Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Về cách tiếp cận triết học xã hội đối với hiện trạng môi trường sinh thái nhân văn ở việt nam các vấn đề, nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.32 KB, 15 trang )

VỀ CÁCH TIẾP CẬN TRIẾT HỌC - XÃ HỘI ĐỐI VỚI HIỆN TRẠNG
MÔI TRƯỜNG SINH THÁI NHÂN VĂN Ở VIỆT NAM: CÁC V ẤN ĐỀ,
NGUYÊN NHÂN VÀ GI ẢI PHÁP

Môi trường sống của con người và xã h ội loài người được gọi là mơi
trường tự nhiên - Người hố, môi trư ờng sinh thái - nhân văn hay môi
trường sinh thái xã h ội.
I. Môi trường sinh thái nhân văn: Các nhóm v ấn đề
Mơi trường sống của con người và xã hội lồi người được gọi là mơi trường
tự nhiên - Người hố, mơi trư ờng sinh thái - nhân văn hay môi trường sinh
thái xã hội.
Hiện trạng mơi trường sinh thái – nhân văn tồn cầu, cũng như ở nước ta
đang có nhi ều vấn đề bức xúc và nan giải - đó là những vấn đề sinh thái
nhân văn. Vấn đề sinh thái là sự tập hợp toàn bộ những vấn đề liên quan
đến mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa các hệ thống vật chất sống, từ
cơ thể (sinh thể, cả đơn bào lẫn đa bào) đ ến trên cơ th ể (quần thể, quần xã,
hệ sinh thái) v ới môi trường xung quanh chúng (các đi ều kiện vô cơ và h ữu
cơ); còn vấn đề sinh thái nhân văn bao gồm những vấn đề liên quan đ ến
mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau giữa con người và con người, giữa con
người và xã hội (với tư cách những hệ thống vật chất sống), con ng ười và
môi trường xung quanh, trước hết là với sinh quyển. Vì thế, môi trường
sinh thái nhân văn cần được xem xét, phân tích theo các nhóm v ấn đề chủ
yếu sau đây:
Một là, những vấn đề sinh thái nhân văn trong lĩnh v ực sản xuất và tiêu
dùng. Nền sản xuất xã hội là phương th ức trao đổi chất đặc thù của xã hội
lồi người với tự nhiên thơng qua chu trình sinh h ọc hay chu trình trao đ ổi
vật chất, năng lượng và thông tin. Do v ậy, các vấn đề sinh thái nhân văn
trước tiên xuất hiện trực tiếp trong lĩnh v ực mối quan hệ qua lại giữa con
người (xã hội) và t ự nhiên, thông qua quá trình s ản xuất vật chất và tiêu
dùng của xã hội. Để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng c ủa bản thân mình và
sự phát triển khơng ngừng của xã hội, con người - qua hoạt động sản xuất -




đã khai thác và sử dụng đến cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên .
Đồng thời, trong quá trình s ản xuất và tiêu dùng, con ngư ời và xã hội đã
thải bỏ vào môi trường tự nhiên vô s ố chất độc hại, mà chu trình sinh h ọc
khơng thể chấp nhận được và vì thế, đã gây nên nạn ơ nhiễm nặng nề mơi
trường sống. Đó là những vấn đề sinh thái nhân văn bức xúc nhất của thời
đại.
Hai là, những vấn đề sinh thái nhân văn trong lĩnh v ực mối quan hệ giữa
con ngư ời và con người. Trong quá trình trao đ ổi chất với tự nhiên - quá
trình sản xuất và tiêu dùng, con ngư ời không chỉ quan hệ và tác động qua
lại với tự nhiên, mà còn quan h ệ với nhau. Bởi vì, như C.Mác đã kh ẳng
định: chỉ có trong xã hội, tự nhiên đối với con người mới là cái khâu liên
hệ giữa con người với con người … Chính mối quan hệ giữa con người và
con người (quan hệ sản xuất nói riêng, quan hệ xã hội nói chung) trong q
trình sản xuất và tiêu dùng đã làm n ảy sinh bi ết bao vấn đề phức tạp, nan
giải, trong đó có c ả vấn đề sinh thái nhân văn.
Ba là, những vấn đề sinh thái nhân văn trong lĩnh v ực văn hoá tinh
thần. Quan hệ giữa con người và con người trong xã hội không ph ải chỉ là
các mối quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế, mặc dù đó là mối quan hệ cơ
bản tạo ra nền tảng của xã hội (hạ tầng cơ sở), mà còn bao gồm các mối
quan hệ văn hoá, tinh th ần được sản sinh ra trên nền tảng đó. Nếu xét trên
bình diện quan hệ giữa con người (xã hội) và tự nhiên thì đây chính là khía
cạnh văn hố sinh thái trong các v ấn đề sinh thái nhân văn - một khía cạnh
quan trọng với tên gọi là văn hoá học sinh thái nhân văn mà ngày nay đang
được cộng đồng Người trên toàn thế giới quan tâm.
Ba nhóm vấn đề sinh thái nhân văn cơ b ản trên đây đã t ạo nên toàn cảnh
hiện trạng mơi trường sống và đó cũng chính là cách ti ếp cận triết học - xã
hội - một cách tiếp cận toàn diện đối với các vấn đề sinh thái nhân văn. T ừ
cách tiếp cận này, chúng tơi s ẽ xem xét, phân tích các v ấn đề sinh thái nhân

văn trong đi ều kiện xã hội Việt Nam hiện nay.
II. Hiện trạng môi trường sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề bức
xúc


