Luận văn: Quan hệ Thương mai giữa
Việt Nam và Nhật Bản thực trạng và
giải pháp
Quan hệ Thương mai giữa Việt
Nam và Nhật Bản thực trạng và
giải pháp
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA QUAN HỆ
THƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN
1.1 Cơ sở lý luận.
Có thể nói, chiến tranh lạnh kết thúc vào đầu thập niên 90 của thế kỷ thứ 20, tạo ra
một diện mạo mới cho các quan hệ kinh tế quốc tế. Nó tác động lớn tới nhiều quốc gia,
làm thay đổi hẳn cục diện thế giới. Mở đầu, đợc đánh dấu bằng sự tan rã của của chế độ
chính trị ở đất nớc Liên Xô và một loạt các nớc Xã hội Chủ nghĩa ở Đông Âu. Tình hình
an ninh chính trị trên thế giới, về cơ bản đã ở trong trạng thái ổn định. Nguy cơ của bùng
nổ chiến tranh hạt nhân (thế chiến thứ 3) đã bị đẩy lùi. Ngời ta đã cảm thấy yên tâm hơn,
để tập trung vào đầu t phát triển kinh tế và củng cố đất nớc. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn
còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập, gây ảnh hởng trực tiếp tới quan hệ ngoại giao giữa các
nớc nh: hệ thống tôn giáo của các nớc rất phức tạp, quyền lợi các bên hay bị xung đột, gây
ra chiến tranh liên miên, làm cho nhiều khu vực trên thế giới không ổn định nh: khu vực
Châu Phi, vùng Trung Cận Đông… mà điển hình là các lò lửa chiến tranh Ấn Độ –
Pakistan; Ixaren – Plestin, mà gần đây nhất là sự kiện ngày 11/09/2001 làm chấn động nớc
Mỹ. Làm dấy lên làn sóng khủng bố khắp nơi trên thế giới; rồi sự kiện chiến tranh Irắc;
vấn đề hạt nhân ở Bắc Triều Tiên…đã trở thành vấn đề mà các quốc gia luôn phải cân
nhắc. Các xu thế cạnh tranh đối địch giữa các quốc gia, mâu thuẫn luôn luôn cùng tồn tại
và phát triển. Nhng nó không thể nào, ngăn cản đợc xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá.
Ngày nay, xu thế này đã trở thành một yêu cầu khách quan của nền kinh tế thế giới.
Thêm vào đó là, sự bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật – công nghệ, đã mở ra một
kỷ nguyên mới cho sự phát triển, cạnh tranh và hợp tác giữa các nớc trên thế giới mà nổi
bật là vấn đề toàn cầu hoá. Vậy toàn cầu hoá là gì?
Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu đã đợc dự đoán từ lâu. Về logic, xu hớng này bắt
nguồn từ bản chất của hệ thống kinh tế thị trờng là hệ thống “mở” không bị giới hạn bởi
các đờng biên giới quốc gia. Đây là kết quả của quá trình phân công lao động quốc tế, đợc
đẩy nhanh trong mấy thập niên thập niên gần đây. Phân công lao động quốc tế đã đạt đến
trình độ, không chỉ chuyên môn hoá chi tiết sản phẩm cho nhà máy, từng vùng mà còn đến
từng quốc gia, khu vực. Trên cơ sở đó, xuất hiện hình thái quan hệ hợp tác, ràng buộc và
phụ thuộc lẫn nhau trong phân công lao động giữa các nớc trong khu vực và trên thế giới.
Hiện nay, sản xuất của một nớc phụ thuộc rất nhiều vào lao động của một nớc khác,
bất kể nớc đó phát triển hay kém phát triển. Không còn tình trạng, chỉ có nớc nhỏ, nớc
kém phát triển phụ thuộc một chiều, phụ thuộc tuyệt đối vào các nớc lớn, nớc phát triển
mà đã xuất hiện và gia tăng xu hớng ngợc lại: các nớc lớn, nớc phát triển cũng phụ thuộc
vào nớc nhỏ, nớc lạc hậu.
Quá trình toàn cầu hoá, đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển theo một chiều
hớng mới. Với lực lợng sản xuất phát triển nh vũ bão cha từng có, trên cơ sở của nền công
nghệ mới hiện đại đợc thể hiện ở một số mặt sau:
Thứ nhất, có thể nói, xu hớng toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế là nhân tố đầu tiên
tác động đến việc thiết lập các chiến lợc kinh tế đối ngoại của các nớc. Nhằm thích ứng
với một môi trờng kinh tế quốc tế mới, đã và đang thay đổi. Mục tiêu cuối cùng của các
nhà kinh doanh là lợi nhuận, thị phần và những ảnh hởng quốc tế ngày càng sâu rộng của
mình tới thị trờng các nớc. Để đạt đợc mục đích này, các quốc gia phải bắt kịp, thích ứng
và thậm chí phải đón đầu, đi trớc thời đại với những công nghệ mới hiện đại và cả những
triển vọng phát triển mới của nền kinh tế thế giới trong tơng lai.
Thứ hai, trong quá trình toàn cầu hoá, tiến bộ công nghệ nói chung, đặc biệt là sự
bùng nổ của cách mạng tin học trong những năm gần đây, đã đẩy mạnh, đẩy nhanh quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tin học trong nhiều quốc gia
trên thế giới. Đây là nhân tố nổi bật, giúp cho việc điều hành dễ dàng, các hoạt động kinh
tế quốc tế phân tán ở nhiều nớc khác nhau trên thế giới. Bằng cách sử dụng rộng rãi các
thiết bị tin học, viễn thông ở nhiều quốc gia. Nhờ đó mà, các quốc gia phát triển và các
nhà kinh doanh, doanh nghiệp… không những có thể mở rộng các hoạt động kinh tế về
quy mô ra nớc ngoài, mà còn có thể tăng cờng các hoạt động kinh tế về chiều sâu, đổi mới
về phơng thức tổ chức và quản lý.
Thứ ba, dới tác động của toàn cầu hoá và cách mạng tin học, quá trình liên kết khu
vực cũng đang diễn ra mạnh mẽ giữa các nớc, đòi hỏi các quốc gia phải sử dụng tối u các
nguồn lực để hội nhập có hiệu quả vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế.
Các tiến trình này sẽ làm nảy sinh nhu cầu kết hợp chặt chẽ giữa các chính sách thơng mại
với đầu t và viện trợ…, đẩy mạnh tự do hoá thị trờng, bằng cách dỡ bỏ các hàng rào thuế
quan và phi thuế quan giữa các nớc.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá kinh tế nh con dao hai lỡi. Một mặt nó là cỗ xe có động cơ
mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, tạo cơ hội to lớn để cải thiện điều kiện sống của
ngời dân ở các nớc giầu lẫn nớc nghèo. Nhng mặt khác, nó cũng là cả một tiến trình đầy
gian nan và thách thức. Nó sẽ tiến công vào chủ quyền của mỗi quốc gia, có thể làm xói
mòn nền văn hoá và truyền thống của dân tộc, dẫn tới nguy cơ phân hoá xã hội, tạo ra hố
ngăn cách giữa các quốc gia cũng nh các tầng lớp trong xã hội và nó ngày càng trở nên
mạnh mẽ và sâu sắc hơn.
Nh vậy toàn cầu hoá là một xu hớng khách quan và xu hớng này đang trong quá
trình vận động không ngừng, tạo những cơ hội và cả những thách thức cho tất cả các quốc
gia. Vì vậy, các quốc gia cần phải biết khai thác những u thế và hạn chế những thách thức
của toàn cầu hoá kinh tế quốc tế, từ đó tạo ra cơ hội để tham gia ngày càng có hiệu quả
hơn vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Cùng với quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng đang diễn ra đặc biệt mạnh mẽ.
Xu hớng tự do hoá thơng mại và đầu t đợc thúc đẩy bởi sự gia tăng mạnh mẽ các hoạt
động của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực hiện có cũng nh đang hình thành. Các
khối, tổ chức kinh tế ngày càng đóng vai trò quan trọng trong những cuộc thơng lợng, sắp
xếp và giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế, đặc biệt là trong việc thúc đẩy tự do hoá
thơng mại và giao lu kinh tế quốc tế. Bất kỳ một nớc nào muốn phát triển đợc trong tơng
lai thì đều phải tìm cách trở thành thành viên của ít nhất một trong những tổ chức kiểu nh
vậy. Quá trình toàn cầu hoá đã dẫn đến việc hình thành các khối kinh tế – mậu dịch tự do
trong khu vực. Hiện nay, nền kinh tế thế giới có rất nhiều khối liên minh, liên kết kinh tế
hoặc mậu dịch tự do. Ví dụ nh, liên minh Châu Âu (EU): đợc coi là một tổ chức liên kết
khu vực rất điển hình, đờng biên giới giữa các quốc gia đã bị xóa bỏ không còn hàng rào
thuế quan. Mặc dù tiến trình này, diễn ra không hoàn toàn suôn sẻ nh mong muốn, song
việc hình thành một thị trờng thống nhất đang ngày đợc hoàn thiện hơn. Mục tiêu của toàn
cầu hoá kinh tế đó là, lu thông tự do hàng hoá; các yếu tố - công nghệ sản xuất cả những
kinh nghiệm, kỹ năng quản lý… trên phạm vi toàn cầu. Nhng trong tơng lai gần, mục tiêu
này cha thể thực hiện đợc. Chính vì vậy, việc từng nhóm nớc liên kết lại với nhau, cùng đa
ra những u đãi cho nhau cao hơn những u huệ quốc tế hiện hành nh: loại bỏ những hàng
rào ngăn cách, lu thông hàng hoá và các yếu tố sản xuất… giữa các nớc. Đây là một khâu
quan trọng, đặt nền móng cho quá trình toàn cầu hoá về kinh tế đợc xúc tiến nhanh hơn.
