người Việt Nam với truyền thống văn
hóa, đạo đức, tâm hồn, lối sống của dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở kiến thức khoa học,
kinh nghiệm và sự tỉnh táo, khơn ngoan, chúng ta cần giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc trong q trình hội nhập, phát triển. Bởilẽ, nền văn hóa dân tộc sẽ đóng
vai trị định hướng và điều tiết để hội nhập và phát triển bền vững, hội nhập để phát
triển nhưng vẫn giữ vững được độc lập, tự chủ. Hợp tác kinh tế với nước ngồi mà
khơng bị người ta lợi dụng, biến mình thành kẻ đi vay nặng lãi, thành nơi cung cấp
nguyên liệu và nhân công giá rẻ, thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa và tiếp nhận
chuyển giao những công nghệ lạc hậu, tiếp nhận lối sống khơng lành mạnh với những
ảnh hưởng văn hóa độc hại… Vì sự phát triển bền vững, văn hóa nghệ thuật phê phán
17
lối sống thực dụng, chụp giật, chạy theo ham muốn quá mức của “xã hội tiêu thụ”,
dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái. Như vậy, văn hóa
đã góp phần quan trọng vào vấn đề bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững...
Văn hóa nghệ thuật Việt Nam hướng dẫn và cổ vũ một lối sống hòa hợp, hài hòa
với thiên nhiên. Nó đưa ra mơ hình ứng xử có văn hóa của con người đối với thiên
nhiên, vì sự phát triển bền vững của thế hệ hiện nay và các thế hệ con cháu mai sau.
Phát triển tách khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha
hóa. Thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước mà xa rời những giá trị văn hóa truyền thống sẽ làm mất đi bản sắc dân tộc,
đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác.
Nhận thức sâu sắc giá trị của văn hóa trong quá trình phát triển, Đảng ta xác
định tiến hành đồng bộ và gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt cùng với việc xây dựng
văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội nhằm tạo nên sự phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững của đất nước. Trong đó, nội dung xây dựng văn hóa được xác định: “Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, một định hướng quan
trọng để đất nước phát triển bền vững ./.
18
KẾT LUẬN
Việt Nam là một cộng đồng các dân tộc sống xen kẽ với nhau. Do đó cái dân tộc
trong văn hoá Việt Nam là cái dân tộc bao gồm những nét đặc sắc của văn hoá nhiều
các dân tộc thống nhất trong một Quốc gia. Vì vậy, nền văn hố Việt Nam hết sức
phong phú bởi tính đa dạng trong văn hố các dân tộc. Trải qua hàng nghìn năn giữ
nước và dựng nước, sở dĩ chúng ta đứng vững và tồn tại được trên mảnh đất của
chính mình là nhờ sức mạnh cộng đồng và các dân tộc Việt Nam, mà yếu tố nội sinh
là giữ gìn văn hoá dân tộc. Sức sống trường tồn của dân tộc Việt Nam minh chứng
cho bản lĩnh sáng tạo văn hoá của con người Việt Nam. Nhưng đó là trong quá khứ,
cịn giờ đây chúng ta đang đương dầu với khó khăn và thử thách do cơ chế thời mở
cửa đặt ra. “Mở cửa”, chúng ta để mặc cho gió bốn phương ùa vào, nhưng bên cạnh
đó cũng cịn có những làn gió độc đang làm xói mịn các giá trị truyền thống và bản
sắc văn hoá dân tộc mà cha ông ta đã vun đắp qua bao nhiêu thế hệ. Để đảm bảo sự
tiếp thu có chọn lọc, những tinh hoa văn hố nước ngồi, nhất là để chống lại sự tấn
công của các khuynh hướng nghệ thuật tư sản đồ trụy và phản động, chúng ta còn
việc chống tệ “ăn sống nuốt tươi”, “sùng ngoại”, là công việc thường ngày phải được
19
tiến hành song song với việc đấu tranh vì một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc.
Như chúng ta đã biết, nền văn hoá mà đảng ta xây dựng là nền văn hốXHCN.
Bởi chỉ có chế độ XHCN thì văn hố nghệ thuật mới phát triển trong một mơi trường
lành mạnh, nhân văn trong đó yếu tố cộng đồng được đề cao nhưng cũng khơng vì
thế mà vùi dập, ngược lại, khuyến khích sức sáng tạo cá nhân. Để phù hợp với thời
kỳ mới, Đảng đã chủ trương mở cửa để đón nhận những tinh hoa văn hố nhân loại
trên cơ sở giao lưu có chọn lọc, nhằm “xây dựng một nền văn hoá đậm đà bản sắc
dân tộc”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Chính sách văn hóa- nhìn từ bản quyền tác giả trong lĩnh vực văn học nghệ
thuật, Nguyễn thị Hương (Thơng tin Văn hóa và Phát triển, số 5, 2005).
- Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về sản xuất văn hoá và thị trường
hàng hố văn hố - Nguyễn Thị Hương (Tạp chí Lý luận chính trị, số 10, 2006).
- Văn hố vì phát triển - Phạm Xuân Nam, Nxb CTQG, Hà Nội 1998.
- Chống những biểu hiện của văn hoá, văn nghệ thương mại; Xã hội hoá các
hoạt động văn hoá và xã hội hoá kinh doanh văn hoá- của Trần Trọng Đăng Đàn,
Nxb Văn nghệ Sở Văn hố Thơng tin TP. Hồ Chí Minh, 1998.
- Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hố ở nước ta - Hồng Vinh
(Nxb Văn hố Thơng tin - Hà Nội 1
- Cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin - Đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước
20
. Cơ sở lý luận (Trần Quốc Vượng)
2. Cơ sở lý luận (Trần Ngọc Thêm)
3. Đại hội Văn hố Tồn quốc tháng 7/1948
4. Đại hội VI của Đảng
5. Đại hội VIII của Đảng
6.
21
PHỤ LỤC
22
23