1. Các vấn đề sinh thái nhân văn trong lĩnh v ực sản xuất vật chất và tiêu
dùng: Nổi bật nhất trong lĩnh vực này là nguy cơ khan hi ếm và cạn kiệt dần
các nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng v ới sự gia tăng nạn ô nhi ễm môi
trường sống.
Sự cạn kiệt các ngu ồn tài nguyên thiên nhiên ở nước ta hiện nay là vấn đề
đã lên đến mức báo động, đặc biệt là rừng, đất đai, nước ngọt và sạch, tài
nguyên khoáng sản và đa dạng sinh học.
* Về rừng:
Đây là một trong nh ững nguồn tài nguyên thiên nhiên c ủa nước ta đang bị
con người tấn công và tàn phá d ữ dội nhất. Nếu như vào năm 1945, đ ộ che
phủ của rừng là 48% tổng diện tích cả nước thì sau hơn 50 năm, đ ặc biệt là
trong những thập niên 80, 90 của thế kỷ XX, độ che phủ của rừng đã giảm
sút một cách rất đáng lo ng ại, có lúc chỉ cịn khoảng 20%, dưới mức an tồn
cho phép (dưới 30% là báo đ ộng đối với môi trường). Theo số liệu thống kê
năm 2000, độ che phủ của rừng Việt Nam đã hồi phục trở lại và đạt trên
30%, nghĩa là đã vượt ra ngoài t ầm báo động. Tuy nhiên, sự hồi phục này
chủ yếu là do rừng mới trồng, giá trị sinh thái khơng cao.
Ngồi lý do ch ủ yếu là bị con người khai thác bừa bãi, sự suy giảm của
rừng nước ta còn do bị cháy, bị lũ lụt hoặc sâu bọ tàn phá. Trong những
năm gần đây, các v ụ cháy rừng ở U Minh Thượng, U Minh Hạ, Cà Mau,
Đắc Lắc v.v.; các v ụ sâu róm phá ho ại rừng ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình… đã tiêu hu ỷ hàng chục ngàn hécta rừng, trong đó có nh ững cánh
rừng nguyên thuỷ vô cùng quý hi ếm - những bảo tàng tự nhiên về đa dạng
sinh học hiếm hoi còn sót l ại trên Trái Đ ất. Nhìn chung, cho đ ến nay, rừng
Việt Nam vẫn đang tiếp tục giảm sút cả về mặt số lượng lẫn chất lượng,

mặc dù Nhà nước ta đã có l ệnh đóng cửa rừng từ năm 1996.
* Về đất đai:
Nguồn vốn đất đai của nước ta không ph ải là nhỏ so với nhiều nước trên thế
giới. Với 70% lao đ ộng và khoảng 80% dân số cả nước đang hoạt động,
sinh sống trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và nông thôn, đ ất đai, nhất
là đất canh tác nông nghi ệp luôn là ngu ồn vốn lớn, quan trọng của nền kinh


tế, là tài sản quý giá nhất đối với người Việt Nam. Tuy nhiên, ngu ồn tài
nguyên này cũng đang b ị suy giảm cả về số lượng, lẫn chất lượng do nhi ều
nguyên nhân khác nhau. Đ ất đai bị suy kiệt do rừng bị tàn phá nặng nề,
không điều hồ được nước, gây xói mịn, lở đất, laterít hố đ ất, vữa trơi các
chất màu mỡ v. v…; do các ho ạt động sản xuất nông nghi ệp hiện đại như
việc sử dụng máy móc cơ giới để làm đất, việc lạm dụng các chất hố học
trong phịng trừ dịch hại, các loại phân hoá học đã giết hại những quần thể
sinh vật có lợi trong đất, trong nước; do những tác động tiêu cực từ các
chất thải của sản xuất công nghiệp hoặc do việc mở rộng các làng nghề, do
việc đơ thị hóa, cơng nghi ệp hoá, v.v..
* Về tài nguyên nước ngọt và sạch:
Hiện nay, đối với Việt Nam và nhi ều nước khác trên th ế giới, nước ngọt và
sạch là một trong nh ững vấn đề sinh thái nhân văn b ức xúc, nan gi ải nhất.
Nhìn chung, do một số điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn nước ngọt của
Việt Nam không thi ếu, thậm chí có lúc cịn q th ừa thãi gây nên ng ập lụt
kéo dài. Tuy nhiên, nư ớc ngọt và sạch hiện nay ở nước ta đã có dấu hiệu
khan hiếm và trở thành một vấn đề sinh thái nhân văn cần được quan tâm
giải quyết. Bởi vì, phần lớn các nguồn nước ngọt và sạch, cả nước mặt, lẫn
các mạch nước ngầm đều đang bị ô nhiễm bởi các chất thải của sản xuất
công nghiệp, nông nghi ệp, thủ công nghi ệp, chất thải của các bệnh viện và
chất thải sinh hoạt. Hầu hết các loại nước thải đó đều chưa được xử lý và
trực tiếp đổ vào sông, ao, hồ, kênh rạch, cống rãnh... Trong khi đó, h ệ