Từ đó có thể khẳng định rằng, khu vực hoá và hợp tác kinh tế toàn cầu hoàn toàn không
mâu thuẫn với nhau mà hỗ trợ cho nhau, thúc đẩy lẫn nhau và bổ trợ cho nhau. Khu vực
hoá chỉ nảy sinh trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đã phát triển đến một mức độ nhất
định nào đấy. Nhng, trong trình độ hợp tác của khu vực hoá lại cao hơn so với toàn cầu
hoá kinh tế và khu vực hoá phát triển rộng rãi trên thế giới sẽ lại giúp cho hợp tác kinh tế
toàn cầu phát triển ngày càng sâu sắc hơn.
Hai tổ chức khu vực có tác động và ảnh hởng trực tiếp nhất, liên quan mật thiết đến
quan hệ kinh tế đối ngoại của nớc ta, đặc biệt là quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản. Đó
là, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dơng (APEC) và Hiệp hội các nớc Đông
Nam Á (ASEAN).
APEC đợc thành lập vào tháng 11 năm1989. Lúc đầu, chỉ có 18 nớc thành viên.
Hiện nay, có 21 nớc trong đó có Nhật Bản và Việt Nam. Đây là tổ chức hợp tác kinh tế
khu vực có quy mô lớn nhất thế giới. Dân số xấp xỉ 2165,5 triệu ngời (bằng 45,6 % dân số
thế giới); diện tích lãnh thổ 43.631,8 triệu km
2
(chiếm khoảng 46,7 % diện tích lãnh thổ
của toàn thế giới); GDP 15.526,23 tỷ USD (chiếm khoảng 55,8 % GDP của toàn thế giới);
và kim ngạch xuất khẩu 2.255,6 tỷ USD (chiếm khoảng 43,8 % tổng kim ngạch xuất khẩu
của toàn thế giới). Chính vì vậy, mô hình hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dơng và tiềm
năng to lớn của sự hợp tác kinh tế - kỹ thuật của APEC, đã và đang cuốn hút sự chú ý của
toàn thế giới. Thế kỷ 21 này, chắc chắn sẽ là thế kỷ phát triển đầy năng động của khu vực
Châu Á Thái Bình Dơng mà APEC là tổ chức hạt nhân. Việt Nam và Nhật bản đều là
thành viên chính thức của APEC. Do đó, các quan hệ kinh tế song phơng giữa hai nớc
cũng chịu sự ràng buộc, chi phối của những nguyên tắc mà tổ chức này đã đề ra.
Cùng với APEC, tổ chức kinh tế khu vực thứ hai có vai trò quan trọng, ảnh hởng
trực tiếp đến các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam và Nhật Bản là hiệp hội các nớc
Đông Nam Á (ASEAN).
ASEAN đợc thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967, lúc đầu thành lập mới có 5 nớc
thành viên. Hiện nay, đã phát triển và mở rộng ra toàn bộ các nớc Đông Nam Á. Bao gồm
11 nớc, trong đó có Việt Nam. Ngay trong ngày đầu thành lập, ASEAN đã long trọng
tuyên bố mục tiêu hàng đầu của Hiệp hội là: “Thúc đẩy sự tăng trởng kinh tế, tiến bộ xã
hội và phát triển văn hoá trong khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình
đẳng, hợp tác nhằm tăng cờng cơ sở vật chất cho một cộng đồng các nớc Đông Nam Á hoà
bình, hợp tác và thịnh vợng”. Kể từ đó cho đến nay, các nớc này luôn coi hợp tác kinh tế là
một trong những nội dung chủ yếu trong các hoạt động của mình. Là một nớc thành viên
của ASEAN, các quan hệ kinh tế của Việt Nam với Nhật Bản, nhất là trong quan hệ của
ASEAN cộng 3 gồm (Trung Quốc; Nhật Bản; Hàn Quốc) vừa chịu sự chi phối của những
nguyên tắc chung trong hợp tác kinh tế của Hiệp hội với các nớc trong khu vực và các khu
vực khác, vừa nằm trong bối cảnh chung quốc tế, chịu sự chi phối của các chính sách kinh
tế đối ngoại của Nhật Bản với các nớc trong khu vực này.
Mặc dù có sự thành công không giống nhau, song thực tiễn hoạt động của các hình
thức liên kết khu vực nh trên cho thấy, quá trình khu vực hoá giúp các quốc gia trong khu
vực có cùng những điều kiện nhất định hỗ trợ nhau cùng phát triển, tạo ra lợi thế cạnh
tranh chung (lợi thế so sánh khu vực) trên pham vi toàn cầu. Đồng thời, tạo điều kiện để
có đợc quan hệ giao lu kinh tế phát triển rộng rãi, không chỉ giữa các quốc gia trong khu
vực với nhau mà giữa khu vực với khu vực và giữa các quốc gia trong khu vực với các
quốc gia khác trên thế giới.
Cùng với sự phát triển không ngừng của xu thế này, sự dựa vào nhau, hỗ trợ nhau,
tác động và ảnh hởng lẫn nhau của kinh tế các nớc ngày càng sâu sắc. Trách nhiệm của
chính phủ các nớc, phải dựa trên cơ sở của tinh thần: cùng nhau gánh chịu trách nhiệm và
sự rủi ro (nếu có) để tiến hành hợp tác, phối hợp quốc tế rộng rãi và có hiệu quả trong việc
tham gia vào quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá.
Tóm lại, toàn cầu hoá và khu vực hóa luôn gắn liền với nhau, tạo động lực thúc đẩy
nhau làm cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển. Trong xu thế ngày nay, mỗi
dân tộc (quốc gia), đều tìm cố gắng tìm cho mình một chỗ đứng để nâng cao vị thế của
mình trên trờng quốc tế. Vị thế chính trị của mỗi nớc, phụ thuộc rất nhiều vào sức mạnh
kinh tế của nớc đó. Vì vậy, mỗi nớc đều phải cố gắng thích nghi với luật chơi chung của
các nớc trong khối, thế giới. Đồng thời phải cố gắng bảo vệ lợi ích dân tộc mình, giữ gìn
bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc.
1.2 Cơ sở thực tiễn
Bao gồm các nhân tố cả chủ quan cũng nh thực tiễn khách quan của hai phía Việt
nam và Nhật Bản.
1.2.1 Các nhân tố từ phía Nhật Bản.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nớc xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào đầu
những năm 1990, làm cho chiến tranh lạnh kết thúc. Không còn sự chạy đua vũ trang giữa
hai cực nữa. Ngời ta coi cuộc chiến tranh lạnh mà thực chất là sự đối đầu về t tởng, chính
trị quân sự giữa Liên Xô và Hoa Kỳ đã chấm dứt. Tình hình thế giới đã mở ra một kỷ
nguyên mới cho sự phát triển, ở đó hợp tác và cạnh tranh trở thành hai mối quan tâm lớn
của các quốc gia. Cơ cấu hai cực chấm dứt và phát triển, xu hớng tiến tới đa cực. Trớc sự
biến chuyển tình hình kinh tế thế giới, chủ yếu dựa vào sức mạnh kinh tế của mình, các
nhà hoạch định chính sách kinh tế Nhật Bản đã xây dựng chiến lợc kinh tế, với mục tiêu
vơn lên trở thành một cờng quốc cả về kinh tế lẫn chính trị.