thống cấp thốt nước ở các thành ph ố, thị xã, thị trấn thị tứ còn rất thô sơ,
không đồng bộ và thiếu nhiều. Các chất thải độc hại được đổ trực tiếp vào
môi trường đã làm ô nhi ễm nước của các con sông l ớn, ao, hồ, ngấm vào
các mạch nước ngầm - nguồn cung cấp nước ngọt và sạch cho mọi sinh hoạt
đời sống của người dân ở cả thành thị và nông thôn. Vi ệc lọc và làm s ạch
nước ở các nhà máy nước chủ yếu chỉ mới loại trừ được các chất lắng đọng,
hạn chế ơ nhiễm sinh học, cịn các hố ch ất độc hại thì rất khó có th ể làm
sạch được, bởi vì, chúng vơ cùng đa d ạng, phức tạp.
* Về các nguồn tài nguyên khoáng s ản, nguyên, nhiên vật liệu


Đây là những nguồn tài nguyên thiên nhiên r ất cần cho q trình cơng
nghiệp hố đất nước. Các nguồn tài nguyên này ở nước ta khá phong phú,
đa dạng về chủng loại, nhưng trữ lượng khơng cao, ngồi ngu ồn dầu hoả và
khí đốt. Nhìn chung, các ngu ồn tài nguyên kh oáng sản, vật liệu xây dựng,
vàng, bạc, đá quý… của chúng ta đang bị khai thác bừa bãi, s ử dụng chưa
thật có hiệu quả và trở nên khan hi ếm dần.
* Về tài nguyên đa d ạng sinh học
Đa dạng sinh học là một tiêu chí quan trọng để đánh giá ch ất lượng môi
trường sống và do đó, cũng là m ột vấn đề sinh thái nhân văn. Tài nguyên đa
dạng sinh học của nước ta vào loại phong phú và mang tính đ ặc thù của
mơi trường nhiệt đới gió mùa. Tuy nhiên , trong những năm gần đây, nguồn
tài nguyên này đã và đang b ị khai thác bừa bãi, tuỳ tiện; nạn xuất khẩu bất
hợp pháp các lo ại động thực vật quý hiếm, đặc biệt là các loại động vật
hoang dã, các lo ại gỗ, dược liệu quý ngày càng gia tăng. Ngoài ra, n ạn cháy
rừng, lũ lụt, hạn hán cũng góp ph ần quan trọng vào vi ệc làm suy gi ảm chất
lượng nguồn tài nguyên đa d ạng sinh học này.
Việc nhập khẩu chưa qua thẩm định kỹ về mặt khoa học và sự xâm nhập của
các loại sinh vật lạ, có hại như Ốc bươu vàng, H ải ly, cây Trinh nữ đầm
lầy, chim Sáo đá, cá Răng dao, bèo Nh ật Bản v.v. đang gây tác h ại không

nhỏ cho mùa màng, cho s ức khoẻ của con người và môi trường sống.
Nạn ô nhiễm môi trư ờng sống.
* Trong các loại ô nhiễm môi trường, ô nhiễm môi trường nước là loại ô
nhiễm nguy hiểm hàng đầu đối với con người. Bởi vì, mọi hoạt động của
con người từ sản xuất, tiêu dùng, đ ến sinh hoạt đời sống hàng ngày đ ều cần
đến nước ngọt và sạch. Tuy nhiên, phần lớn các nguồn cung cấp nước sạch
và ngọt của chúng ta đều đã bị ô nhiễm bởi nhiều loại ô nhiễm khác nhau:
vi sinh, các ch ất hoá học, các chất dinh dưỡng, bùn đất lắng đọng, nhiễm
mặn, nhiễm chua phèn… có nơi đ ộ ô nhiễm rất cao, vượt từ 5 - 10 lần, thậm
chí đến 20 lần hoặc cao hơn nữa so với tiêu chu ẩn cho phép.
* Ơ nhiễm khơng khí và chất thải rắn. Những khí thải, chất thải rắn có chứa
nhiều độc tố của các nhà máy, các cơ s ở sản xuất thủ công, các cơ sở chế