Mục tiêu của Nhật Bản trong những năm tiếp tới đây là, vơn lên vị trí trở thành một
cờng quốc chính trị, kinh tế. Mục tiêu này đợc thể hiện rất rõ trong chiến lợc kinh tế nói
chung và trong chiến lợc kinh tế đối ngoại nói riêng của Nhật Bản. Nhật Bản từng bớc
giảm dần sự phụ thuộc vào Mỹ, vơn lên vị trí ngang hàng với Mỹ (Nhật Bản có thể trả lời
“không” trong đàm phán với Mỹ). Để thực hiện đợc chiến lợc đó, Nhật Bản ra sức phát
triển quan hệ với các khu vực kinh tế thông qua hoạt động thơng mại, đầu t trực tiếp và các
khoản viện trợ cho các nớc. Bên cạnh đó, trớc sự tăng trởng kinh tế mạnh mẽ của các
quốc gia khu vực Châu Á trong vài thập kỷ qua và với những lợi thế gần gũi về mặt địa lý,
văn hoá xã hội, Nhật Bản đã xây dựng đợc mối quan hệ tốt đẹp với các nớc. Họ đã có một
chiến lợc kinh tế đối với các khu vực Châu Á. Đây đợc coi là chiến lợc trọng tâm để phát
triển chiến lợc kinh tế đối ngoại của Chính phủ Nhật Bản trong thời gian tới.
Thay đổi chiến lợc của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh lạnh là, chú trọng vào khu
vực Châu Á - Thái Bình Dơng, phát triển các quan hệ phụ thuộc lẫn nhau cùng nhau phát
triển trong khu vực; phát huy vai trò toàn diện của các tổ chức hợp tác khu vực. Hợp tác
với các tổ chức quốc tế nh Liên Hợp Quốc và tổ chức mậu dịch thế giới Điều này, thể
hiện trong chính sách áp dụng vào Châu Á của Nhật Bản, nhằm phát huy tối đa vai trò của
mình ở Châu Á và sử dụng Châu Á làm căn cứ để Nhật Bản vơn lên trở thành một cờng
quốc. Nhật Bản tranh thủ sự phát triển kinh tế của ở Đông Á để đối phó với những chính
sách bảo hộ mậu dịch của Mỹ và bảo vệ lợi ích của Nhật Bản ở Châu Á - Thái Bình Dơng
bằng các cơ chế kinh tế. Đồng thời đóng vai trò chủ đạo trong công cuộc xây dựng trật tự
mới ở Châu Á. Thông qua cuộc họp thợng đỉnh APEC ở Seattle, Nhật Bản cảm thấy Mỹ
đang chuyển chính sách hớng về Châu Á. Sợ rằng, vai trò lãnh đạo Châu Á - Thái Bình
Dơng sẽ có thể rơi vào tay Mỹ sẽ làm mất đi vai trò ảnh hởng của mình. Hơn nữa, trớc
việc Mỹ, Canada, Mêhicô tăng cờng bảo hộ mậu dịch với việc thành lập khu vực mậu dịch
tự do của ba nớc và sự lớn mạnh của cộng đồng kinh tế Châu Á đã buộc Nhật Bản phải có
chính sách phát triển hợp lý trong trong nội bộ nớc mình và đối với các nớc Châu Á.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, Nhật Bản luôn giữ vai trò là đại diện ở khu vực Châu
Á. Nhng quan hệ với các nớc khu vực Châu Á thì Nhật Bản lại đóng vai trò quan trọng
dờng nh là quốc gia ngoài khu vực. Chính vì lẽ đó, các nớc thuộc khu vực Châu Á vừa là
lực lợng đối tác “sân sau” của Nhật Bản trong quan hệ kinh tế với Mỹ và các khu vực kinh
tế khác, đồng thời là một “bãi cỏ” con voi Nhật Bản khai thác.
Nhật Bản đang thực hiện chiến lợc kinh tế đối ngoại hớng về Châu Á, xuất phát từ
nhiều lý do khác nhau. Ở phơng diện kinh tế, cần nhấn mạnh tới, đây là khu vực có nhiều
lợi thế về Địa lý – Kinh tế, dân số, xã hội…
* Châu Á là khu vực có số dân chiếm khoảng hơn 1/3 dân số thế giới, chiếm gần 1/3
diện tích toàn cầu với hệ sinh thái, tài nguyên đa dạng, phong phú, nguồn nhân lực dồi dào
với trình độ khá cao. Do đó, gia tăng quan hệ kinh tế với các nớc ở Châu Á có nền nông
nghiệp lạc hậu để tăng cờng sự lệ thuộc về kinh tế, chính trị. Để có vốn và công nghệ hiện
đại cho quá trình công nghiệp hoá, các nớc này sẵn sàng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh
tế với các nớc khác đặc biệt là Nhật Bản.
* Hơn nữa, nếu chỉ xét riêng về phía Nhật Bản, có thể nói đây là quốc gia có
tiềm lực kinh tế hàng đầu trong khu vực lại luôn d thừa vốn, công nghệ hiện đại, trình độ
quản lý tiên tiến Với sự phát triển năng động của Châu Á, làm cho ý tởng quay về với
Châu Á ngày càng trở nên rõ nét hơn trong chính sách của các nhà lãnh đạo cũng nh các
nhà kinh doanh Nhật Bản.
* Ngoài ra, sự tác động xu hớng toàn cầu hoá và khu vực hoá đợc coi là yếu
tố quan trọng thúc đẩy sự thay đổi trong chính sách đối ngoại, đẩy mạnh bành chớng kinh
tế ra bên ngoài của Nhật trong những năm 1990, đặc biệt là vào các nớc ở khu vựoc Châu
Á.
* Sau chiến tranh lạnh, Nhật Bản nhận thức đợc rằng, tình hình phát triển ở
khu vực Châu Á sẽ tiến triển theo chiều hớng tích cực. Ở đó, ngời ta tìm thấy sự hợp tác
chặt chẽ giữa các quốc gia, nhằm tận dụng những lợi thế so sánh để tiếp tục duy trì sự phát
triển đó cũng là giải pháp tốt để các quốc gia trong khu vực này vợt qua, khắc phục đợc
cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực. Dờng nh, các đối tác đều nhận thức đợc tầm
quan trọng của mối liên kết toàn diện. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và an ninh …ngày
càng phát triển, bất chấp sự khác biệt về chế độ chính trị. Đây là nét mới về chất trong
quan hệ kinh tế quốc tế và khu vực những năm đầu thập kỷ 90. Nếu trớc đây, sự khác biệt
về chế độ chính trị là một trở ngại trong việc xác lập các quan hệ quốc tế, tin cậy lẫn nhau
mà ngời ta cố gắng vợt lên, song đã không thành công thì ngày nay tình hình đã đổi khác.
Chính bối cảnh này, tình hình khu vực đã tạo tiền đề cho Nhật Bản thực thi
tốt chính sách mở rộng hợp tác kinh tế, chính trị và văn hoá với các nớc ASEAN, trong đó
có Việt Nam.
Trên cơ sở đó có thể thấy rằng, vào đầu thập kỷ 90, quan hệ hai nớc Việt Nam -
Nhật Bản đã phát triển nhanh chóng cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Tạo cơ sở vững chắc cho
sự phát triển ổn định trong thế kỷ XXI. Trong giai đoạn quá độ của quá trình toàn cầu hoá,
việc cơ cấu lại tơng quan lực lợng trong khu vực và trên thế giới, làm cho quan hệ Việt –
Nhật có điều kiện phát triển thuận lợi hơn so với các nớc khác, do hai nớc có những lợi ích
tơng đồng là cùng ở Châu Á; cùng có nhu cầu hoà bình và ổn định để phát triển; có tiềm
năng kinh tế cần bổ sung cho nhau và cần có sự ủng hộ lẫn nhau trong việc nâng cao vai
trò chính trị ở khu vực cũng nh trên thế giới. Hơn nữa, Việt Nam ngày càng có vị trí quan
trọng trong chính sách của Nhật Bản đối với Châu Á - Thái Bình Dơng đặc biệt là Đông
Nam Á. Trong sự vận động của quan hệ Nhật – Mỹ, Nhật – Trung, Nhật – ASEAN, Nhật
Bản có lợi ích lớn về kinh tế, chính trị… trong quan hệ với Việt Nam.
1.2.2 Các nhân tố từ phía Việt Nam
Nớc ta và một số nớc khác, đã có lúc xem xét vấn đề độc lập kinh tế, xây dựng một
nền kinh tế hoàn chỉnh mang tính tự túc (tự cung tự cấp) để tránh sự lệ thuộc vào bên
ngoài. Có thể nói, việc mở rộng thơng mại quốc tế cùng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại
khác, vận dụng một trong những bài học kinh nghiệm quý báu, đợc rút ra từ thực tiễn của
nớc ta trong những năm qua. Kế thừa và phát huy có chọn lọc các quan điểm đổi mới của
Đại hội Đảng VI, Đại hội Đảng VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra nh: chiến lợc
ổn định và phát triển kinh tế – Xã hội đến năm 2000 tiếp tục khẳng định quyết tâm thực
hiện công cuộc đổi mới, phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trờng có sự định hớng của nhà nớc theo định hớng XHCN. Trong lĩnh vực
ngoại thơng, để tiến tới “tự do hoá thơng mại”, từng bớc tham gia, hội nhập với các tổ
chức thơng mại khu vực và toàn cầu, nhiều văn bản, chính sách mới về các hoạt động xuất
nhập khẩu, đặc biệt là khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nớc sản xuất
kinh doanh hàng xuất khẩu, kêu gọi các nhà đầu t nớc ngoài tham gia đầu t liên doanh với
Việt Nam để phát triển sản xuất các mặt hàng xuất khẩu… đã đợc chính phủ ban hành.