biến lương thực và thực phẩm, các bệnh viện, các khu chăn ni… cùng v ới
khí thải độc hại của hàng chục triệu phương ti ện giao thông vận tải là
những nguồn gây ô nhiễm nguy hiểm và tiềm tàng cho môi trư ờng sống,
nhất là ở các thành phố lớn. Lượng rác thải do sinh ho ạt và sản xuất ngày
càng gia tăng, trong khi đó, các phương ti ện và cơng ngh ệ xử lý chưa có
những thay đổi cơ bản, chủ yếu vẫn chỉ là chôn lấp lẫn lộn các loại rác vào
cùng một chỗ. Hầu hết các đô thị và khu công nghi ệp đều chưa có các nhà
máy chế biến, phân huỷ, hay đốt chuyên nghi ệp các loại rác độc hại, nguy
hiểm.
2. Một số vấn đề sinh thái nhân văn cơ b ản trong lĩnh vực mối quan hệ
giữa con ngư ời với con người.
* Về vấn đề ô nhiễm môi trường xã hội. Trong những năm gần đây, nhi ều tệ
nạn xã hội đã, đang bùng phát m ột cách hết sức nhanh chóng và ph ổ biến,
nhất là nạn bn bán và s ử dụng tràn lan các lo ại chất ma tuý gây nghi ện,
các chất kích thích s ự điên loạn, cuồng dâm và b ạo lực của con người, tệ
nạn mại dâm … Từ đó, gây nên nh ững căn bệnh hiểm nghèo như các bệnh

xã hội (lậu, giang mai… ), nghi ện hút, đặc biệt nguy hi ểm nhất là HIV AISD. Đây không ch ỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà thực chất còn là một
vấn đề sinh thái nhân văn nan gi ải. Bởi vì, các t ệ nạn xã hội này đã tàn phá
con người từ trong bản chất sinh học của nó, như gây nên nh ững biến đổi
về gen theo chi ều hướng xấu, làm cho nh ững đứa trẻ mới sinh đã mang
những bệnh tật nguy hiểm, mang những dị tật bẩm sinh hoặc chết ngay sau
khi được sinh ra… Điều nguy hiểm là càng ngăn ch ặn, chúng càng bung ra
và phát tri ển nhanh hơn, rộng hơn; đồng thời, liên quan đ ến nhiều tệ nạn xã
hội khác nữa như buôn l ậu, cướp giật, trộm cắp v.v… gây ra mất trật tự, an
toàn xã hội, tàn phá sức lực của con người, làm suy yếu lực lượng lao động
xã hội. Ngồi ra, mơi trường xã hội còn bị đe doạ bởi các đại dịch nguy
hiểm, như dịch SARS, dịch cúm gà (H5N1),… có kh ả năng lan tràn r ất
nhanh và gây chết người.
* Vấn đề vệ sinh, an toàn lương th ực thực phẩm. Chất lượng các s ản phẩm
nông nghiệp như lương th ực, thực phẩm ngày nay không chỉ là sự biểu hiện
giá trị sức lao động của người nơng dân, mà cịn bi ểu hiện cả những giá trị


đạo đức sinh thái c ủa họ. Vì lợi ích cá nhân trước mắt, nhiều người sản
xuất đã lạm dụng các ch ất phòng trừ dịch hại, các loại thuốc kích thích cây
trồng và vật ni, các hố ch ất độc hại trong bảo quản cũng như ch ế biến
lương thực, thực phẩm… gây mất an toàn và r ất nguy hi ểm cho người tiêu
dùng. Trong nhi ều trường hợp, tình trạng đó đã dẫn đến hiện tượng ngộ
độc, những bệnh tật hiểm nghèo và tử vong… Tính nghiêm tr ọng của vấn đề
đã đến mức phải báo động trong tồn xã h ội.
* Đói nghèo và xố đói gi ảm nghèo là m ột trong những vấn đề sinh thái
nhân văn bức bách ở Việt Nam hiện nay.
Nghèo đói cũng là m ột trong những nguyên nhân căn b ản dẫn đến sự phá
hoại môi trường. Hiện nay, ở nước ta, tỷ lệ những người thuộc diện đói
nghèo vẫn cịn khá cao (kho ảng 12%); trong đó, ph ần lớn tập trung ở các
vùng rừng sâu, núi cao, h ải đảo xa xôi. Họ hầu như không được hưởng

những thành quả của sự phát triển kinh t ế - xã hội, nghĩa là chưa đư ợc đối
xử một cách cơng b ằng và bình đ ẳng trong vi ệc hưởng thụ các tài nguyên
thiên nhiên của đất nước. Cuộc sống của họ gắn bó chặt chẽ và phụ thuộc
trực tiếp vào thiên nhiên. Do v ậy, dù bi ết hay không biết đến các vấn đề
môi trường sinh thái đang n ảy sinh, họ buộc phải tìm kiếm sự mưu sinh
bằng cách vắt kiệt các nguồn tài nguyên có th ể khai thác được. Điều đó
chứng tỏ rằng, sự nghèo đói cũng là m ột vấn đề sinh thái nhân văn c ần
được quan tâm gi ải quyết.
3. Các vấn đề sinh thái nhân văn trong lĩnh v ực hoạt động văn hố tinh
thần hay khía cạnh văn hoá của sinh thái nhân văn .
Đây là một trong nh ững vấn đề hiện đang được nhân loại đặc biệt quan tâm
trong khi giải quyết vấn đề bảo vệ mơi trường. Khía cạnh văn hố của sinh
thái nhân văn bao g ồm một số nội dung chủ yếu, như ý thức sinh thái, đ ạo
đức sinh thái, l ối sống văn hoá sinh thái v.v…
* Vấn đề ý thức sinh thái.
Một trong những vấn đề sinh thái nhân văn gay c ấn và bức xúc nhất ở nước
ta hiện nay là sự nhận thức về môi trường và bảo vệ mơi trường của người
dân, thậm chí của cả những nhà quản lý xã hội các cấp đều còn thấp, hay