Với nhiều biện pháp cải cách mạnh mẽ và táo bạo, sau 15 năm kiên trì thực hiện
đờng lối đổi mới, Việt Nam đã từng bớc hình thành nền kinh tế thị trờng với những nét đặc
trng riêng của mình. Không chỉ vợt ra khỏi khủng hoảng về kinh tế mà còn, thu đợc những
thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực cả về kinh tế và xã hội. Thời kỳ từ năm 1991 – 1995,
GDP tăng bình quân hằng năm xấp xỉ 8,2 %; thời kỳ từ năm 1996 – 2000, mặc dù chịu ảnh
hởng bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực nhng mức tăng trởng GBP vẫn đạt
mức bình quân xấp xỉ 7 %. Nhờ vậy, tổng thu nhập trong 10 năm đã qua tăng hơn 2 lần, cơ
cấu kinh tế có sự dịch chuyển tích cực theo hớng CNH – HĐH (Công nghiệp hoá - Hiện
đại hoá), tạo tiền đề cho những thay đổi sâu sắc cho nền kinh tế Việt Nam phát triển và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Với phơng châm “muốn làm bạn với tất cả các nớc”, Việt Nam đã thực hiện một
chính sách đối ngoại rộng mở. Tính đến nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức của hai
tổ chức kinh tế khu vực là ASEAN, APEC và đang tích cực chuẩn bị gia nhập WTO.
Ngoài ra, Việt Nam có quan hệ thơng mại với gần 170 nớc và vùng lãnh thổ, ký hiệp ớc
thơng mại với hơn 60 nớc và nhận đợc u đãi tối huệ quốc của 68 nớc.
Nhật Bản, với t cách là một nớc có tiềm năng về kinh tế, có vai trò ổn định và hỗ trợ
phát triển trong khu vực… đã trở thành một đối tác đang là hớng u tiên để Việt Nam thiết
lập quan hệ lâu dài. Điều này, không chỉ nhằm mục đích duy trì môi trờng ổn định xung
quanh, mà Việt Nam còn mong muốn nhận đợc sự giúp đỡ từ phía Nhật Bản. Hơn thế nữa,
Nhật Bản cũng đã bắt đầu thể hiện vai trò của mình bằng các sáng kiến trong hành động cụ
thể của mình, đặc biệt trong quan hệ với các nớc Đông Nam Á. Vì thế, những thắc mắc trở
ngại trong quan hệ giũa hai nớc dễ dàng đợc tháo gỡ, nhanh chóng tìm kiếm các biện pháp
để thúc đẩy các mối quan hệ ảnh hởng này. Khi Việt Nam mở cửa hội nhập, chính thức trở
thành viên chính thức của Hiệp hội các nớc Đông Nam Á (ASEAN). Cũng nh trong quan
hệ với Việt Nam chắc chắn Nhật Bản sẽ có điều kiện mở rộng ảnh hởng của mình. Điều
này, không chỉ tạo ra sự cân bằng trong quan hệ với các nớc, mà còn là dấu hiệu về tính
chủ động và độc lập trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản nhằm nâng cao vị thế của
mình trong khu vực và trên thơng trờng quốc tế.
1.3 Ý nghĩa của quan hệ thơng mại giữa Việt Nam – Nhật Bản.
Việt Nam, hiện đang trong giai đoạn nền kinh tế chuyển đổi, quá trình tái cơ cấu
nền kinh tế theo hớng CNH – HĐH đang đợc đẩy mạnh. Chu trình đổi mới toàn diện đợc
bắt đầu từ năm 1986, đã làm cho nền kinh tế thay đổi một cách cơ bản. Những thành tựu,
mới đạt đợc là bớc đầu nhng rất quan trọng. Nh việc chuyển từ một nền kinh tế thiếu hụt
về lơng thực, thực phẩm sang một nền kinh tế có d thừa và xuất khẩu lơng thực, kiểm soát
đợc lạm phát, không ngừng mở rộng, phát triển các mối quan hệ kinh tế với các nớc bên
ngoài, tăng trởng kinh tế cao, cải thiện điều kiện sống… và những nhu cầu cơ bản khác
của mọi tầng lớp xã hội đợc đáp ứng. Điều quan trọng nhất là, sự chuyển đổi của cả một
hệ thống kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Đó là những nhân tố quyết
định, đánh dấu sự cố gắng nỗ lực của toàn thể dân tộc Việt Nam để đạt tới “điểm cất cánh”.
Và đây cũng là những nhân tố, làm cho Việt Nam có khả năng thực hiện một chiến lợc
mới về CNH – HĐH đất nớc. Để thực hiện đợc chiến lợc mới này trong tơng lại, Việt Nam
cần thực hiện ba nhiệm vụ chiến lợc chính sau đây:
- Thứ nhất; phát triển cơ sở hạ tầng Kinh tế - Xã hội và thực hiện tái đầu t theo
hớng CNH – HĐH.
- Thứ hai; Tổ chức lại và phát triển các lực lợng chủ chốt trong cơ cấu kinh tế đa sở
hữu, đặc biệt là khu vực nhà nớc một khu vực đóng góp rất lớn cho tổng thu nhập quốc
dân (GDP) của Việt Nam. Nó có thể tiếp tục, đóng vai trò là lực lợng chính và cơ bản
trong nền kinh tế thị trờng trong khoảng hai đến ba thập kỷ tới.
- Thực hiện chính sách: kết hợp giữa tăng trởng cao với công bằng xã hội.
Để thực hiện tốt những nhiệm vụ này, Việt Nam phải đơng đầu với những khó khăn
lớn nh:
+ Thiếu hụt vốn.
+ Thiếu công nghệ hiện đại.
+ Thiếu kinh nghiệm quản lý cả về vĩ mô cũng nh là vi mô.
+ Sự cách biệt thu nhập ngày càng gia tăng tạo nên hố ngăn cách, phân hoá giữa
giầu và nghèo. Những tiêu cực trong phát triển nền kinh tế thị trờng nh: tham nhũng, buôn
lậu và sự sa sút môi trờng…
Những khó khăn trên đây, không thể vợt qua đợc nếu chỉ dựa vào những nỗ lực của
bản thân Chính phủ và nhân dân Việt Nam. Thực hiện chính sách đối ngoại theo hớng đổi
mới, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hữu nghị với tất cả các nớc trong khu vực, lần đầu tiên
trong lịch sử có quan hệ ngoại giao với tất cả các nớc t bản lớn. Việt Nam cũng có quan hệ
thân thiện với các nớc Tây Bắc âu; duy trì quan hệ truyền thống với các nớc Đông Âu và
các quốc gia thuộc Liên Xô cũ; có uy tín trong các nớc đang phát triển và phong trào
không liên kết. Vai trò và uy tín quốc tế của Việt Nam sẽ tăng lên gấp bội, khi Việt Nam
đủ điều kiện cất cánh về kinh tế. Với điều kiện địa lý tự nhiên thuận lợi, cộng với sự tơng
đồng về văn hoá, phong tục tập quán giữa hai dân tộc Việt Nam – Nhật Bản tạo thêm
nhiều thuận lợi để phát triển mối quan hệ kinh tế – thơng mại ngày càng tốt đẹp hơn, mang
lại nhiều lợi ích hơn nữa cho cả hai bên. Nhận thức đợc điều này, trong những năm qua,
với sự cố gắng nỗ lực của cả hai bên đã làm cho quan hệ giữa hai nớc đã đợc thiết lập và
mang lại những thành công đáng kể cho cả hai bên.
Trớc hết đối với Việt Nam, việc phát triển quan hệ kinh tế thơng mại sẽ đem lại
nhiều thuận lợi cho quốc gia trong lĩnh vực ngoại thơng. Nhật Bản, có một thị trờng tiêu
thụ rộng lớn cho các sản phẩm của Việt Nam nh: Dầu thô, hàng Dệt may, Giầy dép da,
Than, Cafe… và các hàng nông sản khác. Nhờ đó, tích luỹ đợc một nguồn ngoại tệ đáng
kể cho đất nớc, góp phần đáng kể vào công cuộc đổi mới đất nớc. Mặt khác, thông qua
nhập khẩu, nhu cầu tiêu dùng của ngời Việt Nam sẽ đợc thoả mãn với những hàng hoá có
chất lợng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, nhiều tính năng tác dụng do Nhật Bản sản xuất. Đây
cũng là một động lực để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nớc với
hàng hoá nhập khẩu từ Nhật Bản. Hơn nữa khi tham gia vào quan hệ ngoại thơng với Nhật,
Việt Nam có thể nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại từ một nớc có công nghệ tiên tiến nh
Nhật Bản, để từ đó đẩy mạnh, nhanh hơn quá trình CNH – HĐH đất nớc, nâng cao năng
xuất lao động cho nền kinh tế nói chung.
Mặt khác, nhờ có một đội ngũ lao động lành nghề, có trình độ chuyên môn cao và
khả năng tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại, nên Nhật Bản đã khai thác và
sử dụng hiệu quả nhân tố này trong quá trình sản xuất, để tạo ra những sản phẩm có lợi
thế so sánh. Bên cạnh đó, Nhật Bản còn có lợi thế trong việc sử dụng và phát huy vốn đầu
t của mình. Thông qua hoạt động đầu t, Việt Nam đã thu hút đợc một nguồn vốn đầu t lớn
từ Nhật đó là: vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn đầu t trực tiếp (FDI); cũng
nh tiếp thu đợc những công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của Nhật Bản Với
luồng vốn đầu t trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam, sẽ cải thiện phần nào tình trạng
thiếu vốn, thiếu công nghệ mà các nớc đang phát triển trong đó có Việt Nam đang vấp
phải.
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại với Nhật Bản, Việt Nam nhận đợc nhiều những
khoản viện trợ phát triển chính thức (ODA) từ Nhật Bản. Đây là hoạt động viện trợ mang
tính chất chính phủ của Nhật Bản đối với công cuộc kiến thiết, phát triển đất nớc của Việt
Nam. Hoạt động này đợc chính phủ Nhật Bản tiến hành từ khá lâu và đóng một vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam cho tới nay. Thông qua nguồn
vốn ODA, Nhật bản đã hỗ trợ cho Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội vốn
lạc hậu, h hỏng và xuống cấp nghiêm trọng. Với các dự án xây dựng, tu sửa đờng xá, cẩu
cống, xây dựng hệ thống thông tin liện lạc, khai thác nguồn năng lợng… làm thay đổi bộ
mặt của đất nớc, đồng thời làm tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu t nớc ngoài.
Trong quan hệ kinh tế – thơng mại giữa Việt Nam – Nhật bản, không chỉ mang lại
nhiều thuận lợi cho Việt Nam mà về phía Nhật Bản cũng có nhiều lợi ích, góp phần vào
mục tiêu kinh tế – chính trị của họ. Về mặt kinh tế, Việt Nam là một thị trờng rộng lớn của
các doanh nghiệp Nhật Bản, đặc biệt là các mặt hàng nh đồ điện tử, điện lạnh. xe máy, ô
tô….
Ngoài ra, Việt Nam còn là một quốc gia có nguồn tài nguyên tơng đối đa dạng và
phong phú. Việt Nam nằm ở vùng nhiệt đới, thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp và
các cây công nghiệp. Bờ biển từ Bắc xuống Nam của Việt Nam chuyển hớng, uốn khúc
theo hình chữ “S”, kéo dài trên 15 vĩ độ. Bờ biển dài trên 3000 km là điểm thuận lợi để
Việt Nam phát triển các ngành thuỷ hải sản, cảng biển vận tải biển, du lịch, giao thông.
Bên cạnh đó, vùng Biển Việt Nam có thềm lục địa mở rộng hứa hẹn nhiều tài nguyên
khoáng sản đặc biệt là các kim loại quí hiếm và dầu mỏ. Mặt khác, cùng với sự gia tăng
đầu t sang Việt Nam, một thị trờng lao động rẻ, trẻ, có trình độ văn hoá khá… Các doanh
nghiệp Nhật Bản cũng tiết kiệm đợc chi phí sản xuất, cạnh tranh tốt hơn trong xuất khẩu,
gia tăng hiệu quả của nền sản xuất nói chung.
Ngoài những lợi ích về kinh tế, Nhật Bản còn đạt đợc những mục tiêu chính trị của
mình. Có thể nhận thấy rằng, từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN vào năm 1995, bình thờng
hoá quan hệ với Mỹ, đợc xét kết nạp vào diễn đàn APEC, cùng với những hoạt động tại
liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác, tiếng nói của Việt Nam trên các diễn đàn quốc
tế và khu vực đợc các nớc khác coi trọng. Với uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng tăng,
quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Nhật Bản có cơ hội phát triển lên một tầm cao mới.
Điều này góp phần làm tăng thêm vai trò vị trí quốc tế của Nhật Bản. Tuy Việt Nam không
phải là một trong những u tiên hàng đầu trong chính sách ngoại giao của Nhật Bản, song
Nhật Bản muốn phát huy vai trò chủ đạo ở khu vực và vai trò chính trị quốc tế, Nhật Bản
không thể không tính đến thực tại và tiềm năng của Việt Nam ở trong khu vực. Thực tế
quan hệ lịch sử của hai nớc và quan hệ quốc tế trong khu vực đã khẳng định điều này. Từ
lâu, Nhật Bản nhận thức rõ tầm quan trọng của Việt Nam trong chiến lợc Đông Nam Á
của mình. Sự ổn định chính trị và hợp tác quốc gia trong khu vực, có ý nghĩa tích cực đối
với mục tiêu và lợi ích trong chiến lợc của Nhật Bản.Trên thực tế, trong khi tình hình
chiến tranh lạnh đang căng thẳng, sự đối đầu tại khu vực còn nổi trội hơn xu hớng hợp tác
và quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia, thì Nhật bản không thể triển khai đợc chính sách
ngoại giao tích cực độc lập. Trong bối cảnh khu vực nh vậy, Nhật Bản bị sức ép từ bên
ngoài phải đứng vào vị trí của một bên, chống lại phía bên kia ngoài ý muốn. Hiện nay,
trong xu thế hợp tác, liên kết phát triển. Thực tế, Việt Nam đã gia nhập ASEAN, thì tình
hình này rất có lợi cho Nhật Bản, khi mà Nhật quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Ngời ta
không thể hình dung đợc một Đông Nam Á hoà bình, ổn định, phát triển mà không có Việt
Nam, một nớc có tiềm năng và đợc coi là một nớc cỡ lớn ở khu Vực Đông Nam Á. Chính
sách thúc đẩy quan hệ toàn diện với khu vực Đông Nam Á của Nhật Bản có nhiều cơ hội
thành công khi quan hệ giữa Việt Nam – Nhật Bản đợc tăng cờng. Mặt khác, Việt Nam có
vị trí chiến lợc quan trọng ở khu vực Đông Nam Á, nằm án ngữ các tuyến đờng giao thông
biển ở khu vực Thái Bình Dơng, có nhiều cửa ngõ thông ra biển thuận lợi, có các hải cảng
nh cảng Hải Phòng, Cam Ranh, Đà Nẵng, Vũng Tầu… có ý nghĩa về mặt quân sự cũng nh
kinh tế. Quyết định sử dụng những hải cảng này của Vệt Nam trong tơng lai, có thể xem
nh là một nhân tố tác động đến chiến lợc an ninh của Nhật Bản. Nhật Bản muốn bảo vệ
đợc vận tải biển qua biển Đông, cũng nh bảo đảm an ninh ở phía Tây Nam thì, không thể
không tính tới nhân tố này. An ninh kinh tế cũng nh an ninh quốc phòng của Nhật Bản phụ
thuộc nhiều vào khu vực biển Đông, nơi mà Việt Nam là một trong những đối tác chính.
Chơng 2
THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN TỪ NĂM
1992 ĐẾN NAY
Sau hơn 30 năm (1973 – 2004) thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, quan hệ
kinh tế thơng mại giữa Việt Nam - Nhật Bản trong mối quan hệ mới không ngừng đợc
củng cố và hoàn thiện. Trên cơ sở lợi ích riêng của hai nớc, mặc dù có sự khác biệt về
chính trị, nhng hai nớc đã có nhiều cố gắng duy trì và phát triển mối quan hệ này. Đặc biệt
từ năm 1992 đến nay, do đã có các bớc tiến triển khả quan với nhiều sự kiện lớn trong
quan hệ chính trị, ngoại giao, kinh tế giữa hai nớc khiến cho các hoạt động xuất nhập khẩu
đã diễn ra với tốc độ và quy mô ngày càng mạnh mẽ, sôi động hơn hẳn so với giai đoạn từ
năm 1986 đến 1991. Trớc khi đề cập đến quan hệ giữa hai bên từ năm 1992 đến nay,
chúng ta cần có cái nhìn tổng quan nhất về động thái phát triển kinh tế thơng mại giữa hai
nớc giai đoạn trớc năm 1992.
2.1 Sự tiến triển của quan hệ thơng mại giữa Việt Nam – Nhật Bản từ năm
1973 đến năm 1991
Sau khi hiệp định Pari, về việc chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam đợc ký kết,
ngày 21/9/1973 Việt Nam và Nhật Bản đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai
nớc. Hai năm sau, vào tháng 10 năm 1975, cả hai bên đã cùng mở đại sứ quán ở thủ đô của
nhau. Đã mở ra, một thời kỳ mới trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nớc. Cũng từ đó,
quan hệ hai nớc bớc sang một trang mới.