nói một khác, ý thức sinh thái và lối tư duy sinh thái của người Việt Nam
cho đến nay vẫn cịn ở trình độ thấp - trình độ của người sản xuất tiểu
nông và chưa đư ợc phổ biến trong tồn xã hội. Đó là thực trạng và cũng là
ngun nhân quan tr ọng đưa đến những hậu quả tiêu cực cho môi trường
sống.
* Vấn đề đạo đức sinh thái và lối sống văn hóa sinh thái
Đạo đức và lối sống văn hoá sinh thái truy ền thống của người Việt Nam
được hình thành trên cơ s ở của nền văn minh nơng nghi ệp lúa nước cịn ở
trình độ phát triển thấp. Có thể gọi đó là lối sống văn hố sinh thái ti ểu
nơng với đặc trưng cơ b ản tích cực là sống hài hồ với thiên nhiên, thu ận

theo thiên nhiên, nhưng l ại chưa bi ết khai thác thiên nhiên m ột cách khoa
học, hợp lý để phát triển xã hội. Các thói quen, phong t ục, tập qn của lối
sống tiểu nơng đó, ngồi m ặt tích cực như trên đã nói, cịn ch ứa đựng
những nét chưa đẹp, không phù hợp và bất cập so với sự phát triển của xã
hội hiện đại, nhất là trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, như sự tự do, tuỳ
tiện, "được chăng hay chớ", "lợi bất cập hại", thiển cận, "tham thúng bỏ
nia", v.v… Lối sống văn hố sinh thái ti ểu nơng cịn khơng thích ứng với
lối sống cơng nghiệp hố, hiện đại hố, thị trường hố, đơ thị hố ngày nay.
* Vấn đề thiếu hụt những tri thức và thông tin v ề môi trư ờng và bảo vệ môi
trường.
Điều này đặc biệt nghiêm trọng và liên quan tới phần lớn những người nông
dân. Sự thiếu hiểu biết về môi trường cộng với quan ni ệm thiển cận về các
lợi ích cục bộ, trước mắt của người dân thường dẫn họ đến những hành
động vô ý thức, làm tổn hại đến môi trường, như sử dụng khơng đúng lúc,
đúng cách, l ạm dụng hố chất trong sản xuất, bảo quản, chế biến lương
thực, thực phẩm hoặc dùng chất nổ, xung đi ện đánh bắt thuỷ, hải sản; khai
thác rừng, đất đai và nhi ều loại khoáng s ản quý hiếm khác một cách tự do,
tuỳ tiện làm suy gi ảm chất lượng cũng như biến dạng cảnh quan môi
trường.
4. Vấn đề phát tri ển bền vững ở Việt Nam


Là một thành viên c ủa mái nhà chung Trái Đ ất, để tồn tại và phát tri ển,
Việt Nam không th ể không tham gia vào chi ến lược phát tri ển bền vững của
thế giới với ba mục tiêu cơ bản: 1) Về kinh tế: tăng trưởng kinh t ế nhanh,
ổn định và an toàn; 2) Về xã hội nhân văn : thực hiện sự công bằng và bình
đẳng xã hội, nâng cao các chỉ số phát tri ển con người (HDI) …; 3) Về môi
trường: bảo vệ, cải thiện và không ngừng nâng cao chất lượng môi trường
sống. Ba mục tiêu này được Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển
bền vững năm 2002 t ại Nam Phi coi là ba trụ cột để phát triển bền

vững: "Phát triển kinh t ế phải đi kèm với bảo vệ môi trường và công bằng
xã hội ở khắp các cấp độ địa phương, quốc gia, khu vực và toàn cầu”. Hội
nghị đã chỉ ra năm vấn đề chủ chốt mang tính tồn c ầu cần được tập trung
giải quyết trong tương lai g ần: 1) Cung cấp nước sạch và xử lý nước thải;
2) Cung cấp năng lượng mới (năng lượng sạch như năng lượng mặt trời, sức
gió, địa nhiệt) để thay năng lượng sản xuất từ dầu mỏ, than đá; 3) V ề y tế:
tập trung phòng chống các loại dịch bệnh như HIV - AIDS, sốt rét, lao
phổi; 4) Phát tri ển nông nghi ệp, chống sa mạc hố đất đai, gi ảm tỷ lệ đói
nghèo trên toàn th ế giới; 5) Bảo vệ sự đa dạng sinh học và cải tạo hệ sinh
thái.
Các vấn đề nêu trên đây cũng đang là v ấn đề sinh thái nhân văn b ức xúc
của xã hội Việt Nam hiện nay. Căn cứ theo những điều kiện cụ thể, Việt
Nam đã vạch ra Chương trình nghị sự 21 của mình với những bước đi phù
hợp.
III. Các nguyên nhân ch ủ yếu gây nên hiện trạng môi trường sinh thái
nhân văn ở Việt Nam
1. Nguyên nhân quan tr ọng đầu tiên là sự nhận thức về môi trường và bảo
vệ mơi trường của người dân nói chung và các c án bộ lãnh đạo, quản lý
nhà nước nói riêng cịn th ấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát tri ển của xã
hội hiện đại. Ý thức sinh thái, l ối tư duy sinh thái của người dân cịn ở
trình độ cảm tính, kinh nghi ệm chủ nghĩa. Ý th ức sinh thái mới chưa được
phổ biến và do đó, chưa đi vào l ối sống, nếp sống để trở thành thói quen,
tập quán của đại bộ phận nhân dân.


2. Mặt trái của kinh tế thị trường là một tác nhân d ẫn đến sự suy giảm chất
lượng môi trường. Xuất phát từ việc đặt lợi ích trước mắt lên trên h ết, đặc
biệt là lợi ích kinh tế, kinh tế thị trường đã tạo ra một sự kích thích m ạnh
mẽ đối với người dân trong vi ệc khai thác các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, buôn bán các ch ất ma tuý, kích thích, gây nghi ện, cũng như vi ệc lạm

dụng các hoá ch ất trong sản xuất và tiêu dùng, xuất khẩu "chui" nh ững
động thực vật q hi ếm, thậm chí cịn bn bán c ả phụ nữ và trẻ em, nhập
lậu những động, thực vật lạ, gây hại... Nói cách khác, m ặt trái của kinh tế
thị trường đã tạo nên một sức ép to l ớn đối với tài nguyên, môi trư ờng.
3. Luật pháp về bảo vệ môi trường và nhi ều văn bản pháp lý dưới luật đã
được công bố nhưng chưa được thực thi một cách nghiêm minh.
4. Chưa có sự chuyển biến tích cực từ lối sống văn hố sinh thái ti ểu nơng
sang lối sống văn hố sinh thái m ới, lấy các tiêu chí phát triển bền vững
làm nền tảng.
5. Đạo đức sinh thái truyền thống, tuy có nhi ều mặt tích cực, song vẫn có
những tiêu cực và không phù hợp với điều kiện phát tri ển mới của xã hội
Việt Nam; trong khi đó, đ ạo đức sinh thái mới chưa được hình thành. Trong
việc đánh giá con người, đạo đức sinh thái chưa thực sự được coi như m ột
phẩm chất đạo đức mới và cần thiết của con người hiện đại.
6. Các chính sách xã h ội trong lĩnh v ực môi trường và bảo vệ môi trường
chưa thực sự cập nhật và phù hợp. Chương trình xố đói, gi ảm nghèo chưa
tính đến sự công bằng đối với những người dân các vùng sâu, vùng xa, núi
cao, rừng sâu, hải đảo trong vi ệc hưởng thụ các sản phẩm và dịch vụ có
được từ chế biến các ngu ồn tài nguyên thiên nhiên c ủa đất nước, cũng như
công lao của họ đối với việc bảo vệ các nguồn tài nguyên đó ở những vị trí
địa đầu của Tổ quốc.
7. Việc giáo dục, truyền thông, trang bị những tri thức về môi trường và
bảo vệ mơi trường, một mặt, tiến hành cịn ch ậm chạp và không hi ệu quả;
mặt khác, mạng lưới truyền thơng cũng chưa hồn thi ện và phổ biến. Do đó,
khơng phổ cập được những kiến thức cần thiết về môi trường cho đông đ ảo
quần chúng nhân dân.


8. Việc giáo dục, đào tạo chính quy về mơi trư ờng và sinh thái tiến hành
không đồng bộ và cũng chỉ mới được đưa vào chương trình giáo d ục quốc

gia trong nh ững năm gần đây, do đó, tính hi ệu quả chưa cao.
9. Chưa có những biện pháp kinh t ế, luật pháp và hành chính đủ mạnh để
hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động của con người theo hướng “thân mơi
trường”, đặc biệt là để kiểm sốt, trừng phạt… những kẻ cố tình xâm h ại
mơi trường và tài nguyên thiên nhiên c ủa đất nước.
10. Việc thực hiện công tác qu ản lý nhà nước về mơi trư ờng cịn chưa đồng
bộ và nhất qn từ Trung ương đ ến các địa phương, thi ếu sự thống nhất và
phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các c ấp hữu quan.
IV. Một số giải pháp chủ yếu đối với các vấn đề sinh thái nhân văn hi ện
nay
1. Nhóm giải pháp về kinh tế - xã hội
* Sử dụng cơ chế lợi ích. Những hoạt động trong vi ệc khai thác các ngu ồn
tài nguyên thiên nhiên và mơi trư ờng cho q trình s ản xuất, tiêu dùng đ ều
nhằm thoả mãn nhu cầu và để đạt đến lợi ích của con người. Bởi vậy, phải
sử dụng cơ chế lợi ích như một cơng cụ để điều chỉnh hoạt động của các
chủ thể.
Trong xã hội, lợi ích được điều chỉnh bằng các bi ện pháp kinh tế, luật pháp
và đạo đức (sự tự ý thức của con người). Các bi ện pháp này g ắn bó chặt
chẽ với nhau, đặc biệt là biện pháp kinh tế và luật pháp. Bởi vậy, trước hết
cần phải có một “Bộ luật về môi trường và bảo vệ môi trường” một cách
hoàn chỉnh, toàn di ện, sát thực, các đi ều luật phải rõ ràng, cụ thể. Bộ luật
này cùng với những văn bản dưới luật về môi trường sẽ là hành lang pháp
lý cho hoạt động bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là
phải làm cho bộ luật đó có hi ệu lực và được thực thi một cách nghiêm
minh. Ở đây, phải cần đến các biện pháp kinh tế. Phải sử dụng cơ chế lợi
ích kinh t ế như một công cụ vừa thúc đẩy các hoạt động tích cực, vừa trừng
phạt, ngăn chặn các hoạt động tiêu cực của con người trong lĩnh v ực bảo vệ
môi trường.