Trớc năm 1986, ngoài quan hệ với các thị trờng truyền thống khu vực 1 (các nớc
XHCN) Việt Nam đã từng bớc mở rộng quan hệ thơng mại với các nớc khác, các thị trờng
khu vực II (các nớc TBCN và các nớc đang phát triển). Đặc biệt năm 1976, Nhật Bản đã
trở thành bạn hàng lớn thứ hai sau Liên Xô về cả xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá.
Bảng 1: Danh sách 5 bạn hàng xuất khẩu lớn nhất cuả Việt Nam giai đoạn
(1976 – 1990)
Nớc Tỷ trọng trong tổng Kim ngạch
Xuật khẩu Việt nam (%)
Xếp
hạng
Liên
Xô
44.1 1
Nhật
Bản
40.6 2
Singap
ore
7.0 3
Hồng 7.0 4
Kông
Ba Lan 3.9 5
(Nguồn: Nguyễn Trần Quế: Kinh tế đối ngoại Việt Nam – Thực tiễn và chính sách,
Viện Kinh tế thế giới, Hà Nội,1992)
Bảng 2: Danh sách 5 bạn hàng nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam giai đoạn
(1976- 1990)
Nớc Tỷ trọng trong tổng Kim ngạch
Nhập khẩu Việt Nam (%)
Xếp
hạng
Liên
Xô
67.1 1
Nhật
Bản
6.7 2
Pháp 2.7 3
Tiệp
Khắc
2.3 4
Hồng
Kông
2.1 5
Nguồn: Nguyễn Trần Quế - Kinh tế đối ngoại Việt Nam – thực tiễn và chính sách.
Viện kinh tế thế giới, Hà Nội, 1992
Trong ba năm liền từ năm 1976 - 1978, quan hệ mậu dịch của hai nớc tiếp tục phát
triển, với tổng kim ngạch hàng năm tơng ứng khoảng 159 triệu USD, 247 triệu USD và
268 triệu USD. Nh vậy, có sự gia tăng quá nhanh về quy mô và giá trị.
Bớc sang năm 1979, do nhiều yếu tố phi kinh tế tác động nên mậu dịch song phơng
của hai nớc có sự giảm sút. Kim ngạch xuất khẩu chỉ còn 50 triệu USD, nhiều hợp đồng
làm ăn bị hoãn lại. Lý do cơ bản là vì các năm này, Nhật Bản không vợt ra khỏi áp lực
chính trị vì ảnh hởng d luận phản đối của các nớc t bản chủ nghĩa trên thế giới mà đứng
đầu không phải ai khác là Mỹ. Về thực trạng diễn biến quân sự, chính trị giữa Việt Nam và
Trung Quốc qua cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, cuộc dẹp bỏ chế độ Pôn-Pốt của Việt
Nam ở Campuchia phía Tây Nam, cộng thêm một số vấn đề khác nữa… Đã dẫn đến quyết
định tối cao của Bộ ngoại giao Nhật Bản ngày 8/1/1987, là sẽ hoãn viện trợ cho Việt Nam
cho đến khi nào các vấn đề trên đợc giải quyết ổn thoả. Tuy nhiên, Nhật Bản chỉ đình chỉ
mọi cuộc tiếp xúc ngoại giao hoặc tài trợ nhân đạo. Nói cách khác, đồng thời với việc đình
chỉ tài trợ kinh tế, Nhật Bản vẫn tiếp tục duy trì sự giúp đỡ nhân đạo cho Việt Nam trong
suốt thời gian từ năm 1979 đến trớc khi nối lại tài trợ ODA toàn diện cho Việt Nam năm
1992.
Bảng 3: Tài trợ của Nhật Bản và các nớc thuộc tổ chức DAC cho Việt Nam thời
kỳ 1979 – 1991
(đơn vị: triệu đô la Mỹ)
Nă
m
Từ
Nhật Bản
Từ
DAC
Nă
m
Từ
Nhật Bản
Từ
DAC
197
9
38,7 229,
6
198
6
1,5 54,2
198
0
3,7 158,
4
198
7
0,3 90,0
198
1
0,9 129,
4
198
8
4,8 65,8
198
2
1,3 104,
9
198
9
1,6 -
198
3
0,7 73,5 199
0
1,3 -
198
4
1,1 80,7 199
1
7,1 107,
7
198
5
0,6 54,2
(Nguồn: OECD, Development Assistance Committe Statistic và Japan’s ODA
Annual Report 1995)
Từ năm 1983 – 1986, quan hệ thơng mại giữa Việt Nam – Nhật Bản có xu hớng gia
tăng. Hoạt động xuất nhập khẩu đợc đẩy mạnh, điều này xuất phát từ nhu cầu kinh tế của
cả đôi bên nh: Việt Nam muốn có các sản phẩm hàng hoá công nghiệp cần thiết, phục vụ
cho nhu cầu thiết yếu, các thiết bị công nghệ hiện đại, phục vụ cho việc CNH - HĐH đất
nớc. Còn về phía Nhật Bản, họ lại muốn khai thác tài nguyên thiên nhiên, thị trờng, lao
động… của Việt Nam. Do vậy mà tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần 214 triệu USD
vào năm 1985. Trong đó, Việt Nam xuất sang Nhật Bản những sản phẩm thô có giá trị
thấp và nhập từ Nhật những hàng hoá có hàm lợng “chất xám” cao.
Bảng 4: Buôn bán giữa Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn (1973 – 1986)
(đơn vị: Nghìn đồng)
N
ăm
Kim ngạch
Xuất khẩu
Kim ngạch
Nhập khẩu
Tổng kim
ngạch Xuất nhập
khẩu
1
973
7.627 4.429 12.056
1
974
30.194 20.394 50.588
1
975
26.697 2.973 69.670
1
976
39.906 8.795 158.701
1
977
71.848 174.669 246.517
1
978
50.834 216.820 267.654
1
979
48.228 117.734 165.692
1
980
48.627 113.090 161.717
1
981
37.334 109.449 146.793
1
982
36.018 92.339 128.357
1
983
37.625 119.221 156.846
1
984
51.206 119.221 170.224
1
985
65.027 148.036 213.863
1
986
82.923 189.187 272.110
Nguồn; Bộ công nghiệp và mậu dịch quốc tế Nhật Bản
(Ghi chú: Từ năm 1973 – 1975, chỉ tính kim ngạch buôn bán với Bắc Việt Nam)
Giữa những năm 1980, nớc ta rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng do
lạm phát ba con số (lạm phát phi mã) gây nên. Đời sống của nhân dân rất khó khăn. Bên
cạnh đó, Mỹ lại thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, ngừng viện trợ và đầu t, kể cả các
khoản đã cam kết với chính phủ Việt Nam. Trớc tình hình đó năm 1986, nớc ta đã thực
hiện một bớc chuyển đổi cơ bản, từ chỗ nền kinh tế đóng sang mở cửa nền kinh tế. Việc
chuyển đổi này, đã giúp Việt Nam gặt hái đợc nhiều thành công trong thơng mại quốc tế.
Đợc sự ủng hộ và quan tâm hợp tác phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, trong đó có Nhật
Bản. Chỉ riêng trong lĩnh vực ngoại thơng, các hoạt động xuất nhập khẩu đều có sự tăng
trởng và phát triển khả quan. Thực tiễn phát triển đã cho thấy, kể từ năm 1989 trở đi, cùng
với các sự kiện Việt Nam rút hết quân ra khỏi Campuchia, hoà bình dợc thiết lập lại ở
Đông Dơng. Kinh tế – xã hội Việt Nam sau một số năm thực hiện đổi mới, đã ngày càng
ổn định hơn… tạo ra những tiền đề kinh tế - chính trị cần thiết đó, cũng là những động lực
thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế – văn hoá giữa Nhật Bản - Việt Nam ngày càng phát
triển mạnh mẽ hơn. Nhiều cơ quan Chính phủ và phi chính phủ, phụ trách về hợp tác kinh
tế đối ngoại của Nhật Bản đã đến Việt Nam để xúc tiến dần các hoạt động hợp tác kinh tế
giữa hai nớc. Đó là, các cơ quan nh Tổ chức xúc tiến mậu dich Nhật Bản (JETRO); Cục
hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA); Quỹ hợp tác kinh tế với nớc ngoài (OECF); Liên đoàn
các tổ chức kinh tế Nhật Bản (Keidanren)… Để chuẩn bị cho quá trình hợp tác kinh tế
giữa hai nớc ngày càng phát triển tốt hơn, phía Nhật Bản đã tổ chức các hoạt động giao lu:
Diễn đàn “kinh tế và văn hoá Nhật Bản” vào tháng 6 năm 1989 tại Tokyo… Đến tháng 9
năm 1989, phía Việt Nam đã phối hợp với Nhật Bản tổ chức hội thảo “giao lu kinh tế Nhật
- Việt” tại Hà Nội…
Nhờ những nỗ lực trên đây, các quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nớc đã có những
bớc chuyển biến rõ rệt cả về thơng mại và đầu t. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt – Nhật
năm 1991, đạt 879 triệu USD tăng 70,3 % so với năm 1989 và nếu so với năm 1986 là
năm đầu tiên của thời kỳ Việt Nam đổi mới thì đã tăng hơn 223,2 %. Đặc biệt là kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật, ngay từ những năm 1991 đã lên tới 662 triệu
USD, tăng 697,7%. Nhật Bản đã vơn lên trở thành bạn hàng nhập khẩu lớn nhất của Việt
Nam, thay thế vị trí của Liên Xô (cũ) khi đó đã và đang bị tan rã cùng với các nớc XHCN
ở Đông Âu cũ.