Tuy nhiên, n ếu chỉ sử dụng cơ chế lợi ích trong các bi ện pháp kinh tế và
pháp luật như một biện pháp duy nh ất thì sẽ khơng đủ để điều chỉnh mọi
hành vi của con người trong quan h ệ với môi trường thiên nhiên. Hơn n ữa,
kinh tế và pháp luật khơng bao giờ có thể bao quát hết mọi hành vi chưa
đạt đến mức độ phải xem xét bằng các bi ện pháp kinh t ế và pháp lu ật. Ở
đây, cần phải sử dụng cả cơ chế lợi ích trong đạo đức - cụ thể là đạo đức
sinh thái - đó là sự tự ý thức.
* Song song với giải pháp về cơ chế lợi ích, cịn cần phải sử dụng
nhiều biện pháp kinh tế - xã hội khác, như x ây dựng các chính sách xã h ội
về bảo vệ mơi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên phù hợp với
điều kiện ở nước ta hiện nay, đặc biệt là trong vi ệc xố đói, gi ảm nghèo
cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, nh ững vùng có các đi ều kiện thiên nhiên
khắc nghiệt; xây dựng và thực hiện đồng bộ các chính sách xã h ội nhằm
đảm bảo sự công bằng cho người dân trong vi ệc hưởng thụ những lợi ích do
việc khai thác, chế biến và sử dụng các nguồn tài nguyên đó mang l ại. Cần
có những dự án, những chương trình thi ết thực giúp người dân khai thác, s ử
dụng hợp lý các ngu ồn tài nguyên thiên nhiên và môi trư ờng, đặc biệt là
nguồn tài nguyên đa dạng sinh học đặc trưng phù hợp với từng vùng, từng
miền để họ có thể tự cải thiện cuộc sống ngay trên quê hương mình, mà
khơng phá ho ại mơi trường. Đồng thời, cần nhanh chóng xây d ựng và hồn
thiện cơ sở hạ tầng vật chất - kỹ thuật, như hệ thống cấp thoát nước đồng
bộ, mạng lưới điện, mạng lưới giao thơng v ận tải, v.v..; thường xun duy
trì các phong trào qu ần chúng bảo vệ môi trường, như phong trào trồng cây
gây rừng; trồng cây xanh ở các thành phố; hệ thống VACB (vườn cây, ao
cá, chuồng gia súc, hầm ủ khí sinh học); xây dựng nếp sống văn hố sinh
thái: xanh - sạch - đẹp; v.v… Đó chính là nh ững biểu hiện cụ thể của chiến
lược xã hội hố cơng tác bảo vệ mơi trường.
2. Nhóm giải pháp về văn hoá tinh thần
* Nâng cao nh ận thức về mơi trường.
- Thực hiện một chương trình giáo d ục thường xuyên, cập nhật và cơ bản về

môi trường và sinh thái cho m ọi đối tượng trong xã hội, từ nhà trẻ, mẫu
giáo đến đại học và sau đại học. Việc giáo dục phải được tiến hành đồng