Có thể nói tóm lại, tình hình trớc năm 1992, cho phép chúng ta có thể rút ra đợc
những nhận xét nh sau:
- Sau một loạt những thay đổi của tình hình quốc tế và khu vực Châu Á Thái Bình
Dơng từ chính trị, đến an ninh, kinh tế, toàn cầu hoá và khu vực hoá trớc những năm 1992
đã tạo ra những cơ hội và thách thức cho các quốc gia trong quan hệ cả song phơng lẫn đa
phơng…, hối thúc các quốc gia thiết lập và mở rộng giao lu kinh tế song phơng; quan hệ
kinh tế giữa hai nớc Việt – Nhật đợc “tái lập” lại và thúc đẩy mạnh hơn.
- Nếu chúng ta coi bối cảnh quốc tế và khu vực là yếu tố tác động “bề ngoài”, thì
yếu tố Việt Nam – sự tiếp tục đổi mới kinh tế, những lợi thế và nhu cầu lợi ích… là những
yếu tố “bên trong” quan trọng thúc đẩy sự tái lập và phát triển quan hệ kinh tế với Nhật
Bản. Cả hai yếu tố này đều không thế thiếu, trong việc tạo ra cơ sở để cho quan hệ giữa
Việt – Nhật đợc phát triển.
- “Yếu tố Nhật Bản”, cũng là yếu tố “bên trong” không kém phần quan trọng trong
việc thúc đẩy quan hệ của hai nớc. Nói khác đi, chính tiếm lực kinh tế, chính sách kinh tế
đối ngoại hớng về Châu Á và lợi ích của Nhật Bản trong quan hệ với Việt Nam đã tạo ra
cơ sở cho quan hệ song phơng Việt Nam – Nhật Bản đợc phát triển.
2.2 Thực trạng phát triển Quan hệ thơng mại Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn
từ năm 1992 đến nay.
2.2.1 Tình hình chung của quan hệ thơng mại giữa Việt Nam và Nhật Bản trong
giai đoạn từ 1992 đến nay.
Trong thời kỳ từ năm 1991 đến năm 1996, là thời kỳ khó khăn nhất của Việt Nam,
do khối thị trờng mà Việt Nam có quan hệ chính trong hơn 40 năm qua là Liên Xô và các
nớc Đông Âu cũ đã bị sụp đổ vaò năm 1991. Thời kỳ có nhiều sự kiện quan trọng, tạo bớc
ngoặt lớn trong quá trình phát triển kinh tế của nớc ta. Trớc năm 1991, khối thị trờng Liên
Xô và các nớc Đông Âu cũ, chiếm tới hơn 50% thị phần xuất khẩu và gần 60% thị phần
nhập khẩu của Việt Nam. Sự sụp đổ của khối thị trờng này, làm cho kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam giảm 13% và kim ngạch nhập khẩu giảm 15% vào năm 1991. Nhng nhờ có
chính sách đổi mới của Chính phủ, Việt Nam đã nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế
khu vực, thế giới. Kết quả cho thấy thị trờng xuất nhập khẩu của Việt Nam đợc mở rộng,
từ quan hệ ngoại thơng với 40 nớc năm 1990 đã tăng lên 174 quốc gia và vùng lãnh thổ
năm 2003, trong đó hai châu lục có nhiều bạn hàng nhất là Châu Á (27,9%) và Châu Phi là
(25,6%). Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và ngoại thơng nói riêng, nhờ
có nỗ lực thực thi một chiến lợc phát triển kinh tế mở với nhiều giải pháp chính sách, cơ
chế quản lý ngày càng thông thoáng hơn trớc, nên chúng ta đã đợc sự quan tâm ủng hộ
hợp tác phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị khác nhau
trên thế giới, do đó đã gặt hái đợc nhiều thành công trong mọi hoạt động kinh tế đối ngoại.
Điều khá nổi bật, đang đợc nhiều nhà ngoại giao, nhà kinh doanh quan tâm. Và cũng chính
ở thời kỳ này, quan hệ Việt - Nhật đợc phát triển mạnh mẽ và toàn diện. Mang trong nó
nhiều đặc trng mới, điều mà không phải thời kỳ nào cũng có đợc nếu không muốn nói là
cha bao giờ có. Vì vậy, ngời ta đã nói đến một thời kỳ mới trong quan hệ Việt – Nhật.
Chính sự phát triển này, đã tạo lập những tiền đề vững chắc trong quan hệ hai nớc hớng tới
thế kỷ 21. Đặc biệt từ năm 1992 đến nay, đã có sự tiến triển khả quan với nhiều sự kiện
đáng ghi nhớ trên các lĩnh vực thơng mại, đầu t trực tiếp FDI và viện trợ phát triển chính
thức ODA.
Sự kiện đầu tiên diễn ra trong tháng11/1992 đó là: khi chính phủ Nhật Bản tuyên bố
nối lại viện trợ phát triển chính thức ODA cho Việt Nam thì mọi rào chắn đã đợc tháo gỡ,
quan hệ hữu nghị Việt – Nhật ngày càng trở nên thân thiện.
Cũng ngay sau đó, vào tháng 12/1992, chính phủ Nhật Bản tiếp tục tuyên bố huỷ bỏ
chế độ quy chế “hạn chế xuất khẩu một số hàng hoá kỹ thuật cao, hàng chiến lợc sang các
nớc XHCN trong đó có Việt Nam đã đợc áp dụng từ năm 1977”. Nhờ đó, Việt Nam đã có
thể nhập khẩu những máy móc thiết bị hiện đại của Nhật Bản để phục vụ cho quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế, điều mà nhiều năm trớc đó không thể làm đợc.
Chính vì thế năm 1992, đã đợc ghi nhận là năm có ý nghĩa rất quan trọng trong quan
hệ giữa hai nớc, vì đó chính là một bớc ngoặt trong sự tiến triển của quan hệ thơng mại
Việt Nam – Nhật Bản. Việc Nhật Bản cung cấp trở lại ODA cho Việt Nam, không chỉ đơn
thuần có ý nghĩa khai thông quan hệ cung cấp viện trợ của họ cho ta, mà còn là tín hiện bật
đèn xanh khai thông cho cả quan hệ kinh tế thơng mại và đầu t phát triển. Từ đó trở đi, sẽ
có thêm nhiều thuận lợi cho sự phát triển quan hệ kinh tế thơng mại giữa hai nớc. Thực
tiễn phát triển những năm qua kể từ năm 1992 trở đi, đã cho thấy rõ tình hình khả quan
này. Các quan hệ thơng mại, đầu t trực tiếp FDI và viện trợ phát triển chính thức ODA đều
gia tăng liên tục và có điểm mới nhất là tất cả các quan hệ đó đều đã tạo động lực hỗ trợ,
thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Nói tóm lại, hoàn cảnh môi trờng quốc tế và khu vực thuận lợi; công cuộc đổi mới
của Việt Nam với các chính sách phát triển kinh tế đối ngoại năng động, phù hợp với xu
thế phát triển thời đại, lợi ích của hai bên Nhật Bản - Việt Nam đã là những nguyên nhân
cơ bản nhất, quan trọng nhất thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế - thơng mại giữa hai nớc
phát triển ngày càng mạnh mẽ, sôi động hơn và cũng ngày càng đi vào thế ổn định hơn,
vững chắc hơn. Đơng nhiên, đó mới chỉ là những nguyên nhân có tính khách quan bên
ngoài đối với Nhật Bản. Điều cần lu ý là về phía những nhân tố chủ quan Nhật Bản đã tạo
ra. Nh đã phân tích ở chơng 1, sở dĩ trong suốt thập niên 90 vừa qua, đã có nhiều nỗ lực
trong các quan hệ hợp tác kinh tế thơng mại với Việt Nam còn là do sự chuyển hớng chiến
lợc trong chính sách đối ngoại và chính sách kinh tế đối ngoại của Nhật Bản đối với các
nớc ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng.
2.2.2 Thực trạng phát triển quan hệ thơng mại Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn từ
năm 1992 đến nay.
Nh đã phân tích ở trên, quan hệ thơng mại Việt Nam – Nhật Bản ngày càng phát
triển, nhất là từ năm 1992 trở lại đây, do chính sách hợp tác hữu nghị, đã làm cải thiện
thông thoáng hơn, sau khi có sự kiện Phía Nhật Bản đã chính thức nối lại viện trợ phát
triển chính thức (ODA) cho Việt Nam vào tháng 11/1992. Đặc biệt là sau một loạt các sự
kiện quan trọng trong hai năm 1994 và 1995: Mỹ huỷ bỏ chính sách cấm vận thơng mại
chống Việt Nam vàn tháng 7/1995; Việt Nam gia nhập ASEAN cũng vào tháng 7/1995 thì
các quan hệ kinh tế, đặc biệt là quan hệ thơng mại Việt Nam - Nhật Bản càng đợc phát
triển mạnh mẽ và sôi động hơn.
Nếu tính từ năm 1986, là năm khởi đầu công cuộc đổi mới với tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu giữa hai nớc mới ở mức rất khiêm tốn chỉ có 272 triệu USD, thì sau 5 năm đổi
mới, năm 1991 con số đó đã lên tới 879 triệu USD tăng gần gấp 3,2 lần đến năm 2001 đã
là 4.690 triệu USD tăng gấp 5,3 lần so với năm 1991. Năm 2003 trong 6 tháng đầu năm,
xuất khẩu sang Nhật đạt 1.370 triệu USD (tăng 32,9 % so với cùng kỳ năm 2002) với các
mặt hàng xuất khẩu chính là đồ thủy sản, dầu thô và các sản phẩm dệt may. Đặc biệt là các
sản phẩm từ sữa. Nhập khẩu 6 tháng đầu năm từ Nhật đạt 1.470 triệu USD (tăng 2,98 % so
với cùng kỳ năm 2002) các mặt hàng nhập khẩu chính là máy móc, thiết bị và phụ tùng
máy móc thiết bị, sắt/thép, máy tính và các linh kiện máy tính
Bảng 5: Tỷ trọng kim ngạch XNK Việt – Nhật trong tổng kim ngạch XNK của
Nhật Bản thời kỳ 1992 – 2003
(đơn vị: triệu USD)
N
ăm
XNK Việt –
Nhật
Tổng kim ngạch
XNK của Nhật Bản
Tỷ
trọng (%)
1
992
1,321 573.395 0,23
1
993
1,708 603.349 0,28
1
994
1,994 671.251 0,3
1
995
2,637 776.617 0,34
1
996
3,160 760.627 0,42
1
997
3,481 759.958 0,46
1
998
3,262 624.700 0,52
1
999
3,600 825.769 0,44
2
000
4,653 925.926 0,50
2
001
5,725 914.119 0,63
2
002
4,950
2
003*
2,840
(Nguồn : Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản JETRO)
Ghi chú: (*) - Tính trong 6 tháng đầu năm
Từ Bảng 4, cho ta thấy tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt – Nhật trong tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật Bản tăng rõ rệt trong từng năm. Điều đó thể hiện mối
quan tâm của Nhật Bản đối với thị trờng Việt Nam và triển vọng của mối quan hệ thơng
mại này. Những bảng số liệu trên cũng cho thấy thơng mại của Nhật Bản với Việt Nam chỉ
chiếm một tỷ trọng rất nhỏ bé 0,63 % năm 2001, nhỏ hơn rất nhiều so với tỷ trọng các nớc
nh Trung Quốc là 13,2 %; Singapore là 2,9 %; Malaysia là 2,7%; Thái Lan là 2,6%;
Philippin là 1,7%. Trong khi đó, bảng 5 lại cho thấy tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của
Việt – Nhật trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại khá cao, chiếm tỷ trọng
trung bình 15,7%. Điều này phản ánh sự phụ thuộc khá lớn của Việt nam trong quan hệ
thơng mại với Nhật Bản. Chỉ cần một thay đổi nhỏ trong nền kinh tế Nhật Bản sẽ dẫn đến
những thay đổi lớn cho Việt Nam.
Bảng 6: Tỷ trọng kim ngạch XNK Việt Nam – Nhật Bản trong tổng kim ngạch XNK của
Việt Nam thời kỳ 1992 – 2003
(Đơn vị: triệu USD)
Năm KNXNK Việt –
Nhật
Tổng KNXNK
của Việt Nam
Tỷ trọng(%)
1992 1.321 5.112 25,79
1993 1.708 6.909 24,72
1994 1.994 9.880 20.18
1995 2.637 13.604 19,38
1996 3.160 18.400 17,17
1997 3.418 20.777 16,75
1998 3.262 20.746 15,72
1999 3.600 23.159 15,54
2000 4.653 29.508 15,77
2001 5.725 31.200 18,35
2002 4.950 36.400 13,50
2003* 2.840 22.000 12,90
(Nguồn : Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản JERTRO)
Ghi chú (*): Tính trong 6 tháng đầu năm
Tuy nhiên, đáng lu ý là tỷ trọng KNXNK Việt – Nhật trong tổng KNXNK của Việt
Nam lại tăng giảm thất thờng.
Tình trạng đó là do một số nhân tố chủ yếu sau gây nên:
* Tình trạng quan liêu giấy tờ, sự mập mờ trong các chính sách vẫn còn đè nặng mà
nhà nớc ta cha có những biện pháp triệt để nhằm thúc đẩy sự phát triển thơng mại. Đây là,
lực cản lớn đối với tiềm năng phát triển quan hệ hợp tác thơng mại song phơng Việt –
Nhật. Không những thế, về phía Nhật Bản, họ cho biết: khá nhiều nhà doanh nghiệp Nhật
Bản muốn hợp tác với các nhà doanh nghiệp Việt Nam trong liên doanh đầu t phát triển
sản xuất và thơng mại, đặc biệt là tập trung vào khai thác những lợi thế so sánh sẵn có của
Việt Nam, để phát triển các mặt hàng có thể xuất khẩu sang thị trờng Nhật Bản. Song họ
còn e ngại môi trờng đầu t và kinh doanh ở Việt Nam còn có những vấn đề gây hạn chế
bất cập cho họ. Trong đó có sự e ngại về sự hay thay đổi chính sách và thủ tục hành chính
còn quá nhiều phiền phức của Việt Nam (mặc dù, sự thay đổi chính sách của Chính phủ ta
là; làm đơn giản thủ tục hành chính. Nhng sự thay đổi này, luôn diễn ra hàng năm gây ra
tâm lý nghi ngờ…). Đây rõ ràng là một trở ngại lớn mà phía Việt Nam cần có giải pháp
kịp thời khắc phục ngay;
* Cho đến nay, nhiều nhà doanh nghiệp Việt Nam thiếu chủ động trong việc thanh
toán nợ thơng mại cho các doanh nghiệp Nhật Bản. Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam lại
cha có những chính sách, biện pháp để giải quyết cho nhanh chóng, rõ ràng vấn đề này.
Đây cũng là những đề bức bách mà các nhà doanh nghiệp Nhật Bản đang mong chờ sự hỗ
trợ giải quyết của Chính phủ Việt Nam.
* Mặc dù, quan hệ hợp tác kinh tế thơng mại Việt Nam – Nhật Bản đã có một tiến
trình phát triển khá lâu dài. Hai bên đã là bạn hàng tin cậy của nhau trong nhiều năm qua.
Nhng cho đến nay phía Việt Nam vẫn cha có các văn phòng xúc tiến thơng mại của Chính
phủ, khiến cho hoạt động thơng mại của Việt Nam với Nhật Bản cũng bị hạn chế đi rất
nhiều. Chính phủ Việt Nam vẫn phó thác việc này cho các tham tán thơng mại tại sứ quán
của mình ở Nhật Bản.
* Cơ sở vật chất của ngành ngoại thơng Việt Nam còn quá nghèo nàn lạc hậu. Chính
vì vậy, đã không đủ để đáp ứng đợc những đòi hỏi của hoạt động buôn bán quốc tế, nhất là
các cơ sở hạ tầng nh kho chứa hàng, các cảng còn chật hẹp, thiết bị bốc dỡ thô sơ, ít đợc
nâng cấp…không đảm bảo cho các phơng tiện vận tải hiện đại nh tàu bè của các bạn hàng
nớc ngoài khi cập bến, cảng…
* Sự thiếu hụt đội ngũ chuyên gia thơng mại có năng lực, trình độ ngoại ngữ, ngoại
giao kinh tế và kinh nghiệm chuyên môn trong không ít các công ty xuất nhập khẩu của
Việt Nam đã làm hạn chế nhiều tới kết quả của các cuộc đàm phán, thơng lợng để ký kết
hoặc triển khai thực thi các hợp đồng thơng mại. Do đó, làm ảnh hởng trực tiếp đến kết
quả của các hoạt động kinh doanh giữa đôi bên. Hạn chế này, cũng cần phải khắc phục
nhanh, và nó trực tiếp liên quan đến việc đào tạo, giáo dục…. đòi hỏi, Chính phủ ta cần
phải quan tâm nhiều hơn na trong việc đổi mới lại, nâng cao công tác giáo dục, đào tạo và