bộ, có sự kết hợp giữa gia đình, nhà trư ờng và xã hội thông qua h ệ thống
phương tiện truyền thơng đại chúng. Ngồi ra, c ần tiến hành giáo dục môi
trường thông qua các ho ạt động tham quan, du l ịch, hội hè, các hình th ức
văn học, nghệ thuật như phim, ảnh, hội họa, ca nhạc, sáng tác văn thơ,
v.v…
- Giáo dục nâng cao nhận thức về môi trường và bảo vệ môi trường phải đi
qua các bước: Bước 1 - Trang bị những tri thức cần thiết về môi trường và
bảo vệ môi trường. Đây là những tri thức liên ngành, tổng hợp, do vậy, địi
hỏi người làm cơng tác giáo d ục phải có một trình độ học thức nhất định,
đặc biệt là có ki ến thức cơ bản về môi trường. Bước 2 - Hành động. Những
người được giáo dục phải biết vận dụng những tri thức học được ở nhà
trường vào hoạt động thực tiễn. Bước 3 - Hành động có cam kết. Việc vận
dụng những tri thức về môi trường vào hoạt động thực tiễn chỉ có hiệu quả
tích cực khi mỗi chủ thể hành động có ý thức trách nhiệm đối với kết quả
hoạt động của mình.
* Xây dựng ý thức sinh thái, lối tư duy sinh thái cho c ộng đồng - một trong
những giải pháp quyết định nâng cao ý th ức của người dân trong vi ệc bảo
vệ môi trường. Cụ thể, cần trang bị cho con người những quan ni ệm đúng
đắn về các yếu tố môi trường và sinh thái, về mối tương tác gi ữa chúng,
cũng như về mối quan hệ và tác động qua lại giữa con người (xã hội) với
môi trường thiên nhiên; v ề sự thích nghi của con người và những giới hạn
biến đổi môi trường thiên nhiên của con người, nhằm bảo toàn sự toàn vẹn
của hệ thống “Tự nhiên - Con người - Xã hội” hướng đến mục tiêu phát
triển bền vững của xã hội. Đồng thời, xây dựng cho con người những tình
cảm, thái độ, nghĩa v ụ, trách nhiệm, cách ứng xử phù hợp, có văn hố đ ối
với mơi trường thiên nhiên; các đ ịnh hướng hành động mới nhằm sửa chữa

những sai lầm và thi ết lập mối quan hệ hài hoà thật sự giữa con người (xã
hội) với tự nhiên. Trên thực tế, ý thức sinh thái đư ợc biểu hiện dưới các
khía cạnh khác nhau của ý thức xã hội như khía cạnh chính trị, khía cạnh
pháp luật, khía cạnh đạo đức, khía cạnh thẩm mỹ và cả khía cạnh tơn giáo.
Do vậy, việc xây dựng ý thức sinh thái cần phải dựa trên cơ s ở các khía
cạnh này.


* Các giải pháp về văn hoá và tâm lý xã h ội. Cần đặc biệt quan tâm xây
dựng lối sống, nếp sống văn hoá sinh thái m ới phù hợp với những điều kiện
phát triển của đất nước và thời đại, mà cơ sở của nó là quan đi ểm phát tri ển
bền vững. Đạo đức sinh thái ph ải được coi là một phẩm chất cần thiết, một
tiêu chuẩn đạo đức của con người trong thời đại ngày nay. Đ ồng thời, chú ý
sử dụng các yếu tố tâm lý như một công cụ đắc lực trong vi ệc bảo vệ môi
trường, như tạo dư luận xã hội - ủng hộ, khuyến khích những hành đ ộng
tích cực và phản đối, lên án những hành động tiêu cực trong lĩnh v ực bảo
vệ môi trường. Cùng với việc thực hiện tốt Luật bảo vệ môi trường, cần
khôi phục và phát huy nh ững giá trị truyền thống tốt đẹp qua các lu ật tục,
tập quán bảo vệ môi trường của nhân dân.
3. Giải pháp về hợp tác quốc tế và khu vực trong bảo vệ môi trường
Ngày nay, bảo vệ môi trường đã trở thành một nhiệm vụ chung, mang tính
tồn cầu. Bởi vậy, để bảo vệ mơi trường và phát tri ển bền vững, không th ể
thiếu giải pháp hợp tác quốc tế. Cụ thể là chúng ta p hải tham gia các hoạt
động nghiên cứu, ký kết và cam kết thực hiện đầy đủ các công ước, các
nghị định thư quốc tế về bảo vệ môi trường; thực hiện đầy đủ, nghiêm túc
các tiêu chuẩn quốc tế về quản lý và bảo vệ môi trường: ISO 14000, 14001,
14010, 14011, 14012, v.v. và nhiều tiêu chuẩn về vệ sinh, an toàn lương
thực thực phẩm, v.v…
Nhằm thực hiện chiến lược phát tri ển bền vững, quan đi ểm của Đảng ta là:
“Phát triển kinh t ế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường,

bảo đảm sự hài hồ giữa mơi trường nhân tạo với mơi trường thiên nhiên,
giữ gìn đa dạng sinh học… Bảo vệ và cải tạo môi trường là trách nhi ệm của
toàn xã hội, tăng cường quản lý nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức trách
nhiệm của mọi người dân… coi yêu c ầu về môi trường là một tiêu chí qu an
trọng đánh giá các gi ải pháp phát tri ển”([1]). Bởi vậy, việc phân tích, đưa
ra những đánh giá tổng quát, hệ thống và toàn di ện - từ cách ti ếp cận triết
học - xã hội - về hiện trạng môi trường sinh thái nhân văn c ủa nước ta hiện
nay là một trong những điều kiện cần thiết để đưa đường lối của Đảng vào
thực tiễn cuộc sống.


(*) Phó giáo sư, ti ến sĩ triết học, Trưởng phịng Tri ết học trong khoa học tự
nhiên và mơi trường, Viện Triết học.
([1]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qu ốc lần
thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 163 - 164.